VRNs (03.05.2013) – Washington DC, USA – Đảng ngồi lên Hiến pháp ở Hội nghị Trung ương 7
Cứ mỗi dịp 30-4 về, vết thương dân tộc lại bị bóc ra cho máu chảy. Năm 2013 cũng như 37 năm trước, không thay đổi.
Tại sao?
Nói như ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người VN ở nước ngoài
(UBNNVNVNONN) thì nguyên nhân “do cả hai phía”, Chính phủ Việt Nam và Kiều bào, nhưng phía nào có trách nhiệm cao hơn?
Ông Sơn nói với Báo Thanh Niên ngày 30-4-2013: “Thực
tế đúng là chúng ta chưa làm tốt được vấn đề đại đoàn kết dân tộc, xóa
đi hận thù, xóa đi những rào cản từ quá khứ chiến tranh. Nguyên nhân tôi
cho là do cả hai phía. Từ thực tế ấy đòi hỏi phía Nhà nước cần tiếp tục
có những quyết sách hợp lý đem lại sự tin tưởng cho dân nói chung. Tức
là cần có những chính sách đem lại lợi ích thiết thực cho kiều bào như
các chính sách về quốc tịch, xuất nhập cảnh, hồi hương rồi các vấn đề
liên quan đến chuyện kiều bào về đầu tư trong nước.”
Nhưng những thứ được ông Sơn cho là
“lợi ích thiết thực” của “kiều bào”, thiết tưởng không quan trọng và tác
động mạnh khiến kiều bào phải xa lánh Việt Nam bằng những hành động kỳ
thị, bóc lột và đàn áp người dân của nhà nước trong các vụ cướp đất
trằng trợn ở Văn Giang (Hưng Yên), Vụ Bản (Nam Định) và ở Tiên Lãng
(Hải Phòng) đối với gia đình hai anh em ông Đòan Văn Vươn và Đòan Văn
Qúy.
Hình ảnh từ các vụ này và những cuộc
biểu tình, khiếu kiện đông người khác của người dân đi đòi công bằng,
chống bất công và tố cáo cán bộ, đảng viên tham nhũng đang xẩy ra từ
Tỉnh, Thành lên đến Trung ương ở Việt Nam đã cho kiều bào thấy rõ ở
Việt Nam không có một “Nhà nước pháp quyền” như đảng tuyên truyền.
Ngòai ra việc các “chủ qủan của các dự
án kinh tế và xây dựng đô thị”, như Ecopark (Hưng Yên) không chỉ có
“các nhóm lợi ích” thế lực và có tiền được nhà nước ưu đãi mà còn có
thể cấu kết với chính quyền để sử dụng quân đội, công an và côn đồ để
cưỡng chế mà không hề bị truy tố thì kiều bào chỉ thấy đó là một chính
quyền đã bị băng đảng chi phối !
Nếu cần phải liệt kê thêm những việc
Việt kiều rất sợ về Việt Nam để “hòa hợp” với nhà nước thì các vụ người
dân biểu tình bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và chống chủ trương lấn chiếm
biển đảo Việt Nam của Trung Cộng ở Biển Đông trong hai năm 1011 và 2012,
từ Sài Gòn ra Hà Nội, đã bị công an đàn áp dã man, bắt bỏ tù là một
bằng chứng khác.
Vì vậy khi ông Sơn nói rằng: “38 năm
nay mình vẫn nói là thống nhất đất nước. Nhưng thống nhất đất nước mà
chưa thống nhất được lòng người bởi lẽ còn một bộ phận người VN ở nước
ngoài vẫn đang tiếp tục có những hành động đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc” là ông muốn quanh co, tránh né sự thật là đảng CSVN từ khi có Nghị quyết 36 ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”,
chưa bao giờ thật lòng muốn “hòa giải” với người Việt Nam ở nước ngòai
mà chỉ muốn người bỏ nước ra đi quay về “hòa hợp” vào với guồng máy cai
trị độc tài của đảng để xây dựng đất nước theo chỉ thị và ý muốn của
chính quyền.
LÝ DO VIỆT KIỀU LÃNH ĐẠM
Nhưng thế nào là “lợi ích chung của dân tộc”,
theo định nghĩa của nhà nước Việt Nam? Phải chăng đó là khi người Việt ở
nước ngòai không còn chống Việt Nam vi phạm các quyền con người, không
lên án và tố cáo trước dư luận thế giới mỗi khi công an bắt người vô cớ,
bỏ tù tùy tiện và xử án bất công những công dân dám can đảm đấu tranh
cho dân chủ và đòi quyền được tự do ngôn luận, và chấm dứt các cuộc biểu
tình lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền và nhu nhược trước đe dọa xâm
lăng của Trung Cộng ?
Những vụ án xử bất công đối với Linh mục
Nguyễn Văn Lý, Ông Vi Đức Hồi, Tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ, Kỹ sư tin học
Trần Hùynh Duy Thức, các Nhà báo tự do Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải, Tạ
Phong Tần v.v…đã chứng minh cho lý do tại sao đảng CSVN đã không thể
“hòa hợp” hay “hòa giải” được với “Việt kiều” vì đảng vẫn tiếp tục đàn
áp các công dân muốn thực thi các quyền tự do đã được Hiến pháp công
nhận.
Nếu ông Thứ trưởng Ngọai giao chuyên
trách về người Việt Nam ở nước ngòai Nguyễn Thanh Sơn vẫn chưa hiểu tại
sao, sau 38 năm “đất nước đã quy về một mối”mà nhà nước CSVN chưa được
400,000 trí thức Việt kiều về giúp nước thì nên hỏi thẳng Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng xem có cần phải “vạch áo cho người xem lưng” nữa không?
Việc nổi bất nhất cần nói cho “bàn dân
thiên hạ” biết về tính siêu việt bôi bác của đảng là chuyện thời sự phản
dân chủ của bản Hiến pháp 1992 sửa đổi sẽ được thảo luận tại Quốc hội
trong 2 ngày 10 và 11/06/2013, sau khi đem ra “trình làng” với Bộ Chính
trị và Hội nghị Trung ương đảng kỳ 7.
Dù không có điều nào trong 5 Hiến pháp
từ 1946,1958,1980,1992 và 1992 (sửa đổi) cho phép Bộ Chính trị và Ban
Chấp hành Trung ương được “làm, sửa đổi và thảo luận Hiến pháp” nhưng
đảng vẫn tiếm quyền không coi pháp luật ra gì thì làm sao mà dân có thể
chấp nhận được, nói chi đến hàng ngũ Việt kiều, những người sống và hiểu
biết các chế độ dân chủ tại các nước sở tại hơn ai hết?
Chủ tịch Quốc hội, Trưởng ban sọan thảo
Hiến pháp sửa đổi Nguyễn Sinh Hùng khoe có đến 26 triệu, nhưng có báo
nói đã vượt lên 28 triệu lượt người góp ý và đa số tán thành nội dung
mới, trong đó không ai dám đụng tới Điều 4 dành độc quyền “lãnh đạo nhà
nước và xã hội” cho đảng mà không cần có bầu cử !
Đảng cũng không chịu để cho dân có quyền
quyết định tối hậu sau khi Hiến pháp do dự thảo được 2/3 tổng số 500
Đại biểu Quốc hội chấp thuận, dự trù vào tháng 11 năm 2013.
Đã có ý kiến của Chính phủ đề nghị viết
điều “quyền lập Hiến thuộc về tòan dân” và dân có quyền bỏ phiếu tán
thành hay bác bỏ Hiến pháp trong một cuộc Trưng cầu ý dân, sau khi Quốc
hội đồng ý.
Nhưng vì hiện nay chưa có Luật Trưng cầu
Ý dân nên Hiến pháp năm 2013 sẽ “không có trưng cầu ý dân” sau cuộc bỏ
phiếu sau cùng của Quốc hội.
Việc này đã gặp chống đối ở trong nước
và đã có nhiều ý kiến muốn Bộ Chính trị hãy bình tâm suy nghĩ lại vì đây
là dịp bằng vàng để người dân Việt Nam thực thi quyền dân chủ của mình
để thay đổi vận nước.
Tuy nhiên, cứ theo như ngôn ngữ phát ra
từ miệng lưỡi một số Lãnh đạo, đứng đầu từ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thì đề nghị này sẽ không được chấp
thuận với lý do Quốc hội chưa chuẩn bị kịp để làm Luật Trưng cầu ý dân
!
Bằng chứng đảng áp đặt Quốc hội “phải
làm Hiến pháp theo ý đảng” đã được ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
xác nhận trong diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 7 ngày 02/05
(2013).
Ông nói: “Bộ Chính trị cũng đã thảo
luận, có ý kiến chỉ đạo định hướng cho việc tiếp thu, giải trình. Đề
nghị các đồng chí Trung ương bám sát Cương lĩnh của Đảng, các Nghị
quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương 2 và Hội nghị Trung ương 5 về
sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nghiên cứu thật kỹ, thảo luận thật sâu các
nội dung Báo cáo giải trình, tiếp thu và bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
mà Ủy ban sửa đổi Hiến pháp trình, đóng góp nhiều ý kiến có chất lượng.
Tinh thần chung là phải chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân, tiếp
thu tối đa những ý kiến hợp lý; kiên trì những vấn đề có tính nguyên
tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước ta, tiếp tục
khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.”
Khi ông Trọng yêu cầu các đại biểu phải
“bám sát” Cương lĩnh Đảng và các Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung
ương 2 và Trung ương 5 là ông muốn Ban Chấp hành phải kiên định hai điều
cốt lõi: Đảng phải là lực lương duy nhất lãnh đạo đất nước và không bỏ
Chủ nghĩa Cộng sản.
Thái độ bảo thủ, cực đoan và giáo điều
của ông Trọng đã đi ngược lại đòi hỏi của một số đông Trí thức, đảng
viên và người dân đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp dành độc quyền lãnh đạo cho
đảng và chống việc bắt buộc người dân phải đi theo Chủ nghĩa lỗi thời
Cộng sản.
Như vậy thì thử hỏi làm sao mà Việt
kiều có thể “nhắm mắt” cho đảng “tự tung tự tác” được mà nói tại sao
hai bên chưa thể hòa hợp và hòa giải với nhau vì còn “nhiều vướng mắc do
chiến tranh để lại” ?
Trong khi ấy thì hiểm họa bị mất biển
đảo vào tay Trung Cộng đã đến gần, không ai không nhận ra mà lãnh đạo
thì cứ nhắm mắt tin vào anh hàng xóm “nói chưa bao giờ đi đôi với việc
làm” để mị dân “cần ổn định để phát triển”, không dám cho dân xuống
đường biểu tình phản đối hay tố cáo mạnh mẽ trước Liên Hiệp Quốc và dư
luận Thế giới?
Thái độ qụy lụy đến nhu nhược trước
Trung Cộng của Lãnh đạo đảng CSVN đã bị nhiều giới Trí thức, người dân
và đảng viên lên án nhưng đảng lại tăng cường lực lượng công an để theo
dõi và khủng bố tinh thần những ai có thái độ bất thân thiện với Bắc
Kinh thì làm sao mà 4 triệu người Việt Nam ở nước ngòai có thể yểm trợ
cho Việt Nam khi bị Trung Cộng xâm lăng?
TÂM TƯ 38 NĂM “GIẢI PHÓNG”
Vì tình trạng đất nước đang ở ngã ba
đường cực kỳ nguy hiểm như thế nhưng nhà nước lại không lo tổ chức quần
chúng để tạo sức mạnh đòan kết chống xâm lăng khi sơn hà nguy biến nên
một số Nhà văn, Nhà báo trong nước đã giãi bầy tâm trạng lo âu và hoang
mang của họ vào dịp 30-4.
Hãy đọc “Ba mươi tám năm nhìn lại “ của Đoàn Nam Sinh: “Hôm
nay đi ngang qua trụ sở công quyền, câu khẩu hiệu mừng ngày thống nhất
và giải phóng miền nam khiến mình nghĩ lại. Giang sơn liền một dải nhưng
lãnh thổ đã vẹn toàn chưa? Trăm họ cùng một Tổ nhưng đã đoàn kết thương yêu nhau chưa? Quyền hiến định của toàn dân được công khai thống nhất ý chí xây dựng Hiến Pháp đã thực hành chưa? Truyền thống văn hiến trong văn hóa giáo dục thống nhất chưa? Còn rất nhiều câu hỏi căn bản mà có cùng câu trả lời là chưa thống nhất.”
Nếu giải phóng miền Nam với
nghĩa là giúp miền nam thoát khỏi sự phủ trùm về kinh tế, văn hóa, chính
trị,… của tư bản phương tây thì chắc không phải; hay là công nhân không
bị giới chủ bóc lột, lại càng không phải. Vậy chắc giải phóng là gỡ ra
khỏi sự ràng buộc, lệ thuộc vào Mỹ? Thế thì đưa cả nước vào tròng nô dịch, lệ thuộc vào Trung Cộng là đúng chăng?
Hàng triệu người đang rên siết trong tăng ca, hàng chục vạn người đang
phải bán sức lao động xứ người, làm nô lệ tình dục xứ người,… là nhờ ai
giải phóng,… Rồi mai ai sẽ giải phóng ai? (Trích từ mạng Quê Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập)
Đến phiên Nhà văn Bùi Công Tự thì ông cũng giãi bày tâm tư của mình trong “Đôi Điều Suy Nghĩ về Hoà Hợp Dân Tộc” vào ngày 30-4 như thế này: “ Thế
hệ những người như tôi sinh ra cùng Cách mạng tháng Tám, cùng nhà nước
Dân chủ Cộng hòa. Cả một thời lịch sử oanh liệt và bi thương đi qua mái
tóc bạc cùng cả một đời mong mỏi. Thời kháng chiến 9 năm thì mong đến
“Ngày Độc lập”, sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 thì lại mong đến “ngày
Thống nhất”. Rồi ngày ấy cũng đến, ngày 30 tháng Tư năm 1975 được coi là
ngày thống nhất đất nước.
Báo chí ngày ấy nhắc đi nhắc lại
câu: “Non sông đã thu về một mối”. Nhưng ít người để ý rằng “lòng người
còn trăm mối ngổn ngang”. Người giải phóng trong cơn say chiến thắng cứ
đinh ninh nghĩ rằng mình “chiến đấu và chiến thắng kẻ thù” mà có biết
đâu là mình “chiến đấu và chiến thắng đồng bào của mình….
Băn khoăn như thế nên ông Bùi Cộng Tự thắc mắc: “Tôi
cứ tự hỏi tại sao ngày ấy chúng ta phải giam giữ hàng vạn đồng bào (sỹ
quan binh lính Việt Nam cộng hòa) khi họ đã buông súng đầu hàng? Những
nhà tù được gọi là “trại cải tạo” ấy chẳng những không “cải tạo” được ai
mà còn chuốc thêm thù oán. Tại sao chúng ta lại để cho hàng triệu đồng
bào phải bỏ nước ra đi khiến ngôn ngữ loài người có thêm từ ngữ “thuyền
nhân”? Tại sao chúng ta lại chiếm đoạt các nhà máy, cửa hàng… của các
công dân trong cái gọi là “cải tạo tự bản tư doanh”?
Tại sao?
Lại nghĩ, nếu như lúc ấy trong tư
thế người chiến thắng, chúng ta hành xử với các đồng bào của mình (những
người ở phía bên kia) được như người Tây Đức đối đãi với người Đông Đức
sau khi bức tường Berlin sụp đổ thì tình thế có lẽ đã khác biết bao?
Nhưng chúng ta đã không đủ văn hóa để ứng xử văn minh như người Đức.
Thực tế là chúng ta đã hành xử hà khắc nếu không muốn nói là vô luân. Và
vì thế mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc càng thêm căng thẳng.”
Tác gỉa Bùi Công Tự kết luận trên Quê Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập: “Tuy
thế vấn đề hòa hợp dân tộc cũng đã được đặt ra. Nhà nước Việt Nam cũng
đã có những chính sách ngày càng cởi mở hơn, tạo điều kiện cho kiều bào
đóng góp với quê hương đất nước. Nhưng những gì đã có là chưa đủ. Đâu đó
vẫn còn những quy định, những phát ngôn, những việc làm chưa thấu suốt
tinh thần hòa hợp.
Sự hòa hợp dân tộc trong một quốc gia còn thể hiện ở chỗ đại bộ phận nhân dân ủng hộ chính quyền, ủng hộ người lãnh đạo mình.
Muốn đạt được như vậy thì chính
quyền phải đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, không có cách hành xử chống
lại nhân dân. Những vụ việc không tốt đẹp xảy ra ở Tiên Lãng, Văn Giang
và nhiều nơi khác vừa qua đã làm cho lương tâm nổi giận, sẽ tiếp tục
dẫn đến sự đối đầu trái với tinh thần hòa hợp dân tộc mà tất cả mọi
người dân đều tha thiết.
Hòa hợp dân tộc chỉ có thể có được
trong một chính thể cởi mở, có nhiều tổ chức xã hội quy tụ nhân dân.
Chính quyền và nhân dân cùng phấn đấu cho một mục tiêu chung. Nó đòi hỏi
phải có sự minh bạch để nhân dân tin tưởng là chính quyền trong sạch,
tin tưởng sự đóng góp của mình là để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là để
giúp đỡ cộng đồng chứ không phải để nuôi béo một nhóm người. Do đó hòa
hợp dân tộc còn dựa trên tinh thần phản biện để tìm ra chân lý, tránh mê
tín, sùng bái cá nhân hoặc tâm lý “đám đông”.”
Tất nhiên “thời thế, thế thời phải thế”,
nhưng kinh nghiệm 38 năm sau ngày đất nước thống nhất, thực tế của giấc
mơ “hòa hợp dân tộc” hãy còn xa lắm.
Nguyên do thì nhiều, nhưng cốt lõi của
vấn đề là không ít Lãnh đạo đảng chưa thật lòng muốn người Việt ở nước
ngòai trở về quê hương để xây dựng đất nước vì đảng “không dám bỏ Chủ
nghĩa Cộng sản khi chưa có thay đổi bên Trung Quốc” và cũng “không muốn
chia chác quyền lực” cho bất cứ ai không phải là người của đảng Cộng
sản!
Nhưng người nhiều người Cộng sản cuồng
tín không biết rằng Chủ nghĩa Cộng sản đã lỗi thời nhưng dân tộc Việt
Nam thì đã văn minh và ai cũng tin thời gian rồi sẽ đào thải số người
lãnh đạo lạc hậu này.
Họ chính là những người đang kêu gọi
đòan kết tòan dân để tạo sức mạnh dân tộc bảo vệ Tổ quốc, nhưng cũng lại
là những kẻ cực kỳ chia rẽ, phản động và yếu hèn trước giặc hơn ai hết.
Bằng chứng không khó tìm. Hãy lục lại
đống Văn kiện đảng đã công khai thì sẽ thấy sự lệ thuộc của Việt Nam vào
Trung Quốc từ 1990 đến 2012 đã kéo mũi đảng CSVN đi đâu, ấy là chưa kể
bản “Kỷ yếu hội nghị” bí mật đã được ký tại Thành Đô (Tứ Xuyên)
giữa Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch nhà nước Trung Cộng
Giang Trạch Dân năm 1990 .
Đó là lý do tại sao tuy đất nước đã thống nhất mà lòng dân thì không.
Phạm Trần
(05/013
Copy từ:
Truyền Thông Chúa Cứu Thế