CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

'Nói Sài Gòn vi phạm Hiệp định là quá đáng'



Ông Bùi Diễm, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, quan sát viên tại Hòa đàm Paris 1973, nhìn lại sự kiện lịch sử sau 40 năm.
Ông Bùi Diễm
Cựu Đại sứ Bùi Diễm là quan sát viên tại Hòa đàm Paris của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ giai đoạn từ 1967-1972 cho rằng việc nói Chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định Paris 1973 là 'quá đáng.'
Trao đổi với BBC Việt ngữ nhân đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp định (1973-2013), ông Bùi Diễm, người cũng là quan sát viên do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định tại Hòa đàm ở Paris, phản bác một số ý kiến nói chính Chính quyền Sài Gòn đã 'vi phạm hiệp định.'
Ông nói: "Nếu nói chính quyền ở miền Nam Việt Nam đã vi phạm hiệp định Ba-Lê là quá đáng là bởi vì sự thực ra những người ở miền Bắc đã chủ trương rõ rệt là để lại, mà họ đã làm được việc đó qua Hiệp định Ba-Lê, là giữ lại một số quân của họ ở trong miền Nam."
"Và đến khi Hiệp định Ba Lê ký kết, thì những lực lượng võ trang đó bắt đầu khởi một cuộc công kích, mà người ta thấy về sau có những trận như trận Bình Long, rồi những trận ở Ban-Mê-Thuật, rồi từ đó mới lan sang trường hợp gọi là chiến tranh quy mô, những đoàn quân miền Bắc tiến vào miền Nam."
Về hành xử của Hoa Kỳ trong biến cố Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa gần 1 năm sau Hiệp định Paris ký kết, ông Diễm nói Washington đã tận dụng một đạo luật của Quốc hội không cho tái sử dụng quân đội Mỹ ở Đông Nam Á "như một cái cớ" để "tránh đối đầu với Trung Cộng."
Ông Diễm cho rằng việc Hoa Kỳ đã không 'thông báo' trước về khả năng Trung Quốc tấn công quần đảo này liên quan tới tính toán của Washington về "quyền lợi quốc gia" của họ trong một bối cảnh mà cường quốc này được cho là điều chỉnh chiến lược.
Ở phần đầu cuộc trao đổi với Quốc Phương của BBC, ông Bùi Diễm trả lời câu hỏi liệu Hiệp định Paris có điểm hạn chế gì quan trọng nhất cần được xem xét như một bài học.



Copy từ: BBC

Mỹ - Nhật sẵn sàng đánh chìm tàu sân bay Trung Quốc



Trong trường hợp xảy ra chiến tranh với Trung Quốc liên quan đến quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư trên Biển Hoa Đông, Bộ Quốc phòng Nhật Bản có kế hoạch phối hợp với quân đội Mỹ đánh chìm tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc. 
 
Tờ Want Daily (Đài Loan - Trung Quốc) dẫn thông tin đăng tải trên tờ Sankei Shimbun, tờ nhật báo của Nhật Bản có trụ sở tại Tokyo, cho biết, kịch bản chiến lược được đặt ra là Nhật Bản sẽ sử dụng các chiến đấu cơ F-15J với sự hỗ trợ của không quân Mỹ để “loại khỏi vòng chiến đấu” máy bay tiên tiến của Trung Quốc. Nhật Bản sau đó có thể sẽ dùng máy bay chiến đấu F-2 tấn công các chiến hạm cỡ lớn của hải quân Trung Quốc.

Tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc

Theo nhà phân tích quân sự Trung Quốc Trần Quang Văn, nếu không có không quân yểm trợ, thì tàu sân bay và tàu đổ bộ tấn công của hải quân Trung Quốc sẽ trở thành “miếng mồi ngon” của máy bay chiến đấu Nhật Bản và Mỹ. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết không thể thiếu là phải có sự hợp tác của Mỹ, Nhật Bản mới có thể giành thắng lợi trong cuộc chiến tiềm tàng với Trung Quốc. Một mình Nhật Bản không thể đánh bại được lực lượng không quân Trung Quốc.

Trong khi đó, một chuyên gia phân tích quân sự khác của Trung Quốc, Quách Tuyên thì cho rằng, tàu sân bay Liêu Ninh dường như là mục tiêu chính của Nhật, việc đánh chìm biểu tượng sức mạnh trên biển của Trung Quốc sẽ khiến quốc gia này khuất phục.  

Cũng liên quan đến vấn đề tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, ngày 18-1, phát biểu tại buổi họp báo chung với người đồng nhiệm Nhật Bản Fumio Kishida ở Washington, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton khẳng định Mỹ công nhận quyền quản lý của Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và quần đảo này nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ. “Mỹ phản đối bất cứ hành động đơn phương nào nhằm làm suy yếu hay phá hoại quyền quản lý của Nhật Bản với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư”, bà Hillary nói nhưng không đề cập trực tiếp đến Bắc Kinh. Mặc dù vậy sau đó Trung Quốc đã lên tiếng phản đối và chỉ trích Mỹ “bội tín” khi ủng hộ Nhật về quần đảo tranh chấp trên.
 
 

Copy từ: Giáo Dục Việt Nam


Ông Nguyễn Bá Thanh: "Cẩn thận kẻo lại giống như mấy con ở rạp xiếc"



Nhận xét về sự nhũng nhiễu của cán bộ Đà Nẵng cách đây 10 năm trước, ông Nguyễn Bá Thanh, bí thư Thành ủy Đà Nẵng nói vậy, công khai tại buổi nói chuyện với cán bộ và nhân dân TP này vào tối 24/7/2003.
 
Ai cho phép 'cán bộ làm cái điều vô lễ ấy'?
Khi ông đề cập đến tình trạng nhũng nhiễu xảy ra ở Sở LĐ-TB-XH và Sở GD-ĐT, ông Nguyễn Bá Thanh nói: “Tôi đã nói anh Nguyễn Mạnh Hùng (Giám đốc Sở LĐ-TB-XH) bao nhiêu lần là phải thành lập một bộ phận chuyên trách lo chuyện nhà đất, chính sách cho các Bà mẹ VNAH, các gia đình thương binh liệt sĩ. Khi người ta đến đưa đơn, mình tiếp nhận, hỏi han cặn kẽ rồi trực tiếp đi lo cho người ta. Vậy mà cũng không! Nhiều người công trạng chưa có gì, trình độ cũng chẳng là bao nhưng lớn tiếng hạch sách, xúc phạm những người đã hy sinh xương máu cho mình có cái chỗ ngồi hiện tại. Ai cho phép làm điều vô lễ ấy?
Bí thư Đà Nẵng tiếp xúc với dân chúng.
Cũng tại buổi nói chuyện chấn động này, ông Thanh bày tỏ: "Với ngành GD-ĐT, giáo viên sau khi hết thời hạn đi miền núi, lẽ ra phải được tiếp nhận theo đúng quy định. Vậy mà cũng buộc họ phải chung chi, một chai rượu chưa chịu, phải mấy chục triệu mới cho làm, cho dạy. Có những giáo viên từ trên núi về, hoàn cảnh rất nghèo, rất đáng thương, vậy mà cũng "chặt đầu, lột da" cho được. Họ cầm những đồng tiền đó mà không thấy xấu hổ. Bữa ni ai muốn xin vô chỗ nọ, chỗ kia đều phải tiền hết, bất kể người giỏi, bất kể người xứng đáng được nhận. Đau lòng quá đi, tức không chịu được!”...

'Sợ kinh khủng' thói vòi vĩnh của cán bộ
“Ở rạp xiếc, người ta cho mấy con thú ăn hột gì đó thì nó diễn. Một lúc sau lại ngồi lì ra, quất mấy roi cũng không đi, khi nào được ăn thứ hột đó nó mới diễn tiếp. Hãy cẩn thận kẻo mình lại giống như mấy con ở rạp xiếc, không cho ăn là không làm. Kể cả hố xí, mới ngồi thì thấy hôi, mà ngồi một hồi cũng quen. Tôi sợ nhất là thói quan liêu, hách dịch, vòi vĩnh... trở thành thói quen của cán bộ mình. Sợ kinh khủng!” – ông Nguyễn Bá Thanh khuyến cáo.

'Đừng nghĩ dân không biết gì'
Ông nói rõ: “Đừng nghĩ là dân không biết gì. Trình độ dân trí bây giờ cao lắm, họ thấy hết, biết hết những trò nhũng nhiễu, vòi vĩnh, phiền hà, nguyên tắc cứng nhắc... tồn tại trong đội ngũ cán bộ chúng ta nhưng không dám nói vì sợ bị trù dập. Họ là dân mà, nên chỉ cầu xin hai chữ bình an. Nhưng nếu được bảo vệ, họ sẽ nói hết. Khi ấy thì không thể che giấu đi đâu.
Dân nhìn đội ngũ cán bộ chúng ta cũng như các anh chị đang nhìn tôi vậy. Tôi ở trên này nhìn xuống chỉ thấy cả rừng người, không phân biệt được anh nào áo xanh, áo đỏ. Nhưng các anh chị ở dưới nhìn lên thì tôi chỉ ho một tiếng, nghiêng đầu sang phải, liếc mắt sang trái một chút là cả ngàn con mắt đều thấy. Dân nhìn chúng ta vậy đó. Bài học Thái Bình vẫn còn đau lắm. Cũng có sự kích động, có những phần tử xấu len vào nhưng chủ yếu là do chúng ta thôi. Dân như nước, đẩy thuyền lên là nước mà lật thuyền cũng là nước. Chúng ta phải sớm tự soi rọi lại mình chứ đừng để xảy ra tức nước vỡ bờ!”.



 

Copy từ: Giáo Dục Việt Nam


Nguyễn Tấn Dũng - KỲ VỌNG VÀ THẤT VỌNG




* MINH DIỆN
                 Ngày 16-5-2006 trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 11, Thủ tướng Phan Văn Khải từ nhiệm trước một năm, nhường ghế cho Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kế nhiệm mình. Hơn một tháng sau, ngày 27-6-2006, ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành tân Thủ tướng, sau 2 nhiệm kỳ liền làm Phó Thủ tướng Thường trực, phụ trách khối Tài chính - Ngân hàng và một số khu vực kinh tế Nhà nước khá quan trọng. Đó là cuộc chuyền giao quyền lực cơ quan hành pháp  giữa nhiệm kỳ đầu tiên ở Việt Nam, mà hình ảnh ấn tượng nhất là cái bắt tay hình thức giữa một ông già thấp bé, cổ  nghểnh, từng  luống cuống làm rơi tờ giấy cẩm nang khi gặp Tổng thống Hoa Kỳ Geerge Bush ngày 21-6-2005, với một người trẻ tuổi, cao to, có nét phong độ.
Một năm sau, ngày 25-7-2007, Thủ tướng  Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử, với số phiều gần như tuyệt đối 96,96%. Đến thời điểm đó Nguyễn Tấn Dũng  là một Thủ tướng trẻ nhất Việt Nam.
                   Ông sinh ngày 17-11-1949, nhằm ngày 27 tháng 9 năm Kỷ Sửu, cung Càn, cầm tinh con trâu, mạng tích lịch hỏa, thường là tuổi của những người lãnh đạo bẩm sinh, có đặc tính thể hiện cái tôi mạnh mẽ, không chịu nhường nhịn ai, không cho ai cản đường, độc đoán chuyên quyền, bảo thủ cố chấp, không nghe lời khuyên chân thành mà dễ xiêu lòng vì  nịnh nọt, tình tình  dễ nổi nóng, nên có khi  phá hỏng  hình ảnh  của mình.

         Với một khuôn mặt đầy đặn, thường là tươi tắn,  trang phục chỉn chu, nói năng lưu loát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị lép khi đứng bên cạnh Thủ tướng các nước trong khu vực, thậm chí  với  các nguyên thủ quốc gia phương Tây. Ông  có phong thái ngoại giao chững chạc, không  luống cuống như người tiền nhiệm, cũng chưa có những câu nói hớ  làm trò cười cho thiên hạ như “nhà hùng biện” Nguyễn Minh Triết.
                   Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạo cho mọi người thấy một gương mặt lãnh đạo trẻ, năng động, và tự tin hơn.
                   Trong buổi  lễ nhậm chức, Thủ tướng đã khẳng định sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao đời sống các tầng lớp nhân dân, điều hành một chính phủ trong sạch, thực thi dân chủ,  công bằng, nếp sống văn minh. Ông bày tỏ quyết tâm phòng chống tham nhũng, một  vấn đề  bức xúc nhất, nan giải nhất mà người tiền nhiệm bó tay,  và ông đặt cược sinh mạng chính trị của mình vào trận tuyến nóng bỏng này: “Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng tôi xin từ chức ngay!” (Phát biểu trong lễ nhận chức Thủ tướng  chính phủ 27-5-2007).
                 Về tự do dân chủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội: “ Cần sớm có Luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền được ghi trong Hiến pháp” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011). Ông  khằng  định dân chủ là nền tảng của một xã hội công bằng văn minh. Ông nói:  Phải  phát  huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở ” (Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội Dương Thị Bạch Mai 24-11-2010) .
                   Đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của  Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng  tuyên bố dõng dạc  trước  Quốc hội : “Chúng ta đã làm chủ ít nhất là từ thế kỷ 17 hai quần đào Hoàng Sa và  Trường Sa. Đối với Hoàng Sa, năm 1956, Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các quần đảo phía Đông,  năm 1974 , Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của chính quyền Sài Gòn . Chính phủ  Việt Nam cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc này và đề nghị Liên hiệp quốc can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc đó, cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng của Trung Quốc. Lập trường nhất quán của chúng ta là, quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định vấn đề này” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011).
                Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nổi bật như một ngôi sao sáng.
                 Nhiều người, trong đó có tôi kỳ vọng ở ông.
                Thực tế thời kỳ đầu đắc cử, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xứng đáng với kỳ vọng ấy.
                  Nhà  phân tích chiến lược phát triển kinh tế Mỹ, nguyên Chủ tịch hội đồng quan hệ thương mại Hoa Kỳ - ASEAN, Ernest Bower, nhận xét: “Trong 200 ngày đầu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tạo cho mọi người thấy một khuôn mặt lãnh đạo trẻ năng động, quyết đoán, hành động kiên quyết hơn. Ông được giao nhiều quyến hành hơn và ông tin tưởng vào những quyết định của chính sách mà ông đưa ra. Ông đã làm cho thế giới có một cái nhìn khác về Việt Nam!”.
                 Đúng như vậy! Bằng nỗ lực của mình, Thủ tướng đã kêu gọi được nhiều nhà đầu tư vào Việt Nam, đưa vốn đầu tư nước ngoài cao nhất kể từ trước tới nay, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp, và cả đầu tư chứng khoán. Những dự án quy mô vài trăm triệu đô la xuất hiện trên mặt báo, tạo ra không khí cạnh tranh sôi động, Việt Nam vượt lên 8 bậc về môi trường hấp dẫn đầu tư.
               Về phòng chống tham nhũng, ông đã  cố gắng  minh bạch  hệ thống hành chính, bớt đi sự mập mờ trong mối quan hệ xin cho, giao quyền cho chủ động cho địa phương và cấp dưới. Việc tiến hành điều tra,  đưa ra xét xử vụ PMU 18, là  quyết tâm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bởi, ai cũng biết   “nhóm lợi ích” ấy  có  ô che rất lớn là Tổng bí thư  Nông  Đức  Mạnh. Kế đó Thủ tướng không ngần ngại  xử lý  vụ “ Đề án tin học hóa hành chính nhà nước 112” ,  một Phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ đã phải vào tù.
                 Về ngoại giao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cải thiện đáng kể uy tín và hinh ảnh đổi mới  của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế. Ông phá vỡ khối băng dày 60 năm giữa Việt Nam và Vatican, một quốc gia nhỏ bé nhưng đầy quyền lực, là linh hồn của hơn một tỷ tín đồ thiên chúa giáo, trong đó Việt Nam có 6 triệu, là một  trung gian quyền lực thế giới, bằng việc tiếp kiến Đức giáo hoàng Benisdico XVI  ở  Vatican.
                  Sự kiện Viêt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, việc tổ chức thành công Hội nghị APEC 14, và việc Việt Nam trở  thành “Thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc” đánh dấu những mốc son  hội nhập và nâng cao uy tín của Việt Nam  trong đó có công lao  của Thủ tướng.
                  Tháng 5-2007 Tạp chí World Business bình chọn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là 1 trong 20 nhân vật cải cách ở châu Á.
                 Trong  hội nghị “ Diễn đàn kinh tế thế giới” nhóm họp tại Davos Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nằm trong nhóm lãnh đạo hạng A.
                 Đó là những điềm không thể phủ nhận.
                 Nhưng hình như có một quy luật, càng nóng nhanh càng  mau nguội,  ngôi  sao càng chói sáng càng dễ mờ, bởi nguồn  năng lượng cạn kiệt. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với  nhiều  bứt phá, muốn rút ngắn công  việc một nhiệm kỳ 5 năm xuống 4 năm, nhưng có lẽ do “giục tốc bất đạt” ông bị va vấp quá nhiều trong giai đoạn tiếp theo.     
                  Cuộc khủng khoảng kinh tế toàn cầu như một cơn sóng thần cuốn phăng cả những nền kinh tế hùng mạnh nhất. Việt Nam đã có quá trình hội nhập, nên cũng bị ảnh hưởng. Nhưng cùng hoàn cảnh, thậm chí hội nhập sâu hơn, tình hình chính trị và xã hội, cũng như môi trường khí hậu bất lợi hơn, nhưng các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia,  đã  ứng phó thích hợp,  nên đáy suy thoái nông  và  vượt thoát nhanh hơn.
                Trái lại Việt Nam vũng xoáy suy thoái dường như không đáy, và không biết đến bao giờ mới vượt lên được?
               Có nhiều nguyên nhân, nhưng sai lầm  về  hoạch định  đường lối và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô là  nguyên nhân chính. Và sai lầm náy thuộc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
                Ông là Trưởng ban hoạch định kinh tế của Ban chấp hành trung ương đảng.  Ông đã đề nghị ghi vào văn bản báo cáo trước Đại hội X: “Thúc đẩy việc hình thành  tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh,  hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính, có nhiều chủ sở hữu, trong đó chủ sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối” .
                 Hệ lụy của nền  kinh tế vĩ mô bắt nguồn từ quan điểm này.
                Thực ra nó không mới, mà đã nhen nhúm từ những năm đầu thập kỷ 90, khi Đỗ Mười làm Tổng bí thư, và ông Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng. Đỗ Mười sau khi thăm Hàn Quốc, đã  nảy ra ý tường “Một nền kinh tế phát triển phải có những quả đấm thép!”.  Để thực hiện ý tưởng  Đỗ Mười,  một nửa số Ủy viên Bộ Chính trị nhiệm kỳ đó,  đã khăn gói sang Hán Quốc “tầm sư hoc đạo”,  và cảm thấy choáng ngợp bởi mô hình Chealbot.
                     Ông Võ Văn Kiệt cũng tán thành, nhưng khá thận trọng, nên chỉ ban hành hành hai quyết định 90, 91, thành lập thí điểm tập đoàn kinh tế mạnh. Năm 1997,  Phan Văn Khải thay ông Võ Văn Kiệt, nhút nhát hơn, nên 9 năm sau mới cho ra đời được 3 tập đoàn là: Tập đoàn công nghiệp than – Khoáng  26-12-2005, Tập đoàn bưu chính viễn thông 09-01-2006, Tập đoàn  công nghiệp tàu thủy Vinashin 15-05-2006. Ông Phan Văn Khải đã ký quyết định cho Vinashin vay 700 triệu đô la với kỳ vọng ngành đóng tàu Việt Nam ngoi lên hàng đầu thế giới.
                    Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng  với tư duy bứt phá, đầy nhanh tốc độ  phát triển  tập đoàn  mạnh.  Nhậm chức ngày 27-6 ngày 29-8-2006 ông ký quyết định thành lập Tập đoàn dầu khí, ngày 3-10, Tập đoàn cao su và, đến năm 2011 đã có 13 “quả đấm thép” đã ra đời.
                    Các tập đoàn với chức năng đa ngành nghề, nên mạng lưới tỏa rộng khắp mọi nơi, lại có quyền liên doanh liên kết, quyền độc lập hoạch định chiến lược phát triển và cấu trúc kinh tế nên không ai kiểm soát được. Hai ngành mà các tập đoàn hăng hái đầu tư nhất là bất động sản và ngân hàng. Các trụ sở ngân hàng thương mại cổ phần mọc lên như nấm, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chất đầy các ngăn tủ mỗi tập đoàn.
                   Trụ sở các tập đoàn hoành tráng mọc lên như  ganh đua với tòa nhà chọc trời  Petroland của Tập đoàn dầu khí, những ông chủ tập đoàn vừa khoác áo quan chức, đầy quyền uy, lại vửa khoác áo doanh nhân  tha hồ buông thả, dưới một người, trên muôn người, xài tiềm xả láng.
                   Một tập đoàn ra đời vốn  tự có nhiều lắm là trăm tỷ đồng, chủ yếu là nhà cửa  đất đai của nhà nước, nên hầu như 100 % vốn hoạt động vay ngân hàng, dưới sự bảo trợ của chính phủ. Trên thế giới không có bất kỳ một tổ chức kinh tế nào được ưu ái như những tập đoàn kinh tế Việt Nam, được mệnh danh là vai trò chủ đạo nền kinh tế của đất nước, được nhà nước bao bọc từ A đến Z, như những đứa con cưng được nha mẹ chăm bẵm!  Hầu như toàn bộ ngân sách dành cho phát triển kinh tế, cả nguồn vốn  ODA,  đều ném vào các  tập đoàn , ngân sách cạn thì đi chính phủ bảo lãnh cho vay nước ngoài. Xin lấy ví dụ một tập đoàn điển hình là Vinashin.
                     Ngay khi thành lập, Vinashin đã sược vay 700 triệu đô la. Sau 4 năm hoạt động  tập đoàn này  vay thêm 80.000 tỷ nữa.  Không biết họ làm ăn ra sao, nhưng khi nghe Chủ tịch Hội đồng quản trị Phạm Thanh Bình kêu than không được phát hành  tín phiếu, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng  sửng cồ lên : “Ai không cho các anh làm tín phiếu?” . Và sau đó 10.000 tỳ đồng tín phiều chính phủ được bơm thẳng vào cái tàu không đáy Vinashin.
                    Ngày đó tôi được biết có người đã thẳng thắn can gián Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhưng ông tin Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Húng hơn.
                     Trước kia chính phủ có một bộ phận tư vấn kinh tế, đứng đầu là tiến sỹ  Lê Đăng Doanh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẹp bỏ, thay các chuyên gia kinh tế bằng những chuyên gia luật pháp như thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, hình như đó  cũng là một nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong những quyết định về kinh tế và những quyết định mất lòng dân về tự do dân chủ?         
                     Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức, ông có trong tay 23 tỷ đô la vốn dự trữ, đó là số tiền không nhỏ, tích cóp được qua nhiều năm từ thuế của dân và tài nguyên của đất nước.  Khi  nền kinh tế lâm vào tình trạng thiểu phát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tung ra một gói kích cầu 143.000 tỷ đồng tương  đương 8 tỷ đô la. Nhưng  nguồn tiền khổng lồ ấy chảy không  đúng các mục tiêu, nên không có khu vực kinh tế nào được khởi sắc. Nó chỉ chỉ có ít tác dụng vào cuối năm 2009, rồi  bị hụt hẫng ngay khi bước sang năm 2010. 
                   Tiền dự trữ quốc gia bung ra làm bội chi ngân sách tăng vọt, và tình trạng bất ổn xuất hiện ngay từ khi nền kinh kế nhìn bề ngoài có vẻ còn hưng vượng.
                    Trước năm 2006 tổng đầu tư nhà nước lớn nhất không vượt quá 36 % GDP, năm 2007 tăng vọt lên 44%  và 2008 lên 47%. Vốn đầu tư tăng vọt kéo theo tăng trường tín dụng , năm 2006  : 21,4%, 2007: 38,7% và đó là  lực đẩy con tàu lạm phát tăng tốc .
                    Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn hãm phanh con tàu lạm phát bằng biện pháp nâng dự trữ bắt buộc của ngân hàng và thắt chặt chi tiêu, nhưng hình như đó chưa phải là một liều thuốc đúng, hơn nữa do sức mạnh quyền lực bị hạn chế, bị các nhóm lợi ích chi phối, nên không có tác dụng, tỷ lệ lạm phát  từ  9,9 %  năm 2008 leo lên 12,3 % năm 2009, rồi 16,2% năm 2010,  17,5%  năm 2011 và 18,2%  mấy tháng  đầu năm 2012.
                    Lợi dụng đục nước béo cò, nhóm lợi ích tài chính ra tay đục khoét ngân hàng,  bẻ gãy  xương sống của nền kinh tế! Tiền từ ngân hàng nhà nước  tuồn cho ngân ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng này chuyền tiền qua ngân hàng kia, tạo ra cái “đèn cù ngân hàng” loanh quanh “kinh doanh tiên ftệ”, ăn lãi suất chênh lệch. Lãi  suất huy động hạ cực thấp bóp chẹt dân, lãi suất cho vay lại tùy sự thỏa thuận. Những gói kích cầu hàng chục ngàn tỷ đống tiếp theo  trở thành miếng mồi béo bở cho các nhóm lợi ích. Những Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá chưa phải là trùm của băng nhón tội phạm này, và Thống đốc Nguyễn Văn Bình không phải vô can khi để cho các băng nhóm thâu tóm ngân hàng!
                 Ngày 25-5 -2012, Thủ tướng ban hành Nghị định 24 , là cú đòn quyết định hạn chế lạm phát, ổn định thị trường vàng nói riêng,  giá cả nói chung, nhưng đó lại là một cú sốc gây  phản ứng trái chiều.
                   Bức tranh kinh tế Việt Nam tôi đã mô tả trong bài viết trước, nay chỉ xin ghi lại tấm biểu  đồ tăng trường kinh tế Việt Nam, tôi nghĩ đây cũng là  “tấm biểu đồ sụt giảm  uy tín  của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng”:  Năm 2002 : 7,08%; 2003: 7,34 %; 2004: 7,79 %; 2005: 8,44 %; 2006: 8,38 %; 2007: 8,23 %; 2008: 6,31 %; 2009: 5,32 %; 2010: 6,78 %; 2011: 5%  và năm 2012 chỉ còn 5,03 %.


"Với trọng trách là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ,
tôi nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn
của người đứng đầu Chính phủ và xin
thành thật nhận lỗi trước QH, trước toàn Đảng, toàn dân
 về tất cả những yếu kém, khuyết điểm
của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành" ...
              Nhưng sa sút về kinh tế, chưa hẳn  đã là nguyên nhân chính làm mọi người thất vọng về Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Sự thất vọng lớn hơn vế ông là những quyết định, lời nói và việc làm của ông không  nhất quán. Hâu fnhư việc gì, ở đâu ông vẫn cố gắng nói hay, nói cho lọt tai người khác, diễn đạt khúc chiết, hứa ngon hứa ngọt, nêu quyết tâm cao, việc gì cũng “quyết liệt”, nhưng nhiều vấn đề sau khi “quyết” là bị “liệt” luôn. Nói hay, làm dở, nói mạnh nhưng không làm là đặc điểm nổi bật của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được dư luận đúc kết.
                 Ông nói phát huy quyền làm chủ rộng rãi, nhưng ông lại ký chỉ thị 37: “ Kiên quyết không để tư nhân hóa dưới mọi hính thức, không để bất kỳ tổ chức, cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí phục vụ lợi ích riêng”. Ông lên án Trung Quốc chiếm biển đảo Việt Nam nhưng ngay sau đó lại đồng tình cho chính quyến thành phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh đàn áp và vu cáo người biểu tình là gây rối ! Ông nói như đinh đóng cột là không chống được tham nhũng sẽ từ chức ngay, nhưng khi thất bại,  thì không nói lại một lời với dân cho phải đạo, cho có trước có sau!
               Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng quá dễ dãi trong ban phát chức tước quyền hành cho ba người con của mình. Nhẽ ra với cương vị một người đứng đầu chính phủ ông phải biết tự kiềm chế cái tiểu tiết để giữ cái đại cục, như Khổng từ nói: “Đừng đừng để con dê béo che mất trái núi!”.
               Người ta đã nói đi nói lại lời trần tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp Quốc hội, tôi cho đó là lúc ông nói thật nhất, bởi nếu không, ông sẽ có một cách nói khác.
                Tuy nhiên từ đó tôi nghĩ, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rộng lượng với dân, với người khác, như  rộng lượng với bản thân, với vợ con, anh em nội ngoại của mình thì dù ông có là X, là Y gì đi nữa, ông vẫn dành được tình cảm của nhiều người.  Đáng tiếc việc hành xử của ông trong vụ án tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, và mới đây nhất, cho công bố bản kết luận của Thanh tra chính phủ về sai phạm đất đai của thành phố  Đà Nẵng, gây nhiều phản cảm. Hình như điều này ứng vào tính cách của người tuổi Kỷ Sửu, mà tôi đã trình bày ở trên: “Không nghe lời khuyên chân thành lại dễ xiêu lòng bời lời nịnh nọt, và dễ nổi nóng nên có khi phá hỏng hình ảnh của mình”! Hai nhiệm kỳ Đại hội IX và X Đảng đã gần như khoán trắng, giao quá nhiều quyền cho Chính phủ. Gần 20 năm giữ trọng trách như Phủ Chúa ở Ba Đình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đầu có những biểu hiện đem lại sự kỳ vọng không chỉ trong nước mà còn có cảm tình với một số chính khách trên thế giới. Nhưng từ năm 2012, ông đã làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước phải thất vọng. 
                 Nhân ngày 22-12-2012 ông Ba Dũng đã xem vở  “Lời thề thứ Chín”. Hai điều quan trọng nhất trong lời thề ấy là “Kính trọng dân, bảo vệ dân, giúp đỡ”, tôi hy vọng ông Ba Dũng không quên điều đó.     
M.D

Copy từ: Bùi Văn Bồng

Tượng đài lớn ở Việt Nam có 'tham nhũng'



Một nhà điêu khắc nói có "vấn đề về tham nhũng" trong xây dựng các tượng đài hoành tráng ở Việt Nam, và cho rằng không nên chỉ "gặm nhấm lịch sử", "tự hào mãi về những kỳ tích chiến tranh".
Nguyễn Ngọc Lâm hiện là giảng viên ngành Điêu khắc, đại học Mỹ thuật Việt Nam, có nhiều dự án hướng tới việc đưa nghệ thuật điêu khắc tới gần hơn với công chúng, và thể nghiệm nghệ thuật này trên nhiều loại vật liệu phong phú.
Anh trả lời phỏng vấn đài BBC nhân việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội hôm 14/1 thảo luận việc ban hành nghị định về hoạt động mỹ thuật.
Theo dự thảo, tác giả được chỉ định sáng tác mẫu phác thảo tượng đài, tranh hoành tráng phải có trình độ đại học trở lên chuyên ngành điêu khắc đối với tượng đài, và có trình độ đại học trở lên chuyên ngành hội hoạ, đồ hoạ, tranh hoành tráng đối với tranh hoành tráng.
Nguyễn Ngọc Lâm: Tôi nghĩ quy định này bình thường thôi, bởi vì khi người ta tham gia thực hiện những công việc, công trình tượng đài, tranh hoành tráng, có quy mô lớn đặt ở các nơi công cộng, đòi hỏi người đó phải có trình độ nhất định nào đó.
Việc họ quy định là có bằng tốt nghiệp, tôi nghĩ là cũng đúng thôi, không vấn đề gì. Việc có bằng tốt nghiệp thì mới được thực hiện những công trình điêu khắc tượng đài hoành tráng, có thể coi đó như là một cái chứng chỉ hành nghề.
BBC:Như vậy là những người có khả năng chuyên môn cao mà không có bằng cấp thì sẽ không được làm đúng không ạ? Nếu quy định này được ban hành?
Tượng đài lớn ở Việt Nam có 'tham nhũng'
Nhà điêu khắc Nguyễn Ngọc Lâm nói có tình trạng 'tham nhũng', 'cắt xén vật liệu' trong xây dựng tượng đài lớn ở Việt Nam.
Thường những người không qua đào tạo, con đường tìm đến thể loại tượng đài hoặc tranh hoành tráng thì ít có cơ hội đến với những người đó, vì ít nhiều làm tượng đài hoành tráng này rất cần đào tạo cơ bản, có những kiến thức về tạo hình rất cơ bản và cần ở trình độ khá cao.
Khả năng mà họ là những người không qua đào tạo mà nhận được những công trình lớn như thế, tôi nghĩ chắc là họ phải có quan hệ nào đó hoặc họ có sự hỗ trợ, có một êkip làm việc của họ ở đằng sau, và những công việc này họ đứng tên thôi.

'Gặm nhấm lịch sử'

BBC:Ở Việt Nam hiện nay khi nhắc tới tượng đài người ta hầu hết đều liên tưởng tới tượng đài cách mạng, danh nhân lịch sử. Rất nhiều trong số đó cả về mặt nghệ thuật và mặt thi công, thực hiện đều có vấn đề. Thế còn những tác phẩm nghệ thuật cá nhân, không hoành tráng và không mang tính chính trị hiện nay đang ở đâu?
Đối với người Việt Nam thì phần lớn bây giờ vẫn quan niệm là điêu khắc, nhất là tượng đài, tượng đài và điêu khắc hoành tráng thì chủ yếu là những đề tài về lịch sử, đề tài về chính trị, có tính chất cổ động.
Và hậu quả của nó là nhiều công trình không đạt được chất lượng về thẩm mỹ lẫn chất lượng về độ bền vật liệu hay là tính kết cấu, do nhiều yếu tố khác nữa.
Cái chuyện mà họ bớt xén chất lượng vật liệu cũng là chuyện phổ biến trong nhiều công trình xây dựng tượng đài.
"Tôi cũng đã đọc một số tư liệu và bài viết của các nhà phê bình, nghiên cứu mỹ thuật thì họ nói là Việt Nam nhiều tượng đài cổ động, hoành tráng chỉ sau Bắc Triều Tiên thôi."
Nhà điêu khắc Nguyễn Ngọc Lâm
Còn mảng tượng điêu khắc có nhiều ngôn ngữ nghệ thuật mà nó nghệ thuật hơn, không phải tượng đài hoành tráng, thì nó tồn tại ở một số công trình, một số mô hình như các trại sáng tác Hà Nội hay các trại sáng tác ở Huế, để lại rất nhiều tác phẩm điêu khắc và được trưng bày ở các khuôn viên nơi công cộng, để cho mọi người được xem.
Một số nữa, theo xu hướng bây giờ ít làm tượng to vì cũng không có chỗ mà bày, đặt, vận chuyển và di chuyển nó rất tốn kém, rất phức tạp.
Bây giờ nhiều nghệ sỹ chuyển sang làm những chất liệu nhẹ hơn, nhỏ hơn, trưng bày trong không gian như trong nhà.
Những dự án lớn ngoài trời thì thực ra nhà nước không có nhiều những dự án đó, mà thỉnh thoảng lẻ tẻ ở các tỉnh thành họ duy trì hàng năm các trại sáng tác điêu khắc trong nước, quốc tế, sáng tác xong tặng lại tác phẩm cho địa phương.
Tôi nghĩ đó là hình thức rất tốt để đại đa số công chúng được thưởng ngoạn và chủ đề cũng phong phú, không bị nặng nề bởi những chủ đề có tính chất cổ động, chính trị, mà có tính giáo dục rất tốt.
BBC: Theo ý kiến cá nhân anh, hình thức sáng tác tranh cổ động, tượng đài cổ động có còn phù hợp với xã hội ngày nay không ạ?
Tôi nghĩ bây giờ nó không còn phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội và xu hướng của thế giới nữa rồi.
"Người ta nhìn vào hiện tại và để hướng tới tương lai chứ không chỉ suốt đời luôn luôn gặm nhấm lịch sử, tự hào với những kỳ tích chiến tranh như thế, tôi nghĩ đấy là cách quảng bá về hình ảnh không còn phù hợp nữa."
Nhà điêu khắc Nguyễn Ngọc Lâm
Tại vì, tôi cũng đã đọc một số tư liệu và bài viết của các nhà phê bình, nghiên cứu mỹ thuật thì họ nói là Việt Nam nhiều tượng đài cổ động, hoành tráng chỉ sau Bắc Triều Tiên thôi.
Xu hướng này, để cho người ta yêu nước, để cho người ta phát triển văn hóa, cho con người hiểu hơn về lịch sử, có văn hóa hơn, thì nên có những hình thức tạo hình khác nữa, chứ không chỉ là tượng đài hoành tráng về mỗi chủ đề chính trị.
Tôi nghĩ là có nhiều cách để quảng bá và tôn vinh. Có nhiều cách ngoài ngôn ngữ tạo hình điêu khắc, có thể mang tính giáo dục, quảng bá, có nhiều hình thức khác, nhưng hình thức tốt nhất là làm sao để đất nước này trở thành đất nước văn minh.
Người ta nhìn vào hiện tại và để hướng tới tương lai chứ không chỉ suốt đời luôn luôn gặm nhấm lịch sử, tự hào với những kỳ tích chiến tranh như thế, tôi nghĩ đấy là cách quảng bá về hình ảnh không còn phù hợp nữa.

Có vấn đề tham nhũng

BBC:Trong môi trường kinh tế của Việt Nam hiện nay phát triển cũng không phải là quá nhanh, hay tăng trưởng quá thuận lợi, thì việc xây những tượng đài tốn tới khoảng 400 tỷ đồng, kèm với đó chúng ta biết là trường hợp cắt xén nguyên vật liệu xảy ra rất nhiều. Có nên thi công những tượng đài như vậy không, hay những dự án như vậy được đề ra là để làm lợi cho một số cá nhân nào đó chứ không phải vì không gian cộng đồng, vì nhân dân?
"Khi có một dự án ra đời thì xung quanh nó có rất nhiều ban bệ và rất nhiều người sống vào đó. Chuyện họ ăn bớt vật liệu, tức là có vấn đề về tham nhũng trong công trình đó là hiển nhiên."
Nhà điêu khắc Nguyễn Ngọc Lâm
Theo tôi, nhà nước không nên có những dự án quy mô tới vài trăm tỷ, đến mấy trăm tỷ đồng như thế.
Bây giờ kinh tế đang rất khó khăn, công trình hạ tầng rất thấp kém, tôi nghĩ nhà nước nên có tầm nhìn. Quảng bá hình ảnh đến bây giờ nó không còn phù hợp nữa, mình cứ làm mãi những cái tượng đó cũng không nên, nên đầu tư những khoản tiền đó vào những việc gì có ích hơn.
Nhưng khi có một dự án ra đời thì xung quanh nó có rất nhiều ban bệ và rất nhiều người sống vào đó. Chuyện họ ăn bớt vật liệu, tức là có vấn đề về tham nhũng trong công trình đó là hiển nhiên.
Tôi nghĩ là không nên có những dự án lớn như thế, rất tốn kém, nên để đầu tư vào những việc khác có ích, những cái thiết thực hơn.
Nước mình vẫn còn nghèo nhưng nhiều dự án chả thiết thực gì cả. Đầu tư mấy trăm tỷ bạc đi xây mấy cái tượng danh nhân mà đi đâu cũng thấy. Hình ảnh nó đẹp thì đã vào trong trái tim của mọi người rồi, không phải phơi bày ra khắp nơi như thế nữa, còn có gì là



Copy từ: BBC

 

TQ cảnh báo Mỹ về quần đảo Senkaku



Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương
Người phát ngôn Tần Cương kêu gọi Hoa Kỳ phát ngôn cẩn trọng
Trung Quốc vừa lên tiếng cảnh báo Hoa Kỳ về điều mà Bắc Kinh gọi là "can thiệp vào vấn đề Điếu Ngư", đồng thời nói Washington cần phát ngôn một cách cẩn trọng.
Hôm thứ Sáu 18/1, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nói với các nhà báo sau cuộc gặp với Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida, rằng Hoa Kỳ "phản đối bất kỳ hành động đơn phương nào" có thể ảnh hưởng tới quyền kiểm soát của Nhật Bản đối với quần đảo mà Tokyo gọi là Senkaku.
Giới quan sát cho đây là phát biểu chứng tỏ sự thiên vị Nhật Bản trong quan điểm của Washington về vấn đề Senkaku.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương hôm Chủ nhật 20/1 nói: "Bình luận [của Ngoại trưởng Clinton] hoàn toàn tảng lờ các sự thật lịch sử và không phân biệt được phải trái".
Ông Tần cũng nói Mỹ không thể chối bỏ trách nhiệm lịch sử trong vấn đề này.

Dân tộc cực hữu

Trong khi đó, giới học giả của Trung Quốc lên tiếng cảnh báo rằng Hoa Kỳ đang tiếp tay cho phe dân tộc chủ nghĩa cực hữu ở Nhật Bản.
Ông Đổng Mạn Viễn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế của Trung Quốc, nói phát biểu của bà Hillary Clinton rõ ràng nghiêng về phía Nhật.
Tiếp theo sau phát biểu này, theo ông Đổng, "Tokyo sẽ mạnh bạo hơn trong việc có các hành động khiêu khích mới, và tình hình sẽ càng thêm mất ổn định".
"Một cuộc xung đột lớn nổ ra quanh chủ quyền quần đảo, kéo theo đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ, hẳn không có lợi cho phía Mỹ."
"Một cuộc xung đột lớn nổ ra quanh chủ quyền quần đảo, kéo theo đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ, hẳn không có lợi cho phía Mỹ."
Đổng Mạn Viễn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế của Trung Quốc
Tuy nhiên, ông Đổng Mạn Viễn cũng cho rằng bà Clinton sắp mãn nhiệm, "nên chúng ta cần để ý xem người sẽ giữ chức bộ trưởng ngoại giao, ông John Kerry, có tiếp tục chính sách hiện tại hay không".
Hiện Bắc Kinh đang chuẩn bị đón tiếp một quan chức cấp cao của liên minh cầm quyền tại Nhật, người được cho sẽ chuyển tới lãnh đạo Trung một bức thư nhằm cải thiện quan hệ giữa đôi bên.
Natsuo Yamaguchi, lãnh đạo đảng Tân Komeito trong liên minh cầm quyền với đảng Tự do Dân chủ, cho hay sẽ mang thư tay của Thủ tướng Shinzo Abe tới Bắc Kinh.
Ông Yamaguchi nói với các phóng viên sau cuộc gặp với ông Abe rằng cả hai ông đều thống nhất rằng đàm phán chính trị là "bước đi đầu tiên" để hàn gắn quan hệ.
Hãng thông tấn Kyodo dẫn lời ông nói ông hy vọng sẽ chuyển thư tận tay tới Tổng bí thư Đảng CSTQ Tập Cận Bình trong chuyến thăm bốn ngày tới Trung Quốc.
Hiện chưa rõ Bắc Kinh có chấp thuận cho ông Yamaguchi được tiếp kiến ông Tập hay không.
Báo Mainichi Shimbun của Nhật thì nói ông Yamaguchi có thể sẽ đề đạt việc tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh giữa hai nước.
Báo chí Trung Quốc cảnh báo những việc làm này sẽ vô tác dụng nếu như các động thái của Nhật Bản và đồng minh Hoa Kỳ tiếp tục làm tình hình thêm căng thẳng.
Năm 1971, Hoa Kỳ đã công nhận quyền kiểm soát Senkaku của Nhật.



Copy từ: BBC

'Nghị quyết 4 chủ yếu để răn đe'



TBT Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 6
Việc thực hiện Nghị quyết 4 là vấn đề lớn trong Đảng CSVN
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nói Nghị quyết 4 về chỉnh đốn Đảng "chủ yếu là để cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn chặn".
Ông Trọng nói "nếu ai không chịu nhận khuyết điểm, không chịu sửa thì mới kỷ luật, xử lý".
Ông tổng bí thư đã có bài phỏng vấn với Thông tấn xã Việt Nam trước thềm năm mới Quý Tỵ. Bài này được nhiều báo trích đăng lại.
Nói về Nghị quyết Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", với nội dung phê bình và tự phê bình để chỉnh đốn Đảng, ông Nguyễn Phú Trọng thừa nhận: "Dư luận vẫn còn không ít băn khoăn cho rằng bước kiểm điểm tự phê bình và phê bình vừa qua như 'hòa cả làng', chẳng biết bộ phận không nhỏ (tham nhũng, biến chất...) nằm ở đâu, thậm chí có tâm tư, tâm trạng chưa hài lòng, cho rằng 'không thành công' vì không kỷ luật được ai".
Tuy nhiên ông nói người dân "cần nhận thức rõ rằng Nghị quyết này với yêu cầu trước mắt chủ yếu là để cảnh tỉnh".
Phát biểu mới nhất của ông Trọng dường như lặp lại ý của ông trong bài bế mạc Hội nghị Trung ương 6 hồi tháng 10/2012, cũng nói về việc thực hiện Nghị quyết 4, trong đó có lúc ông tỏ ra nghẹn ngào xúc động một cách không giấu diếm.

Đấu tranh cam go

Lúc đó, ông tổng bí thư phát biểu: "Từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo là giữ đúng nguyên tắc, có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có lý, có tình, vừa phải xử lý nghiêm minh những trường hợp có khuyết điểm, vi phạm, theo phương châm 'trị bệnh cứu người', giúp nhau cùng tiến bộ".
"Cần nhận thức rõ rằng Nghị quyết này với yêu cầu trước mắt chủ yếu là để cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn chặn, nếu ai không chịu nhận khuyết điểm, không chịu sửa thì mới kỷ luật, xử lý. "
TBT Nguyễn Phú Trọng nói về Nghị quyết Trung ương 4
"Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị."
"Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá."
Cho tới nay, lãnh đạo đảng cầm quyền ở Việt Nam vẫn không công khai trước người dân "đồng chí ủy viên Bộ Chính trị" nói trên là ai.
Ngoại trừ một lần khi tiếp xúc cử tri ở TP Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có đề cập tới quyết định không thi hành kỷ luật người mà ông gọi là "Đồng chí X".
"Chỉ có cân nhắc tình hình hiện nay, cân nhắc lợi hại thì quyết nghị là không thi hành kỷ luật. Như vậy không có nghĩa là Bộ Chính trị không có lỗi, không phải là cá nhân đồng chí X không có lỗi.”
Trong phỏng vấn với TTXVN, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc rất khó khăn, phức tạp; đó là cuộc đấu tranh cam go ngay trong mỗi con người, mỗi tổ chức, là công tác con người, dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người".
Ông lặp lại cảnh báo đã được nhắc tới nhiều lần trong các lần phát biểu: "Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ".

Tin tưởng vào chế độ

Nhân dịp Năm mới Quý Tỵ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng có bài trả lời phỏng vấn TTXVN.
Ông Sang khuyên người dân "không nên chán nản" trước tiến độ của việc xây dựng chỉnh đốn Đảng.
"Chúng ta phải nhận thức cho đúng, phải hết sức kiên trì, liên tục tiến hành công cuộc xây dựng Đảng."
"..xin khẳng định là phải kiên trì tiến hành, không lùi bước, không thể không làm, nhưng không thể chỉ một lần, một sớm một chiều mà giải quyết ngay được."
Ông Trương Tấn Sang nói quyết định bỏ phiếu tín nhiệm hàng năm cho các cấp lãnh đạo "chính là dân chủ hóa".
Ông cũng tỏ ra lạc quan, rằng "nhân dân bao dung vẫn tin và kỳ vọng vào Đảng nếu Đảng kịp thời chỉnh đốn, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm trong bộ máy của mình".



Copy từ: BBC

Cần khẳng định: Nhân dân làm nên Hiến pháp



Có ý kiến đề nghị bổ sung cơ chế tài phán đối với các hành vi vi hiến.

Ngày 19-1, Hội đồng Tư vấn dân chủ - pháp luật Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức góp ý cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp (HP) năm 1992.
Lời nói đầu cần ngắn gọn, súc tích
Góp ý về lời nói đầu, PGS Phạm Hữu Nghị, Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật, cho rằng dự thảo viết còn dài, chưa làm nổi bật được mục đích, chủ thể, nhiệm vụ của HP. “HP các nước trên thế giới có nước không có lời nói đầu, nếu có thì thường rất ngắn. Đề nghị viết lại, khẳng định ý cơ bản là nhân dân làm nên bản HP này” - ông Nghị đề xuất.
Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng QH, cũng đồng tình với quan điểm này. Theo ông, các nội dung thể hiện trong lời nói đầu chưa được cơ cấu hợp lý. “So với lịch sử dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm thì phần ghi công trạng giai đoạn sau này không nên dài quá” - ông Thuận nói.
Một buổi góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được tổ chức bởi Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Ảnh: TTXVN
PGS Thái Vĩnh Thắng, ĐH Luật Hà Nội cũng cho rằng lời nói đầu bản HP trình bày như dự thảo là chưa đạt yêu cầu. Cần diễn đạt lại, làm rõ ai làm nên bản HP này: “Chúng tôi, nhân dân Việt Nam, làm nên bản HP này…”, hoặc “bằng bản HP này, nhân dân Việt Nam xác lập các nguyên tắc cơ bản…”.
Điều 4 quy định sự lãnh đạo của Đảng, dự thảo có một bổ sung đáng chú ý: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. PGS Phạm Hữu Nghị đề nghị bổ sung thêm vào điều này các phương thức lãnh đạo của Đảng để qua đó người dân có thể giám sát được. Còn ông Lê Hiếu Đằng, Phó Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn dân chủ - pháp luật, đề nghị cần ghi rõ yêu cầu Đảng lãnh đạo trên cơ sở pháp luật, để sau này xây dựng luật về sự lãnh đạo của Đảng. Ông Phạm Văn Thảo, nguyên Phó Chủ tịch MTTQ Hà Nội, đồng tình: “Có luật cụ thể về Đảng thì từng tổ chức đảng, đảng viên mới thực sự nâng cao trách nhiệm, chịu trách nhiệm trước nhân dân và lúc ấy người dân mới có cơ sở để giám sát trở lại”.
Cần có cơ chế bảo vệ
Các thành viên Hội đồng Tư vấn dân chủ - pháp luật cũng đề nghị làm rõ một số vấn đề liên quan cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Chẳng hạn, Điều 120 về Hội đồng HP chỉ quy định kiểm tra tính hợp hiến của văn bản pháp luật. Vậy với hành vi vi hiến thì sao? Có cơ chế nào để tài phán với hành vi được cho là vi hiến? Các quyền như tự do đi lại, có chỗ ở hợp pháp, được bảo vệ chăm sóc sức khỏe (Chương II) nên coi là quyền con người hay quyền công dân? Vẫn quy định chính quyền địa phương ba cấp tỉnh, huyện, xã hay chỉ nên quy định chung là cấp tỉnh và dưới tỉnh để mở khả năng cải cách mô hình chính quyền địa phương sau này?
Theo Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, sau hội nghị của Hội đồng Tư vấn dân chủ - pháp luật, các hội đồng tư vấn khác trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội, kinh tế, khoa học - giáo dục cũng sẽ tham gia góp ý dự thảo HP sửa đổi. Trên cơ sở đó, MTTQ sẽ tổng hợp thành ý kiến chính thức gửi Ủy ban Dự thảo HP.
NGHĨA NHÂN



Copy từ: Pháp Luật

Một phận người của bên thắng cuộc



Đức Thành

           Gần đây trên các diễn đàn mạng bình luận nhiều về cuốn sách “Bên thắng cuộc” của tác giả Huy Đức với nhiều vẻ, khen chê nội dung cuốn sách rồi lại khen chê những cách nhìn nhận về cuốn sách.
Nhân chuyện cho một người bạn thân mượn xe đi tìm hài cốt của một cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, tôi xin hầu quý vị câu chuyện về người cán bộ tập kết này. Tuy là một câu chuyện nhỏ nhưng vẫn làm day dứt trái tim chúng tôi.
Người cán bộ tập kết đó tên là Phạm Văn Cam, sinh năm 1935, nguyên quán: xã Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông đi làm cách mạng bí mật từ bao giờ cả gia đình không ai biết. Chỉ thỉnh thoảng qua nhà về đêm và hết sức bí mật. Ông nói với em gái ông,  bà Phạm Thị Quýt lúc đó khoảng 12-13 tuổi rằng ông đang làm thuê bên Lào. Kể từ khi có Hiệp định Genève 1954 gia đình không biết ông ở đâu để mà đi tìm.
Về phía ông, sau khi tập kết ra Bắc ông được điều động công tác trong ngành Đường sắt. Tại đây ông gặp, thương yêu và nên vợ nên chồng với bà Hà Thị Dần cũng là một công nhân viên trong ngành Đường sắt nhưng khác cơ quan nên hai người ít gặp nhau. Những năm 1963 – 1964 đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh ra Miền Bắc, khu vực ga Yên Bái là một địa bàn trọng điểm bị không quân Mỹ đánh phá ác liệt. Ông được ngành Đường sắt điều động tăng cường về khu vực ga Yên Bái.
Năm 1965, khi chỉ còn một ngày nữa là hết phép năm, sau đã chuẩn bị tươm tất các thứ cần thiết cho bố mẹ vợ rồi ông xin phép bố mẹ vợ ra xe lửa về cơ quan để ngày mai công tác (vợ ông lúc đó công tác tại đoạn đường sắt Thanh Hóa, không có nhà).
Khi đến ga Văn Phú là lúc đang bị máy bay Mỹ bắn phá ác liệt, ông đã xuống cùng đồng nghiệp dẫn dắt xe lửa tránh xa khu vực bị bom và cùng mọi người lao vào cứu hàng hóa trên các  toa xe. Ông bị một mảnh đạn văng vào người (ổ bụng) và hy sinh.
Cơ quan chủ quản của ông đã khắc tấm bia đá ghi rõ họ tên quê quán và sự hy sinh của ông. Trong lễ truy điệu ông chỉ có cơ quan và gia đình bên vợ ông còn vợ ông công tác trong Thanh Hóa và điều kiện thời chiến không thể lên Yên Bái để lo tang cho chồng. Kể từ khi ông hy sinh bà Hà Thị Dần (vợ ông) cứ mỗi lần chuyển công tác lại phải chuyển cả bát hương thờ chồng.
Theo phong tục tập quán, ba năm sau ngày ông mất, gia đình bố mẹ vợ ông đã lên xin phép cơ quan nhà ga Yên Bái cho phép làm lễ cải táng đưa hài cốt ông về quê vợ để ông an nghỉ vĩnh hằng, nhưng lãnh đạo nhà ga không đáp ứng và giải thích rằng chuyện này đã có Ban Thống nhất lo.
Năm 1971 bà Hà Thị Dần vợ ông gặp được ông Hồ Thúc Kha người Đà Nẵng, cũng là cán bộ tập kết đang công tác tại Bộ Lâm nghiệp. Đồng cảm cảnh ngộ của nhau, hai ông bà đã thành vợ thành chồng và có 3 người con chung, hiện sinh sống tại Đà Nẵng. Khi hai ông bà Kha, Dần nghỉ hưu về Đà Nẵng sinh sống, ông Kha đã xin phép dòng họ Hồ của ông cho phép vợ chồng ông được thờ cúng ông Phạm Văn Cam và xin phép dòng họ coi ông Phạm Văn Cam là một người trong dòng họ của mình để được thờ cúng theo nghi thức của dòng họ.
Năm 2009, bạn tôi – anh Nguyễn Văn Ngọc – là cháu của vợ ông đã viết thư nhờ Sở Lao động – Thương binh – Xã hội Thừa Thiên – Huế, UBND huyện Hương Trà và xã Hương Toàn tìm giúp thân nhân, gia đình  ông, kể từ đó gia đình ông mới biết rằng ông đã tập kết ra Bắc và đã hy sinh khi cùng đồng đội cứu tàu, cứu hàng.
Anh Phạm Đạt là một thầy giáo của huyện Hương Trà, là cháu và là người thờ cúng ông hiện nay cho biết, khi anh ra Yên Bái chuyển hài cốt ông Cam về quê, ông cũng đã gặp lãnh đạo cơ quan nhưng họ chỉ hứa hẹn mà thôi. Theo sự chỉ dẫn của một số người, ông cũng đã có làm hồ sơ gửi đến các cơ quan chức năng của tỉnh Yên Bái để làm các chế độ cho ông nhưng vẫn chưa có hồi âm.
Chúng tôi đã thử tìm hiểu về cái Ban Thống nhất được nhà nước lập ra từ khi có hiệp định Genève nhưng hầu như không có thông tin nào về Ban Thống nhất này và về việc vì sao nó lại bị lãng quên dẫn đến số phận những cán bộ tập kết như ông Phạm Văn Cam bị đảng, nhà nước quên lãng. Nếu như không có sự quan tâm của gia đình vợ ông thì làm sao biết trách nhiệm này thuộc về Ban Thống nhất? Làm sao gia đình, dòng họ của ông biết ông là cán bộ cách mạng tập kết ra Bắc?
Theo gia đình kể từ khi đưa hài cốt của ông Cam về quê (2009) chưa thấy có cơ quan nhà nước nào đến thắp cho ông một nén hương, nên gia đình không biết được liệu từ lúc mồ ông được đắp lên đến khi gia đình biết có tổ chức cơ quan nào đến viếng ông không?!
Nay đảng và nhà nước đã có dự thảo sửa đổi Hiến pháp và đang lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, nên chăng cần có một qui định gì đó gọi là quyền để tri ân những người như ông Cam mà tôi có thể gọi nôm na là quyền được tri ân nằm trong quyền con người.
Rất mong được mọi người thảo luận đóng góp về một trong những quyền cơ bản của con người, nhất là những người vì đất nước mà hy sinh nhưng lại chưa được vinh danh, trân trọng đúng mức.
Số điện thoại của anh Đạt – người thờ cúng ông Phạm Văn Cam: 0905686907.
Đ.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho Bauxit Việt Nam


 

Lời bình của Anh Ba Sàm về quyển sách Bên Thắng Cuộc

- Báo CA TPHCM: Về quyển sách “Bên thắng cuộc”: Vượt qua sợ hãi hay “chém  gió”?, của Song Huy (tức nhà văn Lại Văn Long) và Ngọc Điệp, chúng tôi đã bổ sung tiếp phần 2. Mời bà con tham gia bình luận tiếp.  – “Bên Thắng Cuộc” dưới cái nhìn của một nhà kinh tế (RFA).
Xin bàn tiếp hôm qua về tư thế của các “quan tòa” nghiệp dư mới được trưng dụng trong vụ xử vội xuyên … lục địa này (vì “bị cáo” đang ngồi bên kia bán cầu).
Với Đức Hiển thì đã rõ hoàn toàn, “quan tòa” này có hẳn một bài công phu, đăng ngay trên tờ báo mà mình làm thư ký tòa soạn, nên chắc không bị ai “xuyên tạc”, “lợi dụng” … Một điểm đáng chú ý là trang Dân Việt đã đăng lại, để rồi 2 tuần sau đi tiếp loạt bài cùng chủ đề, rất đáng bàn về một lối làm báo đáng chê trách.
Lưu Đình Triều, là trưởng phòng của báo Tuổi trẻ, con trai cố nhà báo kỳ cựu Lưu Quý Kỳ. Trong vụ xử, có vẻ ông đã bị DV lợi dụng, bắt làm quan tòa bất đắc dĩ. Trò lợi dụng này của DV lộ lên ở hai điểm:
1- Từ nội dung một “cuộc gặp gỡ với bạn bè” nào đó, không rõ ở đâu, với ai, thế mà DV dựng lên hẳn thành một bài, nhưng quá sơ sài, chẳng có luận cứ, dẫn chứng gì, để chỉ trích một tác phẩm mà chính báo chí trong nước cũng không thể phủ nhận là có lượng thông tin đồ sộ.
32- Sau bài đầu tiên đó, DV đã làm chuyện kỳ quặc là tự đăng lại bài 2 kỳ của chính mình cách đó 2 năm, đồng thời sửa đổi hoàn toàn tên bài, không ăn nhập gì với nội dung, và nhất là trái logic thời gian đến nực cười. Một ý đồ không đàng hoàng chút nào, rất trắng trợn và coi thường độc giả. Nhưng … vẫn có một điều cần biết là ông Lưu Đình Triều có được DV hỏi ý kiến về toàn bộ trò lợi dụng này không? Là một nhà báo lão luyện, không lẽ ông vẫn chấp nhận trò làm báo tệ hại đến vậy?
Nhà Nghiên cứu Cao Tự Thanh cũng có vẻ như bị lợi dụng khi ông đã phải lên tiếng than phiền trên mạng tự do về một bài phỏng vấn của mình trên tờ PLTPHCM. Tuy nhiên, câu hỏi đơn giản có thể đặt ra ở đây là có phải ông Cao Tự Thanh hoàn toàn bị lợi dụng hay không, hay ông đã chủ động để PL TPHCM lợi dụng, nhưng họ lại đi quá xa tới mức ông không ngờ tới, nên ông phải cố gắng giữ danh dự phần nào bằng một vài thông tin trên mạng tự do? Hay đây hoàn toàn là một màn kịch mà ông và PL TPHCM cùng lên kịch bản và trình diễn? Phải nghiêm khắc đặt vấn đề tới tận cùng như vậy bởi màn kịch này đã đụng tới không chỉ sinh mạng chính trị một con người, mà còn cả những điều lớn lao hơn của đất nước.
Nếu là những người có nhân cách và trách nhiệm, các ông Lưu Đình Triều, Cao Tự Thanh quá dễ để lên tiếng làm rõ, không phải chỉ đơn giản bằng vài thông tin như nêu trên. Bổ sung, hồi 10h20′, một độc giả méc bài của Lưu Đình Triều:
Không “hố sâu thực sự” (TT/ Ba Sàm). Như vậy là không còn phải đặt dấu hỏi về ông này nữa rồi!
Loại “quan tòa” thứ ba là các “độc giả ẩn danh“. Loại này có thể đoán được họ là người của các cơ quan quản lý báo chí (công an, tuyên giáo, 4T). Phong cách làm báo này đã có từ lâu, điển hình như trong vụ Tòa Khâm sứ ở Hà Nội. Có một bài viết lấy danh nghĩa “giáo dân” để phê phán Giám mục Ngô Quang Kiệt, thế nhưng trong báo giới nhiều người cho biết đó là bài của ông Hồng Vinh, mới rời ghế phó ban Tuyên giáo TƯ trước đó.
“Quan tòa” thứ tư, rất hiếm, đó là nghị khùng Hoàng Hữu Phước. Loại này thì khỏi phải bàn, nên chính báo nhà nước cũng không thể xài nổi bản “luận tội” của ông ta.
Loại “quan tòa” thứ năm mới là kinh khủng và đáng lên án. Xin được bàn tiếp kỳ sau.
- Về cuốn sách Bên Thắng Cuộc: Biết một nửa còn hơn không (Nguyễn Thông). Tiếp lời hẹn sáng qua, xin bàn về loại “quan tòa” thứ năm đang xử án tác giả Huy Đức. Họ chính là các vị TBT của những tờ báo PLTP, DV, SGGP, TT, CATP,  … đang tham gia vào “phiên xử” này. Tại sao nói họ “kinh khủng và đáng lên án”? Bởi không đơn giản họ là những “quan tòa” nấp sau cánh gà, mà họ còn đang “bắn” vào lưng đồng đội …
Cách đây chừng 5 năm, trong cuộc trò chuyện với một nhà báo cao niên về nỗi thống khổ mà tờ tạp chí của ông luôn phải chịu đựng vì hay bị “soi” và đe nẹt, chúng tôi đã bàn tới một “chiến thuật”, gọi là “giàn hàng ngang mà tiến”. Đó là các báo muốn cố gắng xông pha vào một số vấn đề được coi là “nhạy cảm” chính trị, thì nên nhìn nhau, thống nhất cùng nhau mà thực hiện, hơn là cứ mạnh ai nấy xông lên. Có như vậy thì mới đỡ bị “bắn” hạ một cách đơn độc. Có lẽ nhiều lãnh đạo các báo cũng thừa hiểu và từng cố gắng làm điều này. Như vụ TS Cù Huy Hà Vũ kiện thủ tướng, chỉ thị trong giao ban rằng chỉ trang web chính phủ đưa tin thôi, nhưng hàng loạt báo đài đã cùng “vi phạm”. Thế là không dễ xử lý với từng đó kẻ “tội đồ”. Gần đây là vụ đưa tin Trung Quốc “cắt cáp” tàu Bình Minh 2. Không biết có phải vì nhiều nơi “vi phạm”, khó xử lý cả, hay Ban Tuyên giáo cũng đã phải nghĩ lại trước dư luận trái chiều rất mạnh, mà tới giờ chưa thấy thông báo kỷ luật.
Phải kể lại chuyện này vì muốn các nhà báo hình dung lại khái niệm mình là thứ “quyền lực thứ Tư”, đang cùng nhau chiến đấu trên mặt trận chống lại những tiêu cực xã hội. Rất cần kề vai sát cánh, đoàn kết, chung lòng.
Làng báo cũng như độc giả quá biết Huy Đức – Osin là ai. Ông, cùng với tờ SGTT của mình, hay những báo khác trước đây ông tham gia, không những từng có những bài báo sắc sảo, mạnh mẽ đấu tranh cho phát triển xã hội, mà còn mở blog riêng, cố gắng “lách” trong cả rừng kiểm soát khắt khe. Không dừng ở đó, ông đã tận dụng lợi thế của một nhà báo, không bỏ phí tư liệu thu thập được bao năm ròng khi tác nghiệp, để bước qua lãnh địa sử học, đóng góp cho xã hội một bộ tài liệu vô giá. Nên có thể đánh giá cuốn “Bên thắng cuộc” là một tác phẩm báo chí độc đáo của một nhà báo giỏi và đầy tâm huyết.
Tất cả những phản ứng của độc giả ít nhất là qua trang blog này đã chứng tỏ sự ủng hộ của quần chúng lớn tới đâu đối với cuốn sách. Chưa kể tới bao nhiêu vị trí thức, nhân sĩ, giới văn nghệ, cán bộ, đảng viên …  ở ngoài đời, đã thể hiện thái độ háo hức và trân trọng đến thế nào đối với nó.
Thế nhưng, các đồng nghiệp đứng đầu các tờ báo nói trên đã làm gì? Có phải họ ẩn nấp phía sau, rồi bằng các phiên tòa lưu động là tờ báo của mình, được họ tùy ý sử dụng, để “bắn” vào lưng đồng đội Huy Đức đang tiến lên đơn độc hay không? Sợ dư luận lên án và muốn đánh lừa độc giả, họ sử dụng những bài viết cố kiếm cách lập luận quanh co, ngụy biện, chụp mũ, đặc biệt là chỉ một chiều, không có phản hồi, tranh luận từ nhiều phía, hầu như không có dẫn chứng cụ thể, để nhồi vào phiên tòa mà họ hoàn toàn kiểm soát. Làm vậy, không những họ đang bắn vào lưng đồng đội, mà còn bắn bằng … “súng giảm thanh”, với những viên đạn “bọc đường tẩm thuốc độc”, bắn vào không chỉ đồng nghiệp Huy Đức.
Bài 1563. Không “hố sâu thực sự” của Nhà báo Lưu Đình Triều trên Tuổi trẻ, sau 20 giờ đồng hồ đăng lại, đã có 150 phản hồi, trong đó có nhiều ý kiến được viết công phu, sâu sắc. Chúng tôi đã đăng một trong các phản hồi đó ở cuối bài. Đáng chú ý có đoạn: “Giao ban báo chí mới đây, trên anh Đinh tặc đã chỉ thị không nói về Bên thắng cuộc nữa. Lý do, là [làm vậy như] quảng cáo không công cho Huy Đức. Quan trọng hơn, đây là cuốn sách đồ sộ về tư liệu, lần đầu tiên và khá đầy đủ, góp phần lột rõ bộ mặt của] chế độ, cả trong quá khứ tàn bạo về hành xử, u mê về chủ thuyết, cho tới chuyện”đánh cắp lịch sử”. [Ở] Trên các ảnh sợ là phải! Bài anh Triều có lẽ là bài cuối của “lề phải” về cuốn BTC?”. 
Bổ sung, 8h30′, TS Tô Văn Trường có nhận xét: Quyển sách “Bên thắng cuộc” và “Quyền bính” của Huy Đức được nhiều người bình luận tùy theo nhận thức, góc nhìn của mỗi người. Đối với tôi, tuy còn những “hạt sạn”  nhưng đây là cuốn sách đáng đọc và suy ngẫm.).





Copy từ Anh Ba Sàm  ở đây   và ở đây

Ngoại trưởng Mỹ: “Đừng chạm đến Senkaku trong tay Nhật”!

 Ngoại trưởng Mỹ: “Đừng chạm đến Senkaku trong tay Nhật”! Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton gây phản ứng mạnh từ phía Trung Quốc.

Những động thái hiện nay cho thấy, Chính phủ Mỹ đã ý thức được rằng khả năng bùng nổ xung đột ở Điếu Ngư đã vượt qua rủi ro theo kiểu “súng cướp cò”.
Lời tuyên bố trên của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton như đổ thêm dầu vào ngọn lửa tranh chấp chủ quyền Senkaku/Điếu ngư vốn đang sôi lên sùng sục giữa Nhật và Trung Quốc. Truyền thông Trung Quốc gay gắt chỉ trích Mỹ đã “phản bội” lại cam kết giữ lập trường trung lập về vấn đề này. Trong khi đó, phía Nhật dẫn các hoạt động và phát ngôn hiếu chiến gần đây của Trung Quốc, cho rằng: “Trung Quốc đang muốn thay đổi trật tự hiện có bằng cách cưỡng ép và hăm dọa”.

Trước những động thái cho thấy Trung Quốc đang từng bước thách thức sự kiểm soát của Nhật đối với quần đảo Senkaku mà họ gọi là Điếu Ngư, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cuối tuần qua đã có lời cảnh báo đến Trung Quốc rằng nước này đừng có thách thức quyền kiểm soát của Nhật đối với một quần đảo hiện đang có tranh chấp chủ quyền trên biển Hoa Đông.

Bà Clinton còn khẳng định rằng, quần đảo này hiện đang do Nhật kiểm soát, do đó sẽ được Mỹ bảo vệ trong khuôn khổ Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật. Bà Ngoại trưởng Mỹ đưa ra bình luận này trong cuộc gặp với người đồng nhiệm Nhật Fumio Kishida - quan chức của Nhật đến Mỹ sau khi chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe lên cầm quyền. “Chúng tôi không muốn thấy bất cứ hành động nào do bất cứ bên nào có thể làm gia tăng căng thẳng hoặc đưa đến việc tính toán sai có thể làm tổn hại cho hòa bình, an ninh và tăng trưởng kinh tế trong khu vực” - bà nói.

Phản ứng trước động thái trên, THX ngày 19.1 đã đăng bài bình luận chỉ trích lập trường của Washington, cho rằng nó “tạo ra hoài nghi về sự đáng tin (của Mỹ) với tư cách là một cường quốc có trách nhiệm trong khu vực”. Nhiều báo chính thống của Trung Quốc đã lên án, cho rằng Washington đã “không khôn ngoan khi bày tỏ ủng hộ Nhật và hành động thiếu công bằng này đã phản bội tuyên bố trước đây của Washington là giữ lập trường trung lập”.

Ngày 20.1, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương cũng đã ra tuyên bố cho biết, Trung Quốc hết sức bất bình và kiên quyết phản đối bình luận của Mỹ về quần đảo Điếu Ngư. Ông Tần Cương nói: “Chúng tôi yêu cầu phía Mỹ cần có thái độ trách nhiệm liên quan đến vấn đề quần đảo Điếu Ngư”...

Về phần mình, Ngoại trưởng Nhật Kishida nói, ông hoan nghênh lập trường của Mỹ và nhận xét rằng lời bình luận của bà Clinton sẽ “chống lại bất kỳ hành động đơn phương nào có thể xâm phạm quyền kiểm soát của Nhật đối với quần đảo Senkaku”.

Những động thái hiện nay cho thấy, Chính phủ Mỹ đã ý thức được rằng khả năng bùng nổ xung đột ở Điếu Ngư đã vượt qua rủi ro theo kiểu “súng cướp cò”. Do vậy, giới chức Washington kêu gọi Trung-Nhật bình tĩnh trong vấn đề Điếu Ngư/Senkaku, đồng thời Mỹ cũng lưu ý đối với Chính phủ Nhật, yêu cầu Lực lượng Phòng vệ Nhật không được bắn pháo hiệu nhằm vào các máy bay Trung Quốc bay ở vùng trời gần quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Giới học giả Mỹ cũng lo lắng nếu Tokyo bắn pháo hiệu cảnh cáo máy bay Trung Quốc, có thể Bắc Kinh cho rằng đó không phải là pháo hiệu mà là... viên đạn.

Trung Quốc và Nhật Bản đang thách thức giới hạn đỏ của nhau. Nếu Trung Quốc tiếp tục cử máy bay tới Điếu Ngư/Senkaku và Nhật bắn pháo hiệu cảnh cáo, Bắc Kinh sẽ có hành động tiếp theo. Trong bối cảnh tình hình căng thẳng leo thang như vậy, các nhà phân tích Mỹ cũng cho rằng, khả năng Mỹ sẽ bị cuốn vào xung đột Nhật-Trung là hiện thực.    




Copy từ: Lao Động


DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN KÊU GỌI THỰC THI QUYỀN CON NGƯỜI (TỪ ĐỢT 1 ĐẾN ĐỢT 21)


DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN KÊU GỌI THỰC THI QUYỀN CON NGƯỜI (TỪ ĐỢT 1 ĐẾN ĐỢT 21)

Để ký tên vào Lời kêu gọi này, xin đồng bào trong và ngoài nước gửi e-mail về địa chỉ loikeugoi2012@gmail.com, ghi rõ họ tên, nghề nghiệp, chức danh (nếu có) và địa chỉ.
Danh sách dưới đây đã được rà soát để loại bỏ trùng tên.
Bauxite Việt Nam
TỪ ĐỢT 1 ĐẾN ĐỢT 17
ĐỢT 18:
  1. Bùi Văn Như, Thái Bình
  2. Nguyễn Văn Dương, Thái Bình
  3. Nguyễn Thị Dung, Nam Định
  4. Nguyễn Văn Thắng, Hải Phòng
  5. Nguyễn Thị Nhường, Hà Nội
  6. Mai Công Nhật, kinh doanh, Hà Nội
  7. Nguyễn Quốc Cường, Hà Nội
  8. Phạm Văn Thuận, Nghệ An
  9. Trần Công Điềm, Nghệ An
  10. Mai Văn Hải, sinh viên, Hà Nội
  11. Hoàng Thị Huế, sinh viên, Thái Bình
  12. Nguyễn Văn Tưởng, sinh viên, Hà Nội
  13. Vũ Hồng Nhung, sinh viên, Hà Nội
  14. Nguyễn Việt Cường, sinh viên, Hà Nội
  15. Nguyễn Văn Linh, lao động tự do, Hưng Yên
  16. Nguyễn Duy Tiền, doanh nghiệp, Nam Định
  17. Trần Văn Phương, sinh viên, Ninh Bình
  18. Phạm Thị Vân, lao động tự do, Thái Bình
  19. Vũ Thị Nhài, sinh viên, Hà Nội
  20. Vũ Ngoc Băng, kỹ sư, Đồng Nai
  21. Nguyễn Thị Mạnh Thư, sinh viên, Hà Nội
  22. Trần Thị Hương, công nhân viên, Hà Nội
  23. Đào Thị Thanh Hà, sinh viên, Hà Nội
  24. Nguyễn Thị Hồng, Nam Định
  25. Hoàng Thị Tuyết, Nam Định
  26. Vũ Thị Thắm, Nam Định
  27. Nguyễn Thu Hằng, sinh viên, Phú Thọ
  28. Nguyễn Thị Minh Trâm, Hà Nội
  29. Phạm Văn Hùng, nhân viên, Thái Bình
  30. Bùi Thị Tươi, nhân viên, Nam Định
  31. Vũ Văn Tuấn, nhân viên, Nam Định
  32. Nguyễn Ngọc Ngôn, sinh viên, Hà Nội
  33. Nguyễn Thị Hường, sinh viên, Phú Thọ
  34. Nguyễn Quốc Quân, sinh viên, Nghệ An
  35. Ngô Thị Phương, nội trợ, Nam Định
  36. Trần Thị Thoa, sinh viên, Thái Bình
  37. Đinh Văn Bê, nhân viên, Nam Định
  38. Phan Phong, hưu trí, Hà Nội
  39. Nguyễn Ngọc Vương, sinh viên, Hà Tĩnh
  40. Nữ Thị Nui,NamĐịnh
  41. Nguyễn Thị Thanh Thắm, Hà Tĩnh
  42. Nguyễn Văn Hòa, Nghệ An
  43. Nguyễn Văn Đức, sinh viên, Hà Nội
  44. Phạm Thị Nhân, lao động tự do, Thái Bình
  45. Nguyễn Trà My, học sinh, Hà Nội
  46. P Doãn Thủy Tiên, học sinh, Hà Nội
  47. Dương Nguyệt Ánh, học sinh, Hà Nội
  48. Đặng Khánh Ly, học sinh, Hà Nội
  49. Trần Thị Phương Thúy, sinh viên, HàNam
  50. Trịnh Thị Phương, sinh viên,NamĐịnh
  51. Phạm Văn Yên, công nhân viên, Nam Định
  52. Trần Thị Diệp, hưu trí, Hà Nội
  53. Nguyễn Thị Minh, hưu trí, Hà Nội
  54. Vũ Thị Nụ Hoa, giáo viên, Hà Nội
  55. Trần Thị Loan, sinh viên, Thanh Hóa
  56. Nguyễn Thị Thông, nội trợ, Hà Nội
  57. Lê Thị Mai, kỹ sư, Hà Nội
  58. Đinh Văn Hoan, kỹ sư, Hà Nội
  59. Đặng Thị Nụ, giáo viên, HàNam
  60. Vũ Thị Thúy, sinh viên,NamĐịnh
  61. Nguyễn Thị Phương, sinh viên, Hà Tĩnh
  62. Đặng Thị Thanh, Nghệ An
  63. Nguyễn Thị Xuân, nông dân, HàNam
  64. Nguyễn Văn Bình, Nghệ An
  65. Nguyễn Thị Vân, sinh viên, Bắc Ninh
  66. Nguyễn Thị Thu Hương, sinh viên, Bắc Ninh
  67. Lưu Thị Ánh, sinh viên,NamĐịnh
  68. Đỗ Văn Thắng, sinh viên, Thái Bình
  69. Nguyễn Thị Hà, sinh viên, Thái Bình
  70. Nguyễn Văn Đồng, sinh viên,NamĐịnh
  71. Nguyễn Văn Ghi, lao động tự do, Hà Nội
  72. Trịnh Thế Anh, lao động tự do, Hà Nội
  73. Vũ Văn Quân, lao động tự do, Hà Nội
  74. Nguyễn Văn Anh, xây dựng, Thái Bình
  75. Đỗ Đức Long, xây dựng,NamĐịnh
  76. Nguyễn Thị Uyên, sinh viên, HàNam
  77. Bùi Văn Tuân, HàNam
  78. Phạm Thị Tuyết, lao động tự do,NamĐịnh
  79. Mai Văn Uyên, xây dựng, Hà Nội
  80. Vũ Thị Huế, lao động tự do,NamĐịnh
  81. Đỗ Thị Quỳnh, giáo viên, Hà Nội
  82. Nguyễn Thị Thúy, giáo dân, Hà Nội
  83. Nguyễn Văn Từ, Hà Nội
  84. Phạm Đình Việt, sinh viên, Hà Nội
  85. Bùi Quốc Trung, quay phim, Hà Nội
  86. Đỗ Huy Toàn, sửa xe, Hà Nội
  87. Hoàng Thị Lương, giáo viên, Hà Nội
  88. Nguyễn Văn Mạnh, lái xe, Thái Bình
  89. Đinh Văn Giang, sinh viên,NamĐịnh
  90. Đào Văn Bắc, kỹ sư, Hà Nội
  91. Nguyễn Thị Ngọc Mai, sinh viên, Hà Nội
  92. Đỗ Ngọc Lương, sinh viên, Hà Nội
  93. Phạm Hồng Phong, sinh viên, Ninh Bình
  94. Trần Anh Đông, sinh viên, Hà Nội
  95. Phạm Văn Đăng, công nhân, Ninh Bình
  96. Chu Văn Hào, sinh viên, Bắc Giang
  97. Nguyễn Thị Việt, hưu trí, Hà Nội
  98. Đinh Thị Yến Nhung, công nhân, Việt Trì
  99. Đỗ Mạnh Thế, giám đốc, Hà Nội
  100. Nguyễn Thị Thu Hoài, giám đốc, Hà Nội
  101. Đỗ Thị Lam, công nhân, Tam Nông, Phú Thọ
  102. Phạm Thị Trang, nhân viên, Hà Nội
  103. Nguyễn Thị Quỳnh, kế toán, Hà Nội
  104. Nguyễn Văn Sang, công nhân, Hà Nội
  105. Phạm Thị Hồng Liên, sinh viên, Thái Bình
  106. Phạm Thị Hiền, sinh viên, Hà Nội
  107. Trần Thị Hiền, sinh viên, Hà Nội
  108. Phạm Văn Điều, sinh viên, Ninh Bình
  109. Nguyễn Diệu Linh, sinh viên, Thái Bình
  110. Nguyễn Thị Huê, giáo viên, Hà Nội
  111. Nguyễn Thị Hải, kế toán, Hà Tĩnh
  112. Trần Viên, công dân, Nghệ An
  113. Vũ Văn Huynh, công dân, Ninh Bình
  114. Phạm Thị Nhung, kế toán,NamĐịnh
  115. Trần Văn Sỹ, lao động tự do,NamĐịnh
  116. Trần Văn Thắng, kỹ sư,NamĐịnh
  117. Phạm Thị Mai Anh, sinh viên, Thái Bình
  118. Phạm Thị Trí, lao động tự do, Thái Bình
  119. Vũ Thị Hằng, sinh viên, Ninh Bình
  120. Vũ Ngọc Phan, sinh viên,NamĐịnh
  121. Nguyễn Xuân Quang, công dân, Thanh Hóa
  122. Nguyễn Thị Tuyết, công dân,NamĐịnh
  123. Võ Hoàng Lương, bác sĩ, Hà Nội
  124. Trần Chí Chung, học sinh,NamĐịnh
  125. Maria Nguyễn Thị Lia, sinh viên, Hà Tĩnh
  126. Trần Văn Vinh, lái xe, Thanh Hóa
  127. Hà Văn Cương, lái xe, Hà Nội
  128. Lê Hồng Thông, Nghệ An
  129. Nguyễn Ngọc Sơn,NamĐịnh
  130. Nguyễn Văn Lưu, học sinh, Nghệ An
  131. Nguyễn Tuấn Anh, kinh doanh, Hà Nội
  132. Phạm Văn Thái, kinh doanh,NamĐịnh
  133. Phan Văn Đồng, sinh viên,NamĐịnh
  134. Vũ Thị Phượng, Yên Bái
  135. Đỗ Thị Thúy, Yên Bái
  136. Nguyễn Thị Chinh, Yên Bái
  137. Nguyễn Văn Đạt, sinh viên,NamĐịnh
  138. Phạm Văn Quyết,NamĐịnh
  139. Nguyễn Thị Mơ, công nhân, Thái Bình
  140. Phan Kim Đạt, nhân viên, Hà Nội
  141. Phạm Minh Tuấn diễn viên, Hà Nội
  142. Đỗ Thị Kim Lương,NamĐịnh
  143. Đoàn Công Nhuệ, kỹ sư, Hà Nội
  144. Bùi Thị Thanh, Thanh Hóa
  145. Nguyễn Thị Hằng, sinh viên, Thái Bình
  146. Đặng Thị Ngọc, sinh viên, Hà Nội
  147. Trần Thị Thúy, sinh viên, Ninh Bình
  148. Nguyễn Viết Đàn, sinh viên, Hà Tĩnh
  149. Trần Văn Lãng, sinh viên, Hải Dương
  150. Nguyễn Thị Trâm, Nghệ An
  151. Nguyễn Ngọc Mai, công dân, Hà Nội
  152. Trương Văn Lý, công nhân, Hà Nội
  153. Hoàng Thị Viên, bán hàng, Hải Dương
  154. Vũ ĐứcThanh,NamĐịnh
  155. Nguyễn Hải Oanh, sinh viên, Hà Nội
  156. Trịnh Văn Sơn, sinh viên, Hà Nội
  157. Nguyễn Văn Việt, sinh viên, Hà Nội
  158. Nguyễn Đăng Doanh, kiến trúc sư, Hà Nội
  159. Trần Văn Cầu, sinh viên,NamĐịnh
  160. Nguyễn Văn Thiện, sinh viên, Hà Nội
  161. Phạm Thúy Hồng, Hà Nội
  162. Nguyễn Bào Thiện, sinh viên, Hà Nội
  163. Trần Bá Huy, sinh viên, Hà Nội
  164. Vũ Mạnh Duy, sinh viên, Hà Nội
  165. Trần Đăng Thưởng, sinh viên, Thái Bình
  166. Trần Văn Minh, sinh viên,NamĐịnh
  167. Nguyễn Thế Huỳnh, kinh doanh,NamĐịnh
  168. Trần Thị Màu, lao động tự do,NamĐịnh
  169. Nguyễn Văn Thành, Nghệ An
  170. Hà Trung Hiếu, Hà Nội
  171. Trần Xuân Phương, lao động tự do,NamĐịnh
  172. Trần Thị Vân Anh, sinh viên, Phú Thọ
  173. Vũ Thị Hà, sinh viênNamĐịnh
  174. Trần Văn Biên, sinh viên,NamĐịnh
  175. Đỗ Phương Thảo, học sinh, Hà Nội
  176. Phạm Minh Trí, học sinh, Hà Nội
  177. Vũ Huy Hoàng, học sinh, Hà Nội
  178. Quách Trung Hiếu, học sinh, Hà Nội
  179. Ngô Thục Hiền, học sinh, Hà Nội
  180. Đỗ Ngọc Hà, sinh viên, Hà Nội
  181. Nguyễn Thùy Dương, nội trợ, Hà Nội
  182. Nguyễn Thiên Phú, lao động tự do, Hà Nội
  183. Vũ Văn Long, Hà Nội
  184. Nguyễn Văn Khuê, lao động tự do, Hà Nội
  185. Hoàng Thanh Hải, nông dân,NamĐịnh
  186. Trần Chí Dũng, lái xe, Hà Nội
  187. Trần Văn Phú, sinh viên,NamĐịnh
  188. Nguyễn Hồng Tấn, buôn bán, Thái Bình
  189. Phạm Thị Hằng, nông dân, Hưng Yên
  190. Nguyễn Thị Dậu, nông dân,NamĐịnh
  191. Trần Thị Lan, lao động tự do, Thái Bình
  192. Phạm Diệu Linh, giáo viên, Thái Bình
  193. Phan Trí Tuệ, nhân viên,NamĐịnh
  194. Trần Thị Thu, nhân viên,NamĐịnh
  195. Trần Thị Loan, sinh viên, Ninh Bình
  196. Vũ Văn Lợi, nội thất, Hà Nội
  197. Trần Hùng Phương, buôn bán,NamĐịnh
  198. Nguyễn Thị Vân, kinh doanh, Hưng Yên
  199. Bùi Văn Tuyên, công nhân, Hà Nội
  200. Nguyễn Văn Anh, sinh viên, Thái Bình
  201. Nguyễn Thị Huyên, kinh doanh,NamĐịnh
  202. Cao Đình Ngọc, sinh viên, Hà Tĩnh
  203. Vũ Thị Nga, sinh viên, Thái Bình
  204. Nguyễn Thị Hoài Thương, học sinh, Hà Nội
  205. Nguyễn Quang, bác sĩ, Hà Nội
  206. Đỗ Thị Hoa, kế toán, Hà Nội
  207. Lê Thị Sương, tư vấn, Hà Tĩnh
  208. Lương Thị Hiền, bán hàng,NamĐịnh
  209. Trần Bích Thủy, giáo viên,NamĐịnh
  210. Phan Văn Lộc, lao động tự do,NamĐịnh
  211. Lưu Văn Thu,NamĐịnh
  212. Đặng Văn Trường, lao động tự do,NamĐịnh
  213. Nguyễn Tuyết Mai, sinh viên, Hà Nội
  214. Nguyễn Văn Thể,NamĐịnh
  215. Phạm Thị Thanh Ngân, lao động tự do, Hà Nội
  216. Phạm Văn Hạnh, văn phòng, Hải Dương
  217. Nguyễn Trần Liên, cán bộ, Hà Nội
  218. Vũ Minh Phúc, kinh doanh, Hà Nội
  219. Nguyễn Thị Hoa,NamĐịnh
  220. Vũ Thị Thùy Vân, kinh doanh, Hà Nội
  221. Ngô Thị Mai, nông dân, HàNam
  222. Vũ Thị Tình, sinh viên, Hải Dương
  223. Nguyễn Thị Hằng, Thanh Hóa
  224. Hoàng Thị Trang, sinh viên,NamĐịnh
  225. Đào Thị Huyền, sinh viên, Bắc Giang
  226. Đinh Thị Nga, Hà Nội
  227. Trịnh Thị Miến, Hà Nội
  228. Bùi Thị Hương, sinh viên, Thái Bình
  229. Đinh Thị Thu, sinh viên, Hà Tĩnh
  230. Lê Thị Thu Hiền, sinh viên, Tuyên Quang
  231. Nguyễn Thị Hồng, sinh viên,NamĐịnh
  232. Mai Thị Phương, sinh viên,NamĐịnh
  233. Phạm Thị Khánh Ly, sinh viên,NamĐịnh
  234. Trần Văn Dương, sinh viên,NamĐịnh
  235. Nguyễn Xuân Sơn, sinh viên, Hà Nội
  236. Nguyễn Thanh Tùng, sinh viên, Hà Nội
  237. Trần Quang Hiếu, học sinh, Hà Nội
  238. Nguyễn Thị M Hương, học sinh, Hà Nội
  239. Hoàng T Lan Anh, học sinh, Hà Nội
  240. Dương Thị Hương Giang, nội trợ, Hà Nội
  241. Đỗ Dương Quỳnh, học sinh, Hà Nội
  242. Trần Thị Vân, sinh viên,NamĐịnh
  243. Nguyễn Thị Diệp, sinh viên, Hà Tĩnh
  244. Nguyễn Văn Hưởng, sinh viên,NamĐịnh
  245. Đào Thanh Vân, sinh viên, Bắc Ninh
  246. Đào An Phước, sinh viên, Thái Bình
  247. Phạm Văn Luật, thợ cơ khí, Nghệ An
  248. Trần Thị Lý, sinh viên, Thanh Hóa
  249. Nguyễn Thị Thảo, dược sĩ, Thanh Hóa
  250. Vũ Văn Hoàn, sinh viên,NamĐịnh
  251. Lê Thị Chinh, sinh viên,NamĐịnh
  252. Trịnh Thị Hường, Hà Tĩnh
  253. Hà Thị Hà Trang, Hà Tĩnh
  254. Đỗ Hữu Nghĩa, Hà Nội
  255. Vũ Đình Phóng, Hà Nội
  256. Ngô Văn Hân, lao động tự do,NamĐịnh
  257. Đỗ Văn Bản, sinh viên, Hà Nội
  258. Trần Thị Hương, kinh doanh, Hà Nội
  259. Chu Quang Liêm, sinh viên, Hà Nội
  260. Lưu Đình Quang, kinh doanh, Hà Nội
  261. Nguyễn Văn Triệu, lái xe,NamĐịnh
  262. Đặng Thị Phương, sinh viên, Hà Nội
  263. Nguyễn Văn Dụng, kinh doanh, HàNam
  264. Trần Thu Hoài, sinh viên, HàNam
  265. Nguyễn Quyết Luyến,NamĐịnh
  266. Nguyễn Thị Bảo Yến, sinh viên,NamĐịnh
  267. Nguyễn Như Hồng Ân, sinh viên, Nghệ An
  268. Phạm Văn Điệp, kỹ sư, Hà Nội
  269. Phạm Văn Trung, tư vấn,NamĐịnh
  270. Trần Thị Hằng, Hà Nội
  271. Nguyễn Thị Hải Anh, sinh viên, Thái Bình
  272. Nguyễn Thị Mỹ, bác sĩ, Hà Nội
  273. Đỗ Xuân Sơn, học sinh, Hà Nội
  274. Đỗ Văn Hưng, học sinh, Ninh Bình
  275. Triệu Văn Hiển, lao động tự do, HàNam
  276. Vũ Lộc, lao động tự do, Hà Nội
  277. Nguyễn Quốc Lịch, sinh viên, Hà Nội
  278. Trần Xuân Dương, lái xe, Hà Nội
  279. Tạ Văn Tuyên, bán hàng, Hà Nội
  280. Trần Thanh Điền, Hà Nội
  281. Bùi Lan Hương, sinh viên, Hà Nội
  282. Đỗ Đức Cương, kinh doanh, Hà Nội
  283. Lại Văn Thuận, kinh doanh, Hà Nội
  284. Trần Văn Lãnh, kinh doanh, Hà Nội
  285. Trần Bảo An,NamĐịnh
  286. Nguyễn Văn Dũng, kinh doanh, Hà Tĩnh
  287. Phan Văn Bốn, kỹ sư, Hà Nội
  288. Trần Thanh Huyền, sinh viên, HàNam
  289. Ngô Thị Thu Phương, giáo viên, Hà Nội
  290. Cao Thành Luân, sửa chữa xe máy,NamĐịnh
  291. Phan Kim Dung, sinh viên, Thái Bình
  292. Nguyễn Văn Cỏn, hưu trí, Hà Nội
  293. Maria Trần Thị Yến, Hà Nội
  294. Nguyễn Thị Nga, buôn bán, Hà Nội
  295. Vũ Thị Hiền, thẩm mỹ, Hà Nội
  296. Nguyễn Văn Vĩnh, kinh doanh, Hà Nội
  297. Maria Trần Thị Thái, giáo viên, Hà Nội
  298. Maria Nguyễn Liên, Bùi Chu, Hà Nội
  299. Giuse Nguyễn Ngọc Năm, Bùi Chu, Hà Nội
  300. Vicente Vũ Văn Trung, lao động tự do, Bùi Chu, Hà Nội
  301. Maria Phạm Thị Hoài, sinh viên, Nghệ An
  302. Maria Phạm Thị Dung, sinh viên, Nghệ An
  303. Maria Cao Thị Hạnh, lao động tự do, Hưng Yên
  304. Maria Ngô Thị Thanh My, lao động tự do, Hưng Yên
  305. Phạm Thị Dịu, lao động tự do, Thái Bình
  306. Nguyễn Hoàng Hạnh, kinh doanh, Hà Nội
  307. Nguyễn Thị Thanh, Hà Nội
  308. Phan Phúc Định, điện lạnh, Hà Nội
  309. Trần Công Điền,NamĐịnh
  310. Đinh Thị Đào,NamĐịnh
  311. Nguyễn Công Nguyên, Thái Bình
  312. Vũ Anh Quang, sinh viên, Sơn Tây
  313. Trần Thị Tuyết, sinh viên, Hà Nam
  314. Đỗ Hữu Nam, sinh viên, Thanh Hóa
  315. Nguyễn Kiến Hưng, sinh viên, Hà Nam
  316. Nguyễn Văn Cường, Thái Bình
  317. Trần Văn Cẩn, kỹ sư, Nam Định
  318. Đinh Đức Công, lao động tự do, Nam Định
  319. Nguyễn Thị Trang, sinh viên, Thái Bình
  320. Trần Văn Tân, sinh viên, Nam Định
  321. Nguyễn Văn Huấn, sinh viên, Nghệ An
  322. Nguyễn Thị Duyên, lao động tự do, Nam Định
  323. Đoàn Văn Trịnh, lao động tự do, Hưng Yên
  324. Đoàn Văn Dụ, lao động tự do, Hưng Yên
  325. Doàn Khánh Luy, lao động tự do, Hưng Yên
  326. Tạ Thị Huê, lao động tự do, Hưng Yên
  327. Đặng Văn Trình, lao động tự do, Hưng Yên
  328. Vũ Văn Duyên, sinh viên, Thái BÌnh
  329. Trần Thị Nguyệt, lao động tự do, Nam Định
  330. Trần Văn Quang, sinh viên, Nam Định
  331. Vũ Văn Lân , sinh viên, Thái Bình
  332. Trần Đức Long, sinh viên, Bắc Ninh
  333. Vũ Thị Trang, sinh viên, Thái Bình
  334. Lê Thị Hồng, Hà Nội
  335. Phan Quang Thuần, sinh viên, Hà Tĩnh
  336. Nguyễn Văn Dũng, Hà Nam
  337. Trần Thị Vui, sinh viên, Hà Nội
  338. Phạm Thị Lan, sinh viên, Hà Nội
  339. Nguyễn Minh Chiến, họa sĩ, Hà Nội
  340. Tạ Văn Kiên, sinh viên, Hà Nội
  341. Vũ Văn Yên, sinh viên, Hà Nội
  342. Nguyễn Văn Thắng, buôn bán, Nam Định
  343. Phạm Minh Tuấn, sinh viên, Thái Bình
  344. Đỗ Bá Hải, sửa xe, Phú Thọ
  345. Lê Thị Lan, bán hàng,NamĐịnh
  346. Nguyễn Thị Thảo, nông dân, Phú Thọ
  347. Phạm Thị Hiển, Hà Nội
  348. Nguyễn Thị Hoan, Phú Thọ
  349. Lưu Cao Thanh, kinh doanh, Đăk Lắk
  350. Phạm Văn Lượng, sinh viên, Nghệ An
  351. Đinh Văn Đức, sinh viên, Nam Định
  352. Nguyễn Văn Giang, sinh viên, Hà Nội
  353. Trần Thế Anh, sinh viên, Nghệ An
  354. Nguyễn Thị Sáng, Phú Thọ
  355. Vũ Thị Thìn, Bùi Chu, Hà Nội
  356. Trần Thị Nga, sinh viên, Nam Định
  357. Nguyễn Văn Khoán, công nhân, Hà Tĩnh
  358. Đỗ Thu Hoài, sinh viên, Yên Bái
  359. Phạm Thị Thắm, giáo viên, Nam Định
  360. Nguyễn Thị Minh Nguyệt, sinh viên, Tuyên Quang
  361. Vũ Thị Khắc, sinh viên, Hải Phòng
  362. Vũ Thị Oanh, sinh viên, Thanh Hóa
  363. Phạm Thị Thanh, nội trợ, Hà Nội
  364. Nguyễn Văn Kiền, buôn bán, Hưng Yên
  365. Phạm Minh Hồng, sinh viên, Tuyên Quang
  366. Trần Văn Hợp, công nhân, Nghệ An
  367. Trần Văn Thế, công nhân, Nam Định
  368. Nguyễn Thị Đất, Hà Nội
  369. Nguyễn Thị Hà, bán hàng, Hà Nội
  370. Phạm Văn Thắng, kỹ sư, Hà Nội
  371. Vũ Thị Hoàng Yến, làm tóc, Hà Nội
  372. Kim Thị Hồng, làm tóc, Hà Nội
  373. Phạm Ngọc Ánh, Nghệ An
  374. Nguyễn Ngọc Đỉnh, kỹ sư, Ninh Bình
  375. Vũ Thị Nhài, sinh viên, Nam Định
  376. Vũ Thị Phượng, kế toán, Ninh Bình
  377. Trần Văn Chung, sinh viên, HàNam
  378. Trịnh Đình Hoàng, nhiếp ảnh, Thanh Hóa
  379. Nguyễn Quang Lâm, lao động tự do,NamĐịnh
  380. Nguyễn Thị Minh, lao động tự do, Phú Thọ
  381. Lê Văn Phi, kinh doanh, Ninh Bình
  382. Phạm Văn Triệu, kinh doanh, Thái Bình
  383. Nguyễn Thị Cúc, hưu trí, Hà Nội
  384. Nguyễn Thị Mai, Hà Nội
  385. Nguyễn Thị Nguyên, Hà Nội
  386. Bùi Thị Hoàn, Hà Nội
  387. Nguyễn Thị Huấn, Hà Nội
  388. Vũ Thị Kim Tuyến, Hà Nội
  389. Phạm Thị Xưa, Hà Nội
  390. Nguyễn Thanh Huyền, Hà Nội
  391. Lương Thị Diễm, Hà Nội
  392. Tạ Thị Phúc, Hà Nội
  393. Dương Thị Thanh, Hà Nội
  394. Nguyễn Thị Thủy Nhị, Hà Nội
  395. Vũ Thị Thu Phương, sinh viên, Nam Định
  396. Cao Đình Tùng, kỹ sư, xây dựng, Hà Tĩnh
  397. Nguyễn Ngọc Thắng, sinh viên, Nam Định
  398. Hoàng Phi Hùng, sinh viên, Phú Thọ
  399. Nguyễn Thị Phương, lao động tự do, Nghệ An
  400. Vũ Ngô Luân, lao động tự do, Thái Bình
  401. Trần Văn Cường, Nam Định
  402. Phạm Văn Nam, công nhân, Nam Định
  403. Nguyễn Văn Ngự, buôn bán, Thái Bình
  404. Đinh Thị Ơn, buôn bán, Hà Nội
  405. Đoàn Văn Hóa, lái xe, Nam Định
  406. Nguyễn Thanh Hải, nội trợ, Hà Nội
  407. Đỗ Mạnh Cường, công nhân, Hà Nội
  408. Đặng Ngọc Linh, quân nhân, Hà Nội
  409. Vũ Mạnh Kiên, giám đốc, Hà Nội
  410. Nguyễn Thị Dung, Hà Nội
  411. Đinh Công Chức, lao động tự do, Hà Nội
  412. Đặng Hoàng Dương, sinh viên, Hà Nội
  413. Nguyễn Thị Nhung, hưu trí, Hà Nội
  414. Nguyễn Tiến Thành, sinh viên, Hà Nội
  415. Trần Thị Quỳnh Anh, sinh viên, Hà Nội
  416. Nguyễn Đình Long, Hà Nội
  417. Phan Thị Hải Lý, kinh doanh, Hà Nội
  418. Phạm Thị Mơ, sinh viên, Hà Nội
  419. Trần Văn Tuấn, kinh doanh, Hà Nội
  420. Đặng Thị Hằng, sinh viên, Hà Nội
  421. Nguyễn Văn Tuấn, sinh viên, Hà Nam
  422. Bùi Quá Tuấn, Thái Bình
  423. Nguyễn Thị Thủy, Hà Tĩnh
  424. Đào Văn Trưởng, Thái Bình
  425. Lê Quý Bách, nội trợ, Hà Nội
  426. Nguyễn Mạnh Cư, lái xe, Hà Nội
  427. Ngô Văn Cường, lái xe, Hà Nội
  428. Nguyễn Thị Lan, Hà Nội
  429. Trần Thị Hoa, kinh doanh, Nam Định
  430. Phú Văn Đại, lao động tự do, Hà Nội
  431. Vũ Văn Hiển, lao động tự do, Thái Bình
  432. Trần Văn Hưng, lao động tự do, Ninh Bình
  433. Nguyễn Văn Tập, sinh viên, Nam Định
  434. Nguyễn Thị Ánh, lao động tự do, Hà Nội
  435. Nguyễn Văn Hạnh, lao động tự do, Hà Nội
  436. Phạm Thị Tuyết, học sinh, Nam Định
  437. Nguyễn Thị Ngát, sinh viên, Nam Định
  438. Trần Văn Chính, sinh viên, Hà Nam
  439. Nguyễn Văn Hùng, sinh viên, Phú Thọ
  440. Đỗ Văn Cường, Hà Nội
  441. Phạm Văn Cường, cán bộ, Hà Nội
  442. Nguyễn Công Quyết, lái xe, Nam Định
  443. Trần Thị Trâm, sinh viên, Nam Định
  444. Nguyễn Thị Toan, sinh viên, Thái Bình
  445. Nguyễn Thị Hường, sinh viên, Bắc Ninh
  446. Đinh Văn Toan, lao động tự do, Bùi Chu, Hà Nội
  447. Đinh Văn Long, lao động tự do, Bùi Chu, Hà Nội
  448. Vũ Đức Tiệp, lao động tự do, Hà Nam
  449. Vũ Phương Thảo, sinh viên, Nam Định
  450. Nguyễn Thị Thơm, sinh viên, Nam Định
  451. Nguyễn Bá Hiền, sinh viên, Nghệ An
  452. Phạm Thị Mai Anh, Nam Định
  453. Phạm Văn Biên, Nam Định
  454. Trần Văn Thủy, Thái Bình
  455. Vũ Ngọc Dung, sinh viên,NamĐịnh
  456. Trần Văn Uy, sinh viên, Thái Bình
  457. Nguyễn T Tuấn, nội trợ, Hà Nội
  458. Hoàng Như Quỳnh, kinh doanh, Hà Nội
  459. Đinh Thị Ngoan, sinh viên, Hà Nội
  460. Vũ Văn Yên, học sinh, Hà Nội
  461. Nguyễn Văn Tường, thợ may, Hà Nội
  462. Trần Thị Tâm, Hà Nội
  463. Trần Vân Anh, Hà Nội
  464. Lê Thị Hà, Hà Nội
  465. Nguyễn Kim Thủy, Hà Nội
  466. Vũ Thuy Anh, Hà Nội
  467. Trần Thị Bốn, giáo dân, Hà Nam
  468. Phạm Thị Tâm Huyền, thợ nail, Hà Nội
  469. Phạm Thị Thanh Dung, Hà Nội
  470. Mai Thị Huệ, Hà Nội
  471. Trần Văn Bình, Hà Nội
  472. Maria Nguyễn Thị Hạnh, nông dân, Hà Nội
  473. Nguyễn Văn Sách, nông dân, Hà Nội
  474. Nguyễn Thị Nhiệm, nông dân, Hà Nội
  475. Đặng Nhự, nông dân, Hà Nội
  476. Nguyễn Thị Son, nông dân, Hà Nội
  477. Nguyễn Huy Đông, giáo viên, Hà Nội
  478. Lê Quang Hưng, cán bộ, Hà Nội
  479. Nguyễn Văn Lam, cán bộ, Hà Nội
  480. Phạm Văn Dưỡng, Hà Nội
  481. Phan Thị Hoa, sinh viên, Hà Nội
  482. Nguyễn Thị Huyền, buôn bán, Hà Nội
  483. Nguyễn Văn Trung, Hà Nội
  484. Nguyễn Thị Dự, lao động tự do, Hà Nội
  485. Nguyễn Thị Tuyết, lao động tự do, Hà Nội
  486. Vũ Văn An, Tây Hồ, Hà Nội
  487. Nguyễn Hữu Thuận, Hà Nội
  488. Trương Hải Điệp, Hà Nội
  489. Trần Thị Hoa, Hà Nội
  490. Đỗ Thị Gương, lao động tự do, Hà Nội
  491. Đinh Thị Thời, nông dân, Hà Nội
  492. Nguyễn Thị Hương, nông dân, Hà Nội
  493. Nguyễn Thị Dung, giáo viên, Hà Nội
  494. Ngô Thị Nhâm, sinh viên, Hà Nội
  495. Hồ Xuân Xinh, kinh doanh, Phú Thọ
  496. Nguyễn Thị Hương Thúy, Thanh Hóa
  497. Trần Thị Kim Dung, sinh viên, Nam Định
  498. Lê Thị Trang, bán hàng, Hà Nội
  499. Trần Thị ly, bán hàng, Hà Nam
  500. Trần Thị Phương, sinh viên, Nam Định
  501. Lê Thị Hòa, công nhân, Hà Nội
  502. Trần Văn Thức, kỹ sư, Vinh
  503. Nguyễn Ngọc Tuyến, sinh viên, Hà Nam
  504. Nguyễn Thị Liên, sinh viên, Nam Định
  505. Phạm Thị Nhâm, sinh viên, Nam Định
  506. Lâm Thị Huệ, sinh viên, Hà Nội
  507. Tống Thị N Anh, sinh viên, Nam Định
  508. Đinh Văn Nghĩa, sinh viên, Nam Định
  509. Lê Thị Bình, kế toán, Nam Định
  510. Chu Thị Thanh, Hà Nội
  511. Nguyễn Văn Sự, xây dựng, Thái Bình
  512. Trần Thanh Hương, bán hàng, Hà Nội
  513. Nguyễn Thị Thùy, kế toán, Hà Nội
  514. Nguyễn Văn Hiến, kinh doanh, Hà Nội
  515. Nguyễn Thị Thu Huyền, sinh viên, Hà Nội
  516. Nguyễn Thị Liên, sinh viên, Hà Nội
  517. Dư Văn Yên, Hà Nội
  518. ChuĐại Phong, sinh viên, Hà Nội
  519. Trần Duy Hướng, kỹ sư, Phát Diệm
  520. Đỗ Văn Tiến, lao động tự do, Hà Nội
  521. Đỗ Minh Tuấn, kinh doanh, Hà Nội
  522. Trần Thị Thoa, Nam Định
  523. Hoàng Văn Kiên, Nam Định
  524. Phạm Thị Xuân, Ninh Bình
  525. Phạm Văn Tân, buôn bán, Nam Định
  526. Đinh Thị Thuận, kinh doanh, Phú Thọ
  527. Nguyễn Thành Yên, kỹ sư, Phú Thọ
  528. Đinh Văn Thành, sinh viên, Nam Định
  529. Đinh Thị Hường, sinh viên, Hà Nội
  530. Nguyễn Thị Liên, lao động tự do, Hà Nội
  531. Đỗ Kim Thành, lao động tự do, Hà Nội
  532. Vũ Thị Hường, sinh viên, Hà Nam
  533. Cấn Thị Thêm, cán bộ hưu trí, Hà Nội
  534. Nguyễn Thị Chiến, nông dân, Hà Nam
  535. Phạm Thị Phượng, kinh doanh, Hà Nội
  536. Phạm Thị Hương, Hà Nội
  537. Bùi Thị Ngân, Hà Nội
  538. Nguyễn Văn Dũng, Hà Nội
  539. Nguyễn Nhật Anh, học sinh, Hà Nội
  540. Nguyễn Văn Vang, lao động tự do, Hà Nội
  541. Nguyễn Văn Sang, lao động tự do, Hà Nội
  542. Nguyễn Thị Khanh, lao động tự do, Hà Nội
  543. Lê Văn Phong, sinh viên, Hà Nội
  544. Lê Thị Kim Trang, sinh viên, Hà Tĩnh
  545. Nguyễn Phi Lệ, sinh viên, Bắc Giang
  546. Nguyễn Bích Diện, kinh doanh tự do, Hà Nội
  547. Đỗ Thị Hòa, sinh viên, Hà Nội
  548. Phạm Thị Duyên, sinh viên,NamĐịnh
  549. Chu Thị Dung, sinh viên, Ninh Bình
  550. Nguyễn Thị Duyên, Hà Nội
  551. Phạm Anh Tuấn, TS, Hà Nội
  552. Anh Truong,Australia
  553. Hoàng Hưng, TP HCM
  554. Vũ Thạch Sơn, cựu chiến binh, Hà Nội
  555. Vũ Văn Hùng, cựu giáo viên, Hà Nội
  556. Nguyễn Huy Phiến, nhân viên, Hà Nội
  557. Nguyễn Trọng Thành, công dân Việt Nam, Lithuania
  558. Vũ Thị Uyên, hưu trí, Pháp
  559. An Pham, kỹ sư, Hoa Kỳ
  560. Nguyễn Ích Tráng , Bình Định
  561. Đặng Văn Lượng, IT, Hà Nội
  562. Lương Sơn Bạc, kỹ sư, Kon Tum
  563. Trịnh Dũng, kỹ sư đã nghỉ hưu, Hà Nội
  564. Hoàng Kim Lập, kỹ sư trưởng vận hành nhà máy điện, TP HCM
  565. Nguyễn Minh Khang, nhân viên vi tính, TP HCM
  566. Nguyễn Ngọc Tuấn, kiến trúc sư, TP HCM
  567. Phạm Thanh Nghiên, cựu tù nhân lương tâm, Hải Phòng
  568. Bùi Hoài Mai, họa sĩ, Hà Nội
  569. Vũ văn Hiền, giáo viên, Hà Nội
  570. Nguyễn Minh Khanh, công nhân, Hà Nội
  571. Hoàng Diệu, hội viên hội Nhà báo Việt nam, hội viên Hội Cựu chiến binh ViệtNam
  572. Lê Văn Hiệu, kỹ sư, TP HCM
  573. Võ Quốc Tuấn, lái xe, Đồng Nai
  574. Lê Mạnh Năm, nghiên cứu viên, Hà Nội
  575. Thạch Quang Hải, Hà Nội
  576. Nguyen Tien Loc, Australia
  577. Bùi Khắc Ban, nông dân, Hòa Bình
  578. Đỗ Văn Long, nông dân, Hòa Bình
  579. Quách Văn Tiến, nông dân, Hòa Bình
  580. Bùi Thị Hà, nông dân, Hòa Bình
  581. Vũ Thị Liên, nông dân, Hòa Bình
  582. Quách Văn Cương, nông dân, Hòa Bình
  583. Bùi Văn Khẩn, nông dân, Hòa Bình
  584. Bùi Thị Hiền, nông dân, Hòa Bình
  585. Quách Văn Ngoạn, nông dân, Hòa Bình
  586. Vũ Thị Vĩnh, nông dân, Hòa Bình
  587. Bùi Trọng Thủy, nông dân, Hòa Bình
  588. Bùi Văn Giang, nông dân, Hòa Bình
  589. Quách Thị Minh, nông dân, Hòa Bình
  590. Bùi Thị Hương, nông dân, Hòa Bình
  591. Quách Thị Tính, nông dân, Hòa Bình
  592. Lê Văn Chung, nông dân, Hòa Bình
  593. Quách Văn Miện, nông dân, Hòa Bình
  594. Đinh Thị Luyến, nông dân, Hòa Bình
  595. Quách Văn Thắng, nông dân, Hòa Bình
  596. Bùi Đức Thiện, nông dân, Hòa Bình
  597. Bùi Thị Thùy, nông dân, Hòa Bình
  598. Quách Văn Lượng, nông dân, Hòa Bình
  599. Quách Văn Thông, nông dân, Hòa Bình
  600. Bùi Thị Phượng, nông dân, Hòa Bình
  601. Bùi Đức Thịnh, nông dân, Hòa Bình
  602. Quách Thị Nhài, nông dân, Hòa Bình
  603. Quách Thị Hảo, nông dân, Hòa Bình
  604. Hà Văn Vương, nông dân, Hòa Bình
  605. Đinh Thị Hoa, nông dân, Hòa Bình
  606. Bùi Văn Tuyết, nông dân, Hòa Bình
  607. Nguyễn Thị Nguyệt, nông dân, Hòa Bình
  608. Bùi Trọng Lượng, nông dân, Hòa Bình
  609. Bùi Khắc Toàn, nông dân, Hòa Bình
  610. Bùi Thị Mai, nông dân, Hòa Bình
  611. Bùi Thị Xuyên, nông dân, Hòa Bình
  612. Bùi Thị Lành, nông dân, Hòa Bình
  613. Bùi Văn Nhì, nông dân, Hòa Bình
  614. Bùi Thị Miên, nông dân, Hòa Bình
  615. Bùi Thị Nhinh, nông dân, Hòa Bình
  616. Bùi Văn Lã, nông dân, Hòa Bình
  617. Bùi Quang Hiển, nông dân, Hòa Bình
  618. Bùi Khắc Hoan, nông dân, Hòa Bình
  619. Bùi Thị Kiều, nông dân, Hòa Bình
  620. Trần Anh Tùng, nông dân, Hòa Bình
  621. Bùi Minh Đoàn, nông dân, Hòa Bình
  622. Mai Thị Thúy, nông dân, Hòa Bình
  623. Bùi Minh Tuấn, nông dân, Hòa Bình
  624. Bùi Văn Nam, nông dân, Hòa Bình
  625. Lê Xuân Nghiệm, nông dân, Hòa Bình
  626. Trần Thị Minh, nông dân, Hòa Bình
  627. Bùi Đức Vịnh, nông dân, Hòa Bình
  628. Bùi Thị Quyên, nông dân, Hòa Bình
  629. Bùi Mạnh Cường, nông dân, Hòa Bình
  630. Đinh Văn Thọ, nông dân, Hòa Bình
  631. Bùi Thị Hương, nông dân, Hòa Bình
  632. Trần Thị Ô, nông dân, Hòa Bình
  633. Phạm Xuân Đồng, nông dân, Hòa Bình
  634. Phạm Thị Hằng, nông dân, Hòa Bình
  635. Phạm Tuyên Huấn, nông dân, Hòa Bình
  636. Trần Anh Tùng, nông dân, Hòa Bình
  637. Trân Như Tiết, nông dân, Hòa Bình
  638. Nguyễn Thị Sáu, nông dân, Hòa Bình
  639. Trần Thuy Thủy, nông dân, Hòa Bình
  640. Trần Bích Thủy, nông dân, Hòa Bình
  641. Trần Chung, nông dân, Hòa Bình
  642. Đỗ Văn Long, nông dân, Hòa Bình
  643. Phạm Thị Hằng, nông dân, Hòa Bình
  644. Quách Đình Lưu, nông dân, Hòa Bình
  645. Quách Công Hùng, nông dân, Hòa Bình
  646. Quách Thị Luyện, nông dân, Hòa Bình
  647. Bùi Thị Lành, nông dân, Hòa Bình
  648. Bùi Thị Xuyên, nông dân, Hòa Bình
  649. Bùi Khắc Ban, nông dân, Hòa Bình
  650. Bùi Khắc Toán, nông dân, Hòa Bình
  651. Lưu Văn Chí, nông dân, Hòa Bình
  652. Trần Thị Tí, nông dân, Hòa Bình
  653. Lưu Văn Lãnh, nông dân, Hòa Bình
  654. Đinh Thị Vui, nông dân, Hòa Bình
  655. Lưu Thị Lan, nông dân, Hòa Bình
  656. Lưu Văn Đức, nông dân, Hòa Bình
  657. Lưu Văn Lãm, nông dân, Hòa Bình
  658. Bùi Thị Danh, nông dân, Hòa Bình
  659. Lưu Thị Oanh, nông dân, Hòa Bình
  660. Lưu Thị Trang, nông dân, Hòa Bình
  661. Lưu Văn Đạt, nông dân, Hòa Bình
  662. Nguyễn Thị Ký, nông dân, Hòa Bình
  663. Đào Xuân Biên, nông dân, Hòa Bình
  664. Đào Xuân Trưởng, nông dân, Hòa Bình
  665. Bùi Thị Hằng, nông dân, Hòa Bình
  666. Đào Văn Chuyền, nông dân, Hòa Bình
  667. Đào Diệu Linh, nông dân, Hòa Bình
  668. Nguyễn Văn Tuấn, nông dân, Hòa Bình
  669. Đinh Thị Nghẹ, nông dân, Hòa Bình
  670. Nguyễn Văn Dũng, nông dân, Hòa Bình
  671. Nguyễn Văn Ánh, nông dân, Hòa Bình
  672. Nguyễn Văn Toản, nông dân, Hòa Bình
  673. Nguyễn Thị Thục, nông dân, Hòa Bình
  674. Nguyễn Văn Thắng, nông dân, Hòa Bình
  675. Nguyễn Thị Mai, nông dân, Hòa Bình
  676. Nguyễn Thị Nga, nông dân, Hòa Bình
  677. Đinh Văn Lâm, nông dân, Hòa Bình
  678. Quách Thị Duyên, nông dân, Hòa Bình
  679. Đinh Văn Thắng, nông dân, Hòa Bình
  680. Đinh Thị Mùi, nông dân, Hòa Bình
  681. Đinh Văn Hiệp, nông dân, Hòa Bình
  682. Đinh Thị Thúy, nông dân, Hòa Bình
  683. Đinh Văn Ước, nông dân, Hòa Bình
  684. Đinh Văn Hiến, nông dân, Hòa Bình
  685. Đinh Thị Dần, nông dân, Hòa Bình
  686. Lê Văn Ngoạn, nông dân, Hòa Bình
  687. Nguyễn Thị Thu, nông dân, Hòa Bình
  688. Lê Văn Ý, nông dân, Hòa Bình
  689. Bùi Thị Hiền, nông dân, Hòa Bình
  690. Lê Văn Cao, nông dân, Hòa Bình
  691. Lê Văn Chí, nông dân, Hòa Bình
  692. Lê Văn Quyền, nông dân, Hòa Bình
  693. Đinh Văn Tiêm, nông dân, Hòa Bình
  694. Đinh Thị Liễu, nông dân, Hòa Bình
  695. Phạm Văn Lai, nông dân, Hòa Bình
  696. Đinh Thị Mợi, nông dân, Hòa Bình
  697. Phạm Văn Nguyên, nông dân, Hòa Bình
  698. Quách Văn Định, nông dân, Hòa Bình
  699. Bùi Thị Thấu, nông dân, Hòa Bình
  700. Quách Văn Khánh, nông dân, Hòa Bình
  701. Quách Văn Thu , nông dân, Hòa Bình
  702. Trần Thị Minh, nông dân, Hòa Bình
  703. Trần Văn Trọng, nông dân, Hòa Bình
  704. Nguyễn Thị Thơm, nông dân, Hòa Bình
  705. Trần Văn Trường, nông dân, Hòa Bình
  706. Đinh Văn Luận, nông dân, Hòa Bình
  707. Bùi Thị Tươi, nông dân, Hòa Bình
  708. Bùi Văn Đoán, nông dân, Hòa Bình
  709. Bùi Thị Thúy, nông dân, Hòa Bình
  710. Bùi Văn Giang, nông dân, Hòa Bình
  711. Bùi Thị Hương, nông dân, Hòa Bình
  712. Bùi Văn Sơn, nông dân, Hòa Bình
  713. Bùi Văn Khẩn, nông dân, Hòa Bình
  714. Phạm Văn Đồng , nông dân, Hòa Bình
  715. Phạm Thị Họa, nông dân, Hòa Bình
  716. Phạm Văn Huấn, nông dân, Hòa Bình
  717. Bùi Thị Vịnh, nông dân, Hòa Bình
  718. Quách Đinh Lưu, nông dân, Hòa Bình
  719. Quách Văn Quang, nông dân, Hòa Bình
  720. Quách Văn Ninh, nông dân, Hòa Bình
  721. Quách Thị Luyện, nông dân, Hòa Bình
  722. Trần Như Tiết, nông dân, Hòa Bình
  723. Trần Anh Tùng, nông dân, Hòa Bình
  724. Trần Anh Phúc, nông dân, Hòa Bình
  725. Bùi Văn Đức, nông dân, Hòa Bình
  726. Bùi Thị Mai, nông dân, Hòa Bình
  727. Bùi Thị Kiến, nông dân, Hòa Bình
  728. Bùi Đức Vịnh, nông dân, Hòa Bình
  729. Đinh Thị Dinh, nông dân, Hòa Bình
  730. Bùi Văn Cường, nông dân, Hòa Bình
  731. Bùi Đức Thiện, nông dân, Hòa Bình
  732. Bùi Thị Mỳ, nông dân, Hòa Bình
  733. Quách Văn Ngoạn, nông dân, Hòa Bình
  734. Quách Thị Vĩnh, nông dân, Hòa Bình
  735. Quách Văn Nguyên, nông dân, Hòa Bình
  736. Bùi Thị Phượng, nông dân, Hòa Bình
  737. Quách Văn Lượng, nông dân, Hòa Bình
  738. Bùi Văn Thủy, nông dân, Hòa Bình
  739. Bùi Thị Hà, nông dân, Hòa Bình
  740. Bùi Thị Tính, nông dân, Hòa Bình
  741. Bùi Văn Quyết, nông dân, Hòa Bình
  742. Nguyễn Xuân Nam, nông dân, Hòa Bình
  743. Trần Thị Tâm, nông dân, Hòa Bình
  744. Nguyễn Thị Hương, nông dân, Hòa Bình
  745. Nguyễn Thị Sen, nông dân, Hòa Bình
  746. Nguyễn Văn Giáp, nông dân, Hòa Bình
  747. Trần Anh Tuấn, nông dân, Hòa Bình
  748. Bùi Thị Hoa, nông dân, Hòa Bình
  749. Trần Văn Huân, nông dân, Hòa Bình
  750. Trần Thị Hằng, nông dân, Hòa Bình
  751. Trần Văn Toản, nông dân, Hòa Bình
  752. Bùi Thị Tuất, nông dân, Hòa Bình
  753. Trần Văn Tú, nông dân, Hòa Bình
  754. Trần Văn Toàn, nông dân, Hòa Bình
  755. Trần Văn Tam, nông dân, Hòa Bình
  756. Bùi Phóng Khoáng, nông dân, Hòa Bình
  757. Lê Thị Thếp, nông dân, Hòa Bình
  758. Bùi Văn Thiết, nông dân, Hòa Bình
  759. Bùi Thị Huế, nông dân, Hòa Bình
  760. Trần Thị Tuyết, nông dân, Hòa Bình
  761. Đinh Thị Phượng, nông dân, Hòa Bình
  762. Trần Văn Tặng, nông dân, Hòa Bình
  763. Trần Thị Lý, nông dân, Hòa Bình
  764. Trần Văn Năm, nông dân, Hòa Bình
  765. Trần Văn Sáu, nông dân, Hòa Bình
  766. Bùi Thị Nhẫn, nông dân, Hòa Bình
  767. Phạm Xuân Trường, nông dân, Hòa Bình
  768. Phạm Văn Sơn, nông dân, Hòa Bình
  769. Trịnh Văn Lộc, nông dân, Hòa Bình
  770. Đinh Thị Mùi, nông dân, Hòa Bình
  771. Trịnh Văn Ninh, nông dân, Hòa Bình
  772. Quách Thị Mến, nông dân, Hòa Bình
  773. Trịnh Văn Năm, nông dân, Hòa Bình
  774. Trịnh Văn Dũng, nông dân, Hòa Bình
  775. Trịnh Thị Hằng, nông dân, Hòa Bình
  776. Vũ Văn Lại, nông dân, Hòa Bình
  777. Vũ Văn Hữi, nông dân, Hòa Bình
  778. Bùi Thị Khanh, nông dân, Hòa Bình
  779. Vũ Văn Xô, nông dân, Hòa Bình
  780. Bùi Thị Xuân, nông dân, Hòa Bình
  781. Vũ Thị Liên, nông dân, Hòa Bình
  782. Vũ Văn Việt, nông dân, Hòa Bình
  783. Bùi Thị Năm, nông dân, Hòa Bình
  784. Vũ Văn Thành, nông dân, Hòa Bình
  785. Vũ Thị Thơm, nông dân, Hòa Bình
  786. Phạm Xuân Tuyên, nông dân, Hòa Bình
  787. Trần Thị Hường, nông dân, Hòa Bình
  788. Vũ Thị Vân, nông dân, Hòa Bình
  789. Bùi Văn Lượng, nông dân, Hòa Bình
  790. Quách Thị Chiên, nông dân, Hòa Bình
  791. Đinh Văn Chiến, nông dân, Hòa Bình
  792. Đinh Thị Xâm, nông dân, Hòa Bình
  793. Đinh Văn Trường, nông dân, Hòa Bình
  794. Đinh Văn Sơn, nông dân, Hòa Bình
  795. Đinh Văn Xăm, nông dân, Hòa Bình
  796. Trần Thị Như, nông dân, Hòa Bình
  797. Trần Ngọc Thịnh, nông dân, Hòa Bình
  798. Trần Ngọc Tri, nông dân, Hòa Bình
  799. Trần Thị Gọn, nông dân, Hòa Bình
  800. Trần Văn Ngọc, nông dân, Hòa Bình
  801. Trần Văn Long, nông dân, Hòa Bình
  802. Trần Thị Loan, nông dân, Hòa Bình
  803. Trần Văn Tân, nông dân, Hòa Bình
  804. Trần Thị Tỉnh, nông dân, Hòa Bình
  805. Quách Văn Bắc, nông dân, Hòa Bình
  806. Nguyễn Thị Lủi, nông dân, Hòa Bình
  807. Đinh Văn Nghiêm, nông dân, Hòa Bình
  808. Đinh Thị Mão, nông dân, Hòa Bình
  809. Đinh Văn Thành, nông dân, Hòa Bình
  810. Quách Văn Tiến, nông dân, Hòa Bình
  811. Quách Thị Xuyến, nông dân, Hòa Bình
  812. Quách Văn Đại, nông dân, Hòa Bình
  813. Quách Văn Long, nông dân, Hòa Bình
  814. Quách Văn Khánh, nông dân, Hòa Bình
  815. Trần Thị Cương, nông dân, Hòa Bình
  816. Quách Văn Hiển, nông dân, Hòa Bình
  817. Quách Văn Tâm, nông dân, Hòa Bình
  818. Quách Văn Toán, nông dân, Hòa Bình
  819. Bùi Thị Đài, nông dân, Hòa Bình
  820. Phạm Văn Tiến, nông dân, Hòa Bình
  821. Trần Thị Chiên, nông dân, Hòa Bình
  822. Phạm Thị Thú, nông dân, Hòa Bình
  823. Nguyễn Văn Toan, nông dân, Hòa Bình
  824. Trần Thị Thế, nông dân, Hòa Bình
  825. Nguyễn Văn Anh, nông dân, Hòa Bình
  826. Nguyễn Văn Tĩnh, nông dân, Hòa Bình
  827. Nguyễn Thị Mai, nông dân, Hòa Bình
  828. Bùi Văn Thành, nông dân, Hòa Bình
  829. Nguyễn Thị Yến, nông dân, Hòa Bình
  830. Bùi Văn Đạt, nông dân, Hòa Bình
  831. Bùi Thị Như, nông dân, Hòa Bình
  832. Bùi Đức Thọ, nông dân, Hòa Bình
  833. Nguyễn Thị Hiển, nông dân, Hòa Bình
  834. Bùi Văn Dũng, nông dân, Hòa Bình
  835. Bùi Văn Thuận, nông dân, Hòa Bình
  836. Bùi Thị Mai, nông dân, Hòa Bình
  837. Bùi Quang Lã, nông dân, Hòa Bình
  838. Bùi Thị Thịnh, nông dân, Hòa Bình
  839. Bùi Văn Tuyến, nông dân, Hòa Bình
  840. Bủi Thị Hoa, nông dân, Hòa Bình
  841. Bùi Văn Hòa, nông dân, Hòa Bình
  842. Bùi Văn Hải, nông dân, Hòa Bình
  843. Bùi Văn Lượng, nông dân, Hòa Bình
  844. Bùi Thị Nguyệt, nông dân, Hòa Bình
  845. Bùi Thị Dương, nông dân, Hòa Bình
  846. Bùi Thị Nga, nông dân, Hòa Bình
  847. Bùi Thị Lan, nông dân, Hòa Bình
  848. Nguyễn Thị Hoa, nông dân, Hòa Bình
  849. Nguyễn Thị Hương, nông dân, Hòa Bình
  850. Nguyễn Thị Huyền, nông dân, Hòa Bình
  851. Nguyễn Văn Hai, nông dân, Hòa Bình
  852. Phạm Thị Giang, nông dân, Hòa Bình
  853. Nguyễn Thị Phương, nông dân, Hòa Bình
  854. Bùi Văn Huy, nông dân, Hòa Bình
  855. Bùi Thị Vân, nông dân, Hòa Bình
  856. Bùi Văn Thụ, nông dân, Hòa Bình
  857. Bùi Thị Thanh, nông dân, Hòa Bình
  858. Nguyễn Văn Vẫn, nông dân, Hòa Bình
  859. Bùi Thị Mùi, nông dân, Hòa Bình
  860. Nguyễn Thị Vân, nông dân, Hòa Bình
  861. Nguyễn Văn Vương, nông dân, Hòa Bình
  862. Nguyễn Thị Trang, nông dân, Hòa Bình
  863. Quách Kông Tuân, nông dân, Hòa Bình
  864. Nguyễn Thị Vinh, nông dân, Hòa Bình
  865. Quách Kông Huyền, nông dân, Hòa Bình
  866. Đinh Thị Thọ, nông dân, Hòa Bình
  867. Quách Thị Chang, nông dân, Hòa Bình
  868. Quách Hoàng Long, nông dân, Hòa Bình
  869. Quách Kông Tuấn, nông dân, Hòa Bình
  870. Phạm Thị Thiên, nông dân, Hòa Bình
  871. Quách Thị Hảo, nông dân, Hòa Bình
  872. Quách Thị My, nông dân, Hòa Bình
  873. Quách Ngọc Oai, nông dân, Hòa Bình
  874. Bùi Thị Tâm, nông dân, Hòa Bình
  875. Quách Văn Hợp, nông dân, Hòa Bình
  876. Quách Văn Ý, nông dân, Hòa Bình
  877. Quách Thị Thúy, nông dân, Hòa Bình
  878. Quách Thị Hiền, nông dân, Hòa Bình
  879. Quách Thị Liên, nông dân, Hòa Bình
  880. Quách Thị Nghĩa, nông dân, Hòa Bình
  881. Tạ Cao Phong, nông dân, Hòa Bình
  882. Trần Thị Hạnh, nông dân, Hòa Bình
  883. Tạ Duy Ninh, nông dân, Hòa Bình
  884. Đinh Văn Tăng, nông dân, Hòa Bình
  885. Bùi Thị Khuyên, nông dân, Hòa Bình
  886. Đinh Văn Tài, nông dân, Hòa Bình
  887. Đinh Thị Thu, nông dân, Hòa Bình
  888. Nguyễn Văn Thiều, nông dân, Hòa Bình
  889. Nguyễn Văn Thắng, nông dân, Hòa Bình
  890. Quách Cao Thế, nông dân, Hòa Bình
  891. Trần Thị Lương, nông dân, Hòa Bình
  892. Quách Thị Khánh Linh, nông dân, Hòa Bình
  893. Quách Thành Long, nông dân, Hòa Bình
  894. Quách Thành Lâm, nông dân, Hòa Bình
  895. Đinh Duy Chức, nông dân, Hòa Bình
  896. Bùi Thị Thanh, nông dân, Hòa Bình
  897. Đinh Duy Phong, nông dân, Hòa Bình
  898. Quách Công Chiến, nông dân, Hòa Bình
  899. Quách Thị Thoan, nông dân, Hòa Bình
  900. Quách Thành Công, nông dân, Hòa Bình
  901. Quách Thị Hà, nông dân, Hòa Bình
  902. Quách Công Hưng, nông dân, Hòa Bình
  903. Nguyễn Thị Khéo, nông dân, Hòa Bình
  904. Quách Thị Yến, nông dân, Hòa Bình
  905. Quách Thị Anh, nông dân, Hòa Bình
  906. Quách Thị Lành, nông dân, Hòa Bình
  907. Quách Thị Phượng, nông dân, Hòa Bình
  908. Quách Thị Thắm, nông dân, Hòa Bình
  909. Quách Thị Tươi, nông dân, Hòa Bình
  910. Bùi Thị Thao, nông dân, Hòa Bình
  911. Quách Trọng Thiện, nông dân, Hòa Bình
  912. Quách Thị Tiến, nông dân, Hòa Bình
  913. Quách Thị Hân, nông dân, Hòa Bình
  914. Quách Thị Tuyền, nông dân, Hòa Bình
  915. Đinh Duy Phong, nông dân, Hòa Bình
  916. Bùi Thị Tiêu, nông dân, Hòa Bình
  917. Đinh Ngọc Anh, nông dân, Hòa Bình
  918. Đinh Duy Quý, nông dân, Hòa Bình
  919. Bùi Văn Thủy, nông dân, Hòa Bình
  920. Đinh Thị Hương, nông dân, Hòa Bình
  921. Bùi Thị Thúy, nông dân, Hòa Bình
  922. Bùi Thị Thắm, nông dân, Hòa Bình
  923. Bùi Quang Huy, nông dân, Hòa Bình
  924. Bùi Quốc Chung, nông dân, Hòa Bình
  925. Đinh Văn Tiến, nông dân, Hòa Bình
  926. Quách Thị Bích, nông dân, Hòa Bình
  927. Đinh Ngọc Châm, nông dân, Hòa Bình
  928. Quách Thị Xuân, nông dân, Hòa Bình
  929. Đinh Duy Hưng, nông dân, Hòa Bình
  930. Giang Thị Loan, nông dân, Hòa Bình
  931. Đinh Thị Hồng, nông dân, Hòa Bình
  932. Đinh Văn Hà, nông dân, Hòa Bình
  933. Nguyễn Ngọc Thơm, nông dân, Hòa Bình
  934. Đinh Thị Huệ, nông dân, Hòa Bình
  935. Quách Văn Điển, nông dân, Hòa Bình
  936. Nguyễn Thị Minh, nông dân, Hòa Bình
  937. Quách Văn Võ, nông dân, Hòa Bình
  938. Quách Văn Tuân, nông dân, Hòa Bình
  939. Quách Thị Tho, nông dân, Hòa Bình
  940. Quách Thị Huyền, nông dân, Hòa Bình
  941. Bùi Văn Khôi, nông dân, Hòa Bình
  942. Bùi Mạnh Hùng, nông dân, Hòa Bình
  943. Bùi Minh Dũng, nông dân, Hòa Bình
  944. Bùi Thu Hằng, nông dân, Hòa Bình
  945. Quách Văn Đoàn, nông dân, Hòa Bình
  946. Nguyễn Thị Yến, nông dân, Hòa Bình
  947. Quách Văn Hiếu, nông dân, Hòa Bình
  948. Quách Thị Thảo, nông dân, Hòa Bình
  949. Quách Văn Toàn, nông dân, Hòa Bình
  950. Quách Văn Thắng, nông dân, Hòa Bình
  951. Lê Thị Tâm, nông dân, Hòa Bình
  952. Đặng Thị Loan, nông dân, Hòa Bình
  953. Đinh Văn Thịnh, nông dân, Hòa Bình
  954. Đinh Văn Kiên, nông dân, Hòa Bình
  955. Đinh Bá Thi, nông dân, Hòa Bình
  956. Lã Thị Huyền, nông dân, Hòa Bình
  957. Đinh Thị Ngọc, nông dân, Hòa Bình
  958. Đinh Thị Ngọc Trâm, nông dân, Hòa Bình
  959. Đinh Thị Trà Mi, nông dân, Hòa Bình
  960. Bùi Văn Chiến, nông dân, Hòa Bình
  961. Vũ Văn Khôi, nông dân, Hòa Bình
  962. Bùi Đình Tuyển, nông dân, Hòa Bình
  963. Trịnh Thị Tú, nông dân, Hòa Bình
  964. Bùi Đình Tuấn, nông dân, Hòa Bình
  965. Bùi Thị Ngự, nông dân, Hòa Bình
  966. Bùi Văn Húy, nông dân, Hòa Bình
  967. Phạm Thị Xuyến, nông dân, Hòa Bình
  968. Bùi Văn Quân, nông dân, Hòa Bình
  969. Giang Thị Hà, nông dân, Hòa Bình
  970. Bùi Thị Ngọc Anh, nông dân, Hòa Bình
  971. Bùi Văn Khuyện, nông dân, Hòa Bình
  972. Bùi Thị Dung, nông dân, Hòa Bình
  973. Bùi Văn Sự, nông dân, Hòa Bình
  974. Bùi Văn Hậu, nông dân, Hòa Bình
  975. Nguyễn Thị Bích, nông dân, Hòa Bình
  976. Bùi Văn Thuận, nông dân, Hòa Bình
  977. Bùi Văn Hiếu, nông dân, Hòa Bình
  978. Đinh Thị Nụ, nông dân, Hòa Bình
  979. Đinh Văn Dương, nông dân, Hòa Bình
  980. Đinh Văn Thảo, nông dân, Hòa Bình
  981. Nguyễn Thị Thanh, nông dân, Hòa Bình
  982. Nguyễn Văn Sơn, nông dân, Hòa Bình
  983. Đặng Thị Xuân, nông dân, Hòa Bình
  984. Nguyễn Văn Cường, nông dân, Hòa Bình
  985. Nguyễn Văn Thủy, nông dân, Hòa Bình
  986. Bùi Thị Hiên, nông dân, Hòa Bình
  987. Nguyễn Thương, nông dân, Hòa Bình
  988. Nguyễn Thị Loan, nông dân, Hòa Bình
  989. Nguyễn Thị Phương, nông dân, Hòa Bình
  990. Nguyễn Thị Hằng, nông dân, Hòa Bình
  991. Bùi Văn Xam, nông dân, Hòa Bình
  992. Bùi Văn Hoàn, nông dân, Hòa Bình
  993. Bùi Văn Hoành, nông dân, Hòa Bình
  994. Quách Văn Đĩnh, nông dân, Hòa Bình
  995. Bùi T Minh, nông dân, Hòa Bình
  996. Quách Văn Cương, nông dân, Hòa Bình
  997. Quách Văn Cuông, nông dân, Hòa Bình
  998. Quách T Khuyên, nông dân, Hòa Bình

ĐỢT 19:
  1.      Nguyễn Thị Liên, sinh viên, Thái Bình
  2.      Nguyễn Văn Quang, sinh viên, Bùi Chu
  3.      Trần Quang Huỳnh, sinh viên, Thái Bình
  4.      Lại Hoàng Trung, sinh viên, Hà Nội
  5.      Đặng Xuân Thiện, lao động tự do, Bùi Chu
  6.      Nguyễn Thu Huyền, lao động tự do, Bùi Chu
  7.      Đặng Thị Oanh, công nhân, Hà Nội
  8.      Đỗ Thị Liên, đầu bếp, Bùi Chu
  9.      Nguyễn Thị Trang, đầu bếp, Bùi Chu
  10.      Vũ Thị Lượt, nấu ăn, Thái Bình
  11.      Phạm Quang Khánh, lái xe,NamĐịnh
  12.      Mai Kinh Anh, sinh viên,NamĐịnh
  13.      Phạm Thị Hoa, sinh viên, Ninh Bình
  14.      Nguyễn Thị Phương, sinh viên, Bắc Ninh
  15.      Hà Văn Thắng, thợ hồ, Nghệ An
  16.      Đặng Hữu Kiêm, thợ hồ, Nghệ An
  17.      Trần Văn Thương, công nhân, Nghệ An
  18.      Nguyễn Văn Quỳnh, công nhân, Hà Nội
  19.     Văn Yên, Hà Nội
  20.     Maria Vũ Ngọc Linh, công nhân,NamĐịnh
  21.    Daminh Vũ Văn Quý, lao động tự do,NamĐịnh
  22.    Nguyễn Thị Phương, sinh viên, HàNam
  23.    Đỗ Thị Tịnh, hưu trí, Hà Nội
  24.    Nguyễn Thị Thanh Hà, Hà Nội
  25.    Vũ Như Quỳnh, sinh viên, Thái Nguyên
  26.       Nguyễn Thị Bảy, công nhân, HàNam
  27.      Hoàng Đình Quy, công nhân, Nghệ An
  28.      Lê Ngọc Trân, sinh viên, Vinh, Nghệ An
  29.      Vũ Thị Phương, sinh viên,NamĐịnh
  30.       Lê Thị Mùi, lao động tự do,NamĐịnh
  31.      Trần Thanh Tùng, sinh viên, Thái Bình
  32.      Trần Thị Tin, sinh viên,NamĐịnh
  33.       Lại Văn Đồng, sinh viên,NamĐịnh
  34.       Nguyễn Thị Yên, Thanh Oai, Hà Tây
  35.       Trần Thị Thành, nông dân, Bắc Giang
  36.      Nguyễn Thị Luân, Giáo xứ Đại Ơn, Hà Nội
  37.      Nguyễn Thị Quế, Hà Nội
  38.      Nguyễn Thị Thơm, Giáo xứ Đại Ơn, Hà Nội
  39.       Nguyễn Thị Tuyến, công nhân, Hà Nội
  40.       Nguyễn Thị Thìn, Hà Nội
  41.       Đinh Thị Thùy Dung, sinh viên, Hà Nội
  42.       Phạm Thị Hiên, cán bộ hưu trí, Giáo xứ Hồng Vinh, Hà Nội
  43.       Nguyễn Minh Đức, kỹ sư, Hà Nội
  44.       Nguyễn Thị Nếp, nông dân, Hà Nội
  45.       Ngô Thị Đài, nông dân, Hà Nội
  46.       Phan Thị Hường, nông dân, Hà Nội
  47.       Trần Thị Hòa, hưu trí, Đống Đa, Hà Nội
  48.       Nguyễn Đăng Huân, nông dân, Hà Nội
  49.       Hoàng Hạnh Nhân, nghề nghiệp tự do, Hà Nội
  50.       Nguyễn Thị Nhung, nông dân, Vĩnh Phúc
  51.       Thạch Ngọc Hải, kỹ sư, Bắc Ninh
  52.       Lưu Văn Bản, lao động tự do,NamĐịnh
  53.       Trần Hoàng Bách, sinh viên, Hòa Bình
  54.       Trần Bình Long, sinh viên, Hòa Bình
  55.       Nguyễn Thị Huyền, nội trợ, Hòa Bình
  56.       Vũ Viên Huyền, lái xe taxi, Hòa Bình
  57.       Nguyễn Thị Biển, nội trợ, Hòa Bình
  58.       Nguyễn Thị Huần, thương binh chuyển ngành, nay là dân oan, Vĩnh Phúc
  59.       Nguyễn Văn Dũng, lao động tự do, Phú Thọ
  60.       Nguyễn Phương Ly, học sinh, Hà Nội
  61.       Hoàng Trâm, doanh nhân, Hoa Kỳ
  62.       Hoàng Nghĩa Thắng, kỹ sư, Nghệ An
  63.       Hoàng Mạnh Dũng, nhân viên thiết kế, Bà Rịa Vũng Tàu
  64.       Biện Xuân Bộ, kỹ sư, Bắc Ninh
  65.       Trịnh Cao Minh Châu, kỹ sư, Hà Nội
  66.       Nguyễn Hồng Đức, kỹ sư, Hà Nội
  67.       Hàn Quang Vinh, kỹ sư, Hà Nội
  68.       Phùng Hồng Kổn, giáo viên, Hà Nội
  69.       Nguyễn Quốc Bình, kỹ sư, TP HCM
  70.       Ngô Mạnh Hùng, kỹ sư, Hưng Yên
  71.       Nguyễn Đức Việt, kỹ sư, TP HCM
  72.       Tran Minh Quang, kỹ sư, Hà Nội
  73.       Nguyễn Nhân Tuấn, thư ký, Hoa Kỳ
  74.       Nguyễn Cao Phong, nông dân, Hà Nội
  75.       Nguyễn Minh Hương, nội trợ, Hà Nội
  76.       Nguyễn Xuân Phúc, lao động tự do, Hà Nội
  77.       Hà Thi Hải Hậu, sinh viên, Nam Định
  78.       Lưu Trọng Lâm, nông dân,  Bến Tre
  79.       Phạm Lê Duy Anh, sinh viên, Hà Nội
  80.       Đặng Đình Tấn Trương, sinh viên, TP HCM
  81.       Nguyen Quang Tan, giáo viên, TP HCM
  82.       Hoàng Đức Vương, nhân viên văn phòng, Hà Nam
  83.       Bùi Đức Trí, kinh doanh, TP HCM
  84.       Tạ Bắc Sơn, kỹ sư, Quảng Trị
  85.       Tran Ngoc Suong, hưu trí, Australia
  86.       Bùi Đức Viên, môi giới bất động sản, Thái Bình
  87.       Lê Trúc, kỹ sư, TP HCM
  88.       Toan Ha Tran, châu Âu
  89.       Nguyen Phu Son, cosmetologist, Hoa Kỳ
  90.      Phan Bá Đạm, điện nước, TP HCM
  91.       Nguyễn Ngọc Anh, cử nhân, QuảngNam
  92.       Dang Hoang Long, sinh viên, Cần Thơ
  93.       Nguyễn Văn Đức, hưu trí, TP HCM
  94.       Mai Quốc Đạt, du học sinh, Nhật Bản
  95.       Nguyễn Đức Độ, kinh doanh tự do, Bắc Ninh
  96.       Bùi Phi Hùng, cán bộ, Hà Nội
  97.       Võ Toàn Thắng, công chức, luật sư, Đồng Nai
  98.       Hồ Đức Thanh, freelancer, Hà Nội
  99.       Nguyễn Thị Tuyết Xuân, TP HCM
  100.       Lê Ngọc Phụ, nông dân, Đồng Nai
  101.       Phan Kim Phương, thạc sĩ, bác sĩ, Giám đốc Viện Tim TP HCM
  102.       Nguyễn Văn Xá, kỹ sư, Hoa Kỳ
  103.       Cao Quốc Tuấn, kiến trúc sư, Hà Nội

ĐỢT 20:
  1. Hà Duy Hoàng, nông dân, Bắc Ninh
  2. Vũ Hóa, công nhân, Hà Nội
  3. Huỳnh Thị Liền, hưu trí, Hà Nội
  4. Lê Thị Ngà, Hà Nội
  5. Lý Minh Thịnh, hưu trí, Hà Nội
  6. Lê Thị Lan Anh, sinh viên, Hà Nội
  7. Nguyễn Thị Loan, lao động tự do, Bắc Ninh
  8. Nguyễn Thị Nhiều, Phú Thọ
  9. Đỗ Thị Luyến, Phú Thọ
  10. Nguyễn Văn Dinh, Giáo xứ Chằm Hạ, Hà Nội
  11. Nguyễn Thị Lan, lao động tự do, Hà Nội
  12. Nguyễn Thị Tải, lao động tự do, Hà Nội
  13. Nguyễn Thị Thuận, lao động tự do, Hà Nội
  14. Nguyễn Văn Đường, lao động tự do, nông dân, Hà Nội
  15. Ngô Bá Liêm, lao động tự do, Hà Nội
  16. Văn Thị Liên, giáo viên, Hà Nội
  17. Phạm Văn Đáng, Hà Nội
  18. Phạm Thu Trang, học sinh, Hà Nội
  19. Dương Thị Hiên, sinh viên, Bắc Ninh
  20. Đinh Thị Đào, Hà Nội
  21. Bùi Thị Xương, Hà Nội
  22. Nguyễn Thị Tình, Hà Nội
  23. Văn Viết Lộc, Hà Nội
  24. Nguyễn Thị Thắm, Hà Nội
  25. Nguyễn Thị Mẫn, Hà Nội
  26. Nguyễn Thị Luyên, Giáo xứ Hữu Bằng, Hà Nội
  27. Nguyễn Thị Nhiều, Giáo xứ Hữu Bằng, Hà Nội
  28. Vũ Văn Trọng, Hà Nội
  29. Nguyễn Thị Thịnh, nông dân, Hà Nội
  30. Nguyễn Đông Chính, hưu trí, Hà Nội
  31. Nguyễn Thị Thảo, nông dân, Hà Nội
  32. Nguyễn Anh Tân, sinh viên,NamĐịnh
  33. Nguyễn Thị Ngam, Hà Nội
  34. Nguyễn Thanh Hương, hưu trí, Hà Nội
  35. Đào Thị Thà, nông dân, Hà Nội
  36. Phạm Văn Long, Hà Nội
  37. Nguyễn Thị Hiệu, Hà Nội
  38. Lê Thị Huyền, Hà Nội
  39. Nguyễn Thanh Huyền, Hà Nội
  40. Hồ Thị Hồng, Hà Nội
  41. Nguyễn Thị Dư, Hà Nội
  42. Nguyễn Thị Thảo, Thái Bình
  43. Vũ Thị Hồng, Thái Bình
  44. Nguyễn Thị Liễu, Hà Nội
  45. Nguyễn Hoàng Ninh, Hà Nội
  46. Đỗ Hữu Hải, Hà Nội
  47. Nguyễn Thị Kim Biên, Hà Nội
  48. Trần Thị Thu,NamĐịnh
  49. Nguyễn Thị Tính, nông dân, Vĩnh Phúc
  50. Trần Thị Loan, Hà Nội
  51. Nguyễn Lệ Hồng, hưu trí, Hà Nội
  52. Đỗ Thị Soạn, công nhân, Hà Nội
  53. Nguyễn Thị Tin, nông dân, Hà Nội
  54. Nguyễn Thị Thơm, Phúc Yên
  55. Nguyễn Thị Thoai, Phúc Yên
  56. Nguyễn Thị Ái, Phúc Yên
  57. Nguyễn Thị Sao, nông dân, Phúc Yên
  58. Dương Thị Hiếu, Giáo xứ Hà Thao, Hà Nội
  59. Dương Đức Minh, Giáo Lam Điền, Hà Nội
  60. Trần Thị Thanh, Giáo xứ Hòa Bình, Hà Nội
  61. Nguyễn Thị Lành, Giáo xứ Thạnh Bích, Hà Nội
  62. Nguyễn Thị Mai, buôn bán, Giáo xứ Phủ Lý, HàNam
  63. Đỗ Thị Thanh Tâm, học sinh, Giáo xứ Phủ Lý, HàNam
  64. Nguyễn Thị Bình, Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội
  65. Nguyễn Thị Phương, Hà Nội
  66. Nguyễn Thị Hợp, Giáo xứ Hà Hồi, Hà Nội
  67. Nguyễn Thị Bài, hưu trí, Hà Nội
  68. Lê Thị Thường, nội trợ, Hà Nội
  69. Nguyễn Thị Hằng, Hà Nội
  70. Nguyễn Thị Thu, Hà Nội
  71. Nguyễn Văn Đàm, nông dân, Hà Nội
  72. Nguyễn Thị Nhung, nội trợ, Hà Nội
  73. Lê Quang Vinh, lao động tự do, Hà Nội
  74. Nguyễn Trọng Tài, Vĩnh Phúc
  75. Đỗ Thị Oanh, nội trợ, Vĩnh Phúc
  76. Nguyễn Thị Tuyến, kinh doanh, Hà Nội
  77. Nguyễn Thị Nghiêm, kinh doanh, Vĩnh Phúc
  78. Lê Thị Liên, hưu trí, HàNam
  79. Phạm Thị Từ, công nhân, Bắc Ninh
  80. Lương Thị Hiệp, nhân viên, Phú Thọ
  81. Đinh Thị Sáu, nông dân,NamĐịnh
  82. Nguyễn Thị Hiến, làm ruộng,NamĐịnh
  83. Tạ Thị Nhung, kinh doanh, Hà Nội
  84. Nguyễn Hưng Xuyên, Hà Nội
  85. Nguyễn Phương Thảo Hà Nội
  86. Nguyễn Kim Oanh, Hà Nội
  87. Nguyễn Thị Thi, công nhân, Hà Nội
  88. Nguyễn Văn Trưởng, lao động tự do, Hà Nội
  89. Bùi Thị Thanh, học sinh, Hà Nội
  90. Hoàng Tuấn Duy, lao động tự do, Hà Nội
  91. Nguyễn Thanh Huyền, giảng viên, Hà Nội
  92. Công Văn Cương, kinh doanh, Hà Nội
  93. Ngô Văn Bảo, lái xe,NamĐịnh
  94. Đặng Thị Thành, kiểm toán, Hà Nội
  95. Mai Thị Nhung, kinh doanh, Hà Nội
  96. Đỗ Vân Anh, giáo viên, Hà Nội
  97. Nguyễn Thị Hải, sinh viên, Hà Nội
  98. Nguyễn Thị Trâm, sinh viên. Nghệ An
  99. Lê Ngọc Anh, kỹ sư, Hà Nội
  100. Đỗ Văn Sang, sinh viên, Hà Nội
  101. Nguyễn Thị Quyên, Hà Nội
  102. Nguyễn Văn Thư, nông dân, Hà Nội
  103. Trần Thị Nhung, nội trợ, Hà Nội
  104. Nguyễn Thị Hương, buôn bán, Hà Nội
  105. Trần Long Uẩn, lao động tự do, Hà Nội
  106. Cao Văn Huy, sinh viên,Bùi Chu,NamĐịnh
  107. Trần Quốc Huy, bán hàng, Hà Nội
  108. Bùi Đăng Tâm, Hà Nội
  109. Phạm T Nga, Hà Nội
  110. Linh mục Phêrô Phạm Xuân Lộc, Hà Nội
  111. Maria Nguyễn T Hạnh, sinh viên, Hà Nội
  112. Phạm Thị Bình, buôn bán, Phủ Lý, HàNam
  113. Đoàn Thanh Tâm, lao động tự do, Phủ Lý, HàNam
  114. Nguyễn Ngọc Sinh, lao động tự do, Phủ Lý, HàNam
  115. Hoàng T Thanh Hồng, hưu trí, Hà Nội
  116. Đỗ Văn Tài, lao động tự do, Hà Nội
  117. Đỗ Minh Loan, hàng không, Hà Nội
  118. Vũ Nguyễn Tuấn Anh, kỹ sư, Hà Nội

 ĐỢT 21:
  1.  Nguyễn Văn Tính, Hà Nội
  2. Nguyễn Văn Thảo, Phủ Lý, HàNam
  3. Nguyễn Văn Toản, Giáo xứ Hữu Bằng, Vĩnh Phúc
  4. Phạm Thị Lan, Giáo xứ Hàm Long, Hà Nội
  5. Nguyễn Thị Nhung, lao động tự do, Nam Định
  6. Đỗ Thị Soạn, Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội
  7. Lê Thị Duy, Hà Nội
  8. Nguyễn Thị Trâm, Hà Nội
  9. Nguyễn Huy Thái, Giáo xứ Phùng Khoang, Hà Nội
  10. Nguyễn Thị Thiên, Mê Linh, Hà Nội
  11. Nguyễn Tuấn Long, Mê Linh, Hà Nội
  12. Nguyễn Thị Hợp, Giáo xứ Hàm Long, Hà Nội
  13. Nguyễn Thị Hiền, sinh viên, Giáo xứ Hữu Bằng, Vĩnh Phúc
  14. Nguyễn Thị Miền, nông dân, Giáo xứ Hữu Bằng, Vĩnh Phúc
  15. Nguyễn Thị Lan, nội trợ, Hà Đông
  16. Nguyễn Thị Mai, nông dân, Giáo xứ Hữu Bằng, Vĩnh Phúc
  17. Nguyễn Thị Luyến, nông dân, Giáo xứ Hà Hồi, Hà Nội
  18. Ngô Trọng Hiếu, nông dân, Hà Nội
  19. Nguyễn Thị Kim, nông dân, Hà Nội
  20. Nguyễn Thị Hạnh, hưu trí, Hà Nội
  21. Trần Thị Huyền, nông dân, Hà Nội
  22. Lưu Quang Hiếu, lái xe, Hà Nội
  23. Nguyễn Sĩ Bảo, nông dân, Hà Nội
  24. Trần Thị Nhung, nông dân, Nam Định
  25. Vũ Thị Nhung, Phú Xuyên, Hà Nội
  26. Nguyễn Thị Nhận, nông dân, Phú Thọ
  27. Phạm Thị Vạn, nông dân, Nam Định
  28. Trần Thị Hằng, Giáo xứ Thụy Ứng, Hà Nội
  29. Đào Bá Chính, nông dân, Hà Nội
  30. Nguyễn Phú Hiên, kỹ sư, Hà Nội
  31. Nguyễn Văn Học, nông dân, Vĩnh Phúc
  32. Bùi Văn Minh, Hà Nội
  33. Nguyễn Thị Hằng, Hà Nam
  34. Nguyễn Thị Khan, Giáo xứ Hà Hồi, Hà Nội
  35. Ngô Thị Phước, buôn bán, Hà Nội
  36. Nguyễn Thị Ngọc, giáo viên, Hà Nội
  37. Phan Thị Thu Hà, sinh viên,NamĐịnh
  38. Nguyễn Thị Phương, buôn bán,NamĐịnh
  39. Nguyễn Văn Tiệp, nông dân, Hà Nội
  40. Nguyễn Văn Bình, nông dân, Hà Nội
  41. Nguyễn Thế Tiệp, nông dân, Hà Nội
  42. Nguyễn Thị Ngát, công nhân, Hà Nội
  43. Phạm Thị Thanh Nga, sinh viên, Ninh Bình
  44. Trần Thị Hiên, sinh viên,NamĐịnh
  45. Nguyễn Thị Quy, Vĩnh Phúc
  46. Nguyễn Thị Tuốt, Vĩnh Phúc
  47. Cao Thị Yên, Hà Nội
  48. Nguyễn Thị Trang, lao động tự do, Hà Nội
  49. Nguyễn THị Hân, nông dân, Hà Nội
  50. Vũ Thị An, nông dân, Hà Nội
  51. Lê Bình Anh, công nhân, Hà Nội
  52. Nguyễn Thị Kiều, nông dân, Hà Nội
  53. Đặng Thu Hiền, sinh viên, Hà Nội
  54. Lê Quang Kiên, hưu trí, Hà Nội
  55. Nguyễn Thị Ty, hưu trí, Hà Nội
  56. Nguyễn Thị Vẻ, nông dân, Hà Nội
  57. Nguyễn Thị Hồng, kinh doanh, Hà Nội
  58. Trịnh Dương Sơn, nông dân, Hà Nội
  59. Vũ Văn Yên, học sinh, Hà Nội
  60. Nguyễn Văn An, công nhân, Thanh Hóa
  61. Chu Bích Thủy, sinh viên, Hà Nội
  62. Cao Văn Bình, sinh viên, Thanh Hóa
  63. Vũ Thị Trà My, sinh viên, Hà Nội
  64. Nguyễn Thị Điệu, Hà Nội
  65. Vũ Thị Thái, giáo viên, Đồng Nai
  66. Trần Mai Hiệu, biên dịch, Hà Nội
  67. Nguyễn Thị Hòa, nghỉ hưu, Hà Nội
  68. Trần Thị Lý, Hà Nội
  69. Phạm Văn Long, Hà Nội
  70. Phạm Thị Nhung, Hà Nội
  71. Nguyễn Thị Nga, Hà Nội
  72. Nguyễn Thị Hiển, lao động tự do, Phú Thọ
  73. Vũ Văn Biên, sinh viên, Hà Nội
  74. Lê minh Hoàng, công dân, TP HCM
  75. Phan Thị Hoa, giáo viên, TP HCM
  76. Nguyễn Jung, hưu trí, CHLB Đức
  77. Nguyễn Đức Long, làm việc tại hãng xe hơi BMW, CHLB Đức
  78. Trần Ngọc Anh, thạc sĩ, hưu trí, Hoa Kỳ
  79. Hồ Đại Hiệp, TP HCM
  80. Lê Trọng Tính, kinh doanh, Thanh Hóa
  81. Huỳnh Huy Hoàng, quản lý rủi ro tài chính,Singapore
  82. Nguyễn Thanh Bình, kỹ sư, Huế
  83. Nguyễn Minh Hùng, công nhân, CHLB Đức
  84. Huynh Phuoc Hoa, kỹ sư, TP HCM
  85. Nguyễn Ngọc Biên, kỹ sư, Hà Nội
  86. Phạm Tuấn Trung, kỹ sư, Hà Nội
  87. Lê Ngọc Trường, sinh viên, Thái Nguyên
  88. Nguyễn Nam Sơn, kinh doanh, TP HCM
  89. Phan Châu Vi Hòa, Freelance Web Developer, TP HCM
  90. Phạm Văn Nhân, quản lý sản xuất, Bình Dương
  91. Ngô Duy Quyền, kỹ sư cơ khí, Hà Nội
  92. Lê Thị Công Nhân, luật sư, Hà Nội


Copy từ: Bauxit Việt Nam