CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

TUYÊN BỐ VÀ LỜI KÊU GỌI CỦA VĂN GIANG VÀ DƯƠNG NỘI


TUYÊN BỐ CỦA NÔNG DÂN VĂN GIANG VÀ DƯƠNG NỘI
VỀ HAI VỤ ÁN LIÊN QUAN ĐẾN NÔNG DÂN ĐOÀN VĂN VƯƠN TẠI HẢI PHÒNG
Chúng tôi yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng:

1-Tha bổng cho tất cả những người trong gia đình ông Đoàn Văn Vươn là bị cáo trong vụ án này. Đoàn Văn Vươn chính là anh hùng của nông dân Việt Nam, không chỉ trong lao động, kha phá miền đất mới mà còn trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền căn bản của người nông dân.

2- Trừng trị nghiêm khắc những kẻ đã gây nên sự kiện ngày 05/01/2012, đã có những quyết định thu hồi và cưỡng chế đất trái pháp luật, đã có những hành vi cưỡng chế, tấn công quá giới hạn, xâm phạm đến quyền và tài sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn và ông Đoàn Văn Quý, gây nên làn sóng phẫn nộ trong dân chúng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Nhà nước Việt Nam.

Chúng tôi kêu gọi nông dân cùng đồng bào cả trong và ngoài nước cùng lên tiếng bảo vệ gia đình ông Đoàn Văn Vươn như một cách để khẳng định quyền của người nông dân đối với ruộng đất của họ, cũng như khẳng định sự đấu tranh đến cùng, không khoan nhượng của người nông dân trong công cuộc giữ đất này. 
.









Do khuôn khổ một entry của Blog có hạn, chỉ xin giới thiệu một số trang chữ ký của bà con. 
Mong được bà con Văn Giang và Dương Nội thông cảm.


Copy từ: TS Nguyễn Xuân Diện

Xăng dầu lên giá: trăm dâu đổ đầu tằm



Lê Diễn Đức

Như vậy là xăng trong tuần tại VN tăng tới mức kỷ lục, 24.580 đồng VN/lít, cao hơn ở Mỹ, nơi có thu nhập bình quân đầu người gấp khoảng 40 lần.
 
Thật là kinh khủng. Không tính ô tô, chỉ tính xe gắn máy, phương tiện lưu hành phổ biến nhất trong sinh hoạt hiện thời, cả nước có hoảng 23 triệu chiếc. Nếu mỗi ngày cứ tính mỗi xe tiêu thụ 1 lít xăng (thực tế tiêu thụ mỗi ngày khoảng 37 triệu lít), số tiền bỏ ra mua xăng sẽ là 24.580 VND x 23 triệu = 565, 340 tỷ VND, tức khoảng hơn 26 triệu USD/ngày, hơn 780 triệu USD/tháng, khoảng gần 10 tỷ USD/năm!
 
Không có gì thu tiền nhanh và nhiều bằng thu tiền mua xăng dầu!
 
Trong vấn đề tăng giá, xăng liên đới đến mọi mặt hàng khác của thị trường. Xăng tăng, kéo theo chi phí vận chuyển làm đội giá thành sản phẩm. Xăng dầu gắn liền với điện, nước và như thế, đợt tăng giá này sẽ tự động kéo theo sự lên giá của tất cả các mặt hàng sinh hoạt.
 
Khả năng năm 2013 phấn đấu mức lạm phát ở 7% là rất khó. Xăng dầu tăng tạo nên tình trạng lạm phát cao, là điều tất yếu. Hiện tại các doanh nghiệp vận tải đang lúng túng tìm cách tăng giá cước vận chuyển.
 
Kể từ lúc Chính phủ lập Quỹ Bình ổn giá vào năm 2009, giá xăng dầu vẫn luôn luôn được điều chỉnh tăng theo cơ chế thị trường. Bộ Tài chính cho rằng, lợi ích lớn nhất của Quỹ Bình ổn giá là tại nhiều thời điểm khi giá thế giới biến động đẩy giá vốn lên cao, Quỹ giúp cho giá xăng dầu trong nước được ổn định.
 
Quỹ bình ổn giá xăng dầu được trích ra từ giá bán lẻ xăng dầu, thực chất là hình thức người dân gửi tiết kiệm, trả trước, tích lũy tiền để điều tiết giá trong những tình huống đặc biệt. Do đó, tiền Quỹ bình ổn là tiền của dân, không phải của Nhà nước, cũng không phải của doanh nghiệp. Cho sử dụng như thế nào, mức bao nhiêu, thời gian bao lâu toàn quyền do Nhà nước quyết định. Trách nhiệm của Nhà nước là phải làm sao hiệu quả nhất từ việc mang lại lợi ích cho dân, chứ không phải doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu.
 
Trả lời "cơ sở nào ông cho rằng việc tăng giá xăng dầu là hợp lý khi thời điểm này, giá xăng dầu thế giới lại đang có xu hướng giảm?", ông Nguyễn Cẩm Tú, Thứ trưởng Bộ Công thương nói:
 
"Chúng ta cũng cần nhớ, lần tăng giá cuối cùng là ngày 28/8/2012 và từ đó tới nay, thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, chúng ta đã giữ bình ổn giá xăng dầu bằng nhiều biện pháp khác nhau như giữ thuế ở mức thấp, tăng mức sử dụng quỹ, sử dụng quỹ bình ổn giá cho 2.000 đồng/1 lít xăng, giảm một số chi phí định mức trong cách tính toán giá xăng dầu. Nhờ biện pháp như vậy, thời gian gần đây, giá xăng dầu giảm thì giá bán lẻ đã cao hơn giá tính toán 800 đồng/lít".
 
"Tới thời điểm hiện nay, quỹ bình ổn đã không còn, nhiều doanh nghiệp đã âm. Như vậy không còn nguồn để sử dụng nhằm duy trì bình ổn giá xăng dầu nữa. Do đó, chúng ta phải rút bỏ quỹ bình ổn giá. Rút bỏ quỹ bình ổn giá để điều chỉnh trở lại và cũng để doanh nghiệp không bị lỗ thì chúng ta phải điều chỉnh giá xăng dầu".
 
Rốt cuộc người dân ứng trước, doanh nghiệp xăng dầu xả quỹ thoải mái dù giá thành trên thị trường thế giới tăng hay giảm, hoặc "xài đỡ", "mượn tạm", đến khi Quỹ hết tiền thì bỏ Quỹ để điều chỉnh trở lại, làm lại từ đầu.
 
Người dân đã không lúc nào được giảm giá, còn doanh nghiệp vẫn lãi lớn. Bỏ thêm gần 4.500 tỷ đồng một năm để trích cho vào Quỹ bình ổn, nhưng lợi ích mà người tiêu dùng xăng dầu cảm nhận được lại không như mong đợi. Điều này khiến nhiều người hoài nghi, Quỹ bình ổn giá xăng dầu đang làm lợi cho dân hay để bù lỗ cho doanh nghiệp?
 
Ông Lê Đăng Doanh, tiến sĩ kinh tế, cựu Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương cho rằng: 
 
"Việc tăng giá lần này một là gây ra những nghi vấn và thắc mắc trong dư luận vì cách đây mấy ngày báo chí đã đưa lên là quỹ bình ổn giá đã trích ra cao hơn mức lỗ thực và các doanh nghiệp kinh doanh xăng đầu mối siêu lãi. Còn việc nâng giá xăng lên chắc chắn đóng góp vào việc lạm phát tăng và gây khó khăn lớn cho đời sống người dân và các doanh nghiệp, hiện nay họ đã quá mệt mỏi. Tôi thấy đây là quyết định gây tranh cãi và tôi rất mong các cơ quan có giải trình trước công luận về những điểm báo chí đã đưa lên".  
  
 
"Ở phía doanh nghiệp, khi quỹ dương, tiền nằm trong tay doanh nghiệp, nó có thể sinh lời nên khi quỹ cạn, doanh nghiệp ứng trước là bình thường. Nhưng ở góc độ người dân thì quyền lợi của họ bị xâm hại. Bởi dù doanh nghiệp có ứng trước thì trước sau gì cũng vẫn là tiền của dân trích vào quỹ bình ổn bù lại. Nếu hiện nay không xả quỹ lớn, quỹ không âm lớn, thì vài ngày tới khi giá thế giới giảm, giá xăng có thể giảm theo. Nhưng vì hôm nay xả quỹ quá nhiều, quỹ âm nhiều nên không thể giảm giá mà phải để trả nợ cho quỹ.
 
"Cách làm như hiện nay rất nguy hiểm! Làm như vậy là đang dùng cơ chế ghi nợ cho dân. Dân đã trở thành con nợ một cách rất hồn nhiên và không biết. Ai được quyền biến dân thành con nợ? Không thể nào có chuyện Nhà nước vẫn thu thuế đều đặn, người tiêu dùng trở thành con nợ và doanh nghiệp lấy khoản nợ của dân để làm lời!"
 
Tuy nhiên, Quỹ cạn phải tìm cách lấy tiền của dân là một lẽ. Ngày 29/3, Vũ Đức Đam, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nói:
 
“Tôi thấy có một lý do là giá xăng dầu thấp hơn các nước có cùng biên giới nhưng đó chỉ là một dẫn chiếu để thấy giá xăng dầu tại Việt Nam đang thấp hơn giá cơ sở và thấp hơn các nước, không phải lý do chính tăng giá xăng dầu. Đương nhiên khi giá thấp hơn các nước thì tình trạng buôn lậu xăng dầu sẽ tăng và cơ quan chức năng sẽ phải tăng cường chống buôn lậu”.
 
Và ông Đam khẳng định tăng giá xăng là một trong những biện pháp để chống... buôn lậu!
 
Thiệt tình, khó có thể hiểu nổi cách lý giải của ông Bộ trưởng Vũ Đức Đam. Buôn lậu thuộc phạm trù trật tự trị an xã hội làm sao lại đưa vấn đề giá cả vào đây? Buôn bán xăng dầu chứ đâu có phải là những thứ hàng hoá bình thường, chuyên chở sao cũng được? Biên phòng, hải quan và các lực lượng an ninh... ngồi chơi xơi nước à? Hay là tình trạng hối lộ quá lộng hành nên không thể kiểm soát? Xã hội ổn định như thế sao?
 
Không làm được, không ngăn chặn được trộm cắp, cướp giật, buôn lậu - là tình trạng phổ biến trong xã hội -  tội vạ đâu cứ đổ vào người dân là thượng sách. Trăm dâu đổ lên đầu tằm!
 
Nhìn các doanh nghiệp vận tải đang kêu trời, ông Nguyễn Trung Thành, Giám đốc tài chính Công ty Vạn Xuân phát biểu:
 
"Bộ Tài chính lý giải một trong những lý do để tăng giá xăng dầu nhằm hạn chế tình trạng buôn lậu xăng qua biên giới. Nói như thế là ngụy biện. Việc anh quản lý yếu kém, để buôn lậu hoành hành giờ lại đổ gánh nặng lên doanh nghiệp và người dân là không hợp lý. Các ngành hàng xuất khẩu đang tê liệt giờ càng tê liệt thêm".
 
Cuối cùng, người dân vẫn luôn là con nợ trả giá cho việc làm ăn của các doanh nghiệp xăng dầu, cho lạm phát và đời sống ngày thêm khó khăn.
 
© 2013 Lê Diễn Đức - RFA Blog
 
 

Copy từ: Lê Diễn Đức (RFA’ blog)

Sẽ có 8 luật sư biện hộ cho anh em ông Đoàn Văn Vươn


HẢI PHÒNG (NV).- Phiên tòa xử 6 thành viên của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, trong một vụ án gây chấn động dư luận Việt Nam hơn một năm nay, dự tính sẽ diễn ra vào đầu tháng 4.
Như vậy là khoảng vài ngày nữa, có thể hai anh em ruột: ông Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Quý cùng 4 người nữa sẽ bị đưa ra xử về tội “Giết người, chống người thi hành công vụ.”
Bà Hiền, trái, làm thủ tục mời thêm luật sư biện hộ. (Hình: báo Người Lao Động)


Ở ngoài nhà giam, thay chồng chống đỡ gia đình, nuôi nấng con thơ, hai bà vợ của hai anh em nhà họ Đoàn tiếp tục tìm thuê luật sư biện hộ. Theo báo Người Lao Động, đã có 8 luật sư được thuê để bào chữa cho 6 thành viên gia đình ông Vươn tại phiên tòa.

Vụ án gây chấn động dư luận chưa từng có, xảy ra ngày 5 tháng Giêng, 2012 vì lần đầu tiên, một gia đình nông dân mạnh mẽ vùng lên kháng cự trước sự đàn áp của bạo quyền.

Gia đình ông Đoàn Văn Vươn từ năm 1993 đã được chính quyền địa phương giao 20 ha đất ở xã Vinh Quang, thuộc huyện Tiên Lãng để làm đê lấn biển, mở đầm nuôi tôm... trong thời hạn 14 năm. Hai năm sau, ông Vươn xây một con đê làm bờ bao, mở đất rộng gấp đôi để trồng hàng ngàn cây sú, cây vẹt, và đầm nuôi tôm, nuôi cá. Năm 1997, ông Vươn xin chính quyền giao thêm gần 20 ha mà ông đã lấn biển, mở rộng đất đai để nuôi tôm, cá.

Mười sáu năm sau, năm 2009, chính quyền huyện Tiên Lãng ra lệnh thu hồi toàn bộ 40.3 ha của ông Đoàn Văn Vươn. Ông này không đồng ý, kiện chính quyền huyện ra tòa.
Sau nhiều lần xử, kháng cáo, tranh chấp, ngày 5 tháng Giêng, 2012, chính quyền huyện Tiên Lãng đưa hơn 100 bộ đội, công an bao vây, ép buộc gia đình ông Vươn phải giao nộp đất. Anh em nhà họ Đoàn đã dùng mìn tự chế và súng hoa cải kháng cự, làm 6 công an, bộ đội bị thương.

Sau khi khởi tố vụ án, chính quyền huyện Tiên Lãng bắt giữ 6 người gồm ông Đoàn Văn Vươn, sinh năm 1963; Đoàn Văn Quý, sinh năm 1966; Đoàn Văn Sinh, sinh năm 1957; và Đoàn Văn Vệ, sinh năm 1974 cùng với hai người khác nữa. Liền sau đó, ngôi nhà hai tầng của anh em ông Vươn bị phá sập mà chính quyền giải thích là người dân nổi giận phá hủy.

Tuy nhiên, sự phản ứng kịch liệt của dư luận ở Việt Nam khiến chính quyền Hải Phòng chùn bước. Thủ tướng cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã phải nhúng tay can thiệp, yêu cầu chính quyền địa phương để gia đình ông Vươn tiếp tục sử dụng đất đã giao. Mặt khác, một loạt cán bộ bị lột chức, như Chủ tịch và bí thư xã Vinh Quang, Chủ tịch và phó Chủ tịch chính quyền huyện Tiên Lãng.

Nhiều nguồn tin khá tin cậy nói rằng phiên tòa xử anh em nhà họ Đoàn sẽ diễn ra tại Tiên Lãng, Hải Phòng trong ba ngày, từ 2 đến 4 tháng 4, 2013.
Tin tức còn nói rằng người nhà của ông Đoàn Văn Vươn tiếp tục gửi thư kêu cứu và đòi được xét xử công bằng. Theo họ, các tội danh “Giết người và chống người thi hành công vụ” dành cho anh em ông Vươn là quá nặng và bất công.

Hôm 26 tháng 3, 2013, bà Nguyễn Thị Thương, vợ của ông Đoàn Văn Vươn, và bà Phạm Thị Hiền, vợ của ông Đoàn Văn Quý đã gửi thư đến Hội đồng Giám mục Việt Nam xin cử người đến giám sát phiên tòa và trợ giúp việc mang lại công lý cho gia đình.

Theo cáo trạng, hai bà Nguyễn Thị Thương và Phạm Thị Hiền cũng bị truy tố về tội “Chống người thi hành công vụ” nhưng được tại ngoại tạm thời. Theo luật Hình Sự Việt Nam, nghi can có thể lãnh mức án từ 12 năm tù giam đến tử hình nếu bị buộc tội giết người.

Theo báo Người Lao Động, sáng ngày 29 tháng 3, bà Phạm Thị Hiền cho hay đã nhận được sự ủy quyền của chồng để mời thêm luật sư bào chữa.
Cũng theo Người Lao Động, ngày 8 tháng 4 sẽ có thêm một phiên tòa xử vụ “Hủy hoại tài sản công dân, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.”
Năm bị can trong vụ này đều là cán bộ huyện Tiên Lãng, gồm Chủ tịch huyện Lê Văn Hiền; phó Chủ tịch huyện Nguyễn Văn Khanh; trưởng phòng Tài nguyên – môi trường Phạm Xuân Hoa; Chủ tịch xã Vinh Quang – Lê Thanh Liêm và bí thư xã này, Phạm Đăng Hoan.
Báo Người Lao Động dẫn lời đại diện nhóm luật sư biện hộ cho biết vừa vào thăm anh em ông Vươn, nhận thấy sức khỏe và tinh thần của họ đều khá ổn định. (PL)


Copy từ: Người Việt

Vụ ông Vươn: 'Chính quyền sai hoàn toàn'



Nhà của gia đình ông Vươn bị chính quyền phá.
Một luật sư khuyến cáo giới chức tòa án Việt Nam xét xử công minh cho phiên xử mà ông mô tả là sẽ đi vào lịch sử.
Luật sư Trần Vũ Hải, người không tham gia bào chữa trong vụ xử theo dự kiến diễn ra vào tuần tới, khuyến cáo giới thẩm phán cần xem xét các tình tiết được cho là sai trái về phía chính quyền huyện Tiên Lãng vốn dẫn tới việc gây ức chế và hành vi phản kháng của ông Vươn và người thân khi bị cưỡng chế đất.
Ông Vươn và gia đình gồm sáu người sẽ bị đưa ra xét xử vì tội "giết người và chống người thi hành công vụ."
Luật sư Hải cũng so sánh vụ án ở Cống Rộc, Tiên Lãng này với  vụ án Nọc Nạn xảy ra ở tỉnh Bạc Liêu từ thời Pháp thuộc mà trong đó các bị cáo chính, là nông dân người Việt đã phản kháng đàn áp, cưỡng bức ruộng đất và giết chết năm người của chính quyền thực dân Pháp và phong kiến ở Nam Kỳ, đã được tha bổng.
"Trong phiên xử này, nhân dân hy vọng rằng tòa án của Việt Nam, nhà nước công nông Việt Nam, sẽ bảo vệ tốt hơn quyền của nông dân so với tòa án thực dân Pháp hoặc ít nhất là bằng.
"Đây là phiên xử thể hiện tính công minh của hệ thống tư pháp Việt Nam và là dịp để so sánh với hệ thống tư pháp của chế độ cũ", luật sư Hải nói với BBC hôm 30/03.
Tin cho hay gần một chục luật sư có thể được chấp nhận tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho ông Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý và người thân trong phiên tòa dự kiến từ ngày 2-5/4 xử vụ người dân nổ súng chống cưỡng chế đất đai ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng đầu tháng 1/2012, theo báo trong nước.
Tờ  Người Lao Động hôm thứ Sáu cho hay tám luật sư có thể được tham gia bào chữa cho sáu anh em trong gia đình ông Vươn trong phiên sơ thẩm, nếu không có gì thay đổi.
Luật sư Trần Vũ Hải nói về phiên xử ông Vươn
Một luật sư khuyến cáo giới chức tòa án Việt Nam xét xử công minh cho phiên xử mà ông mô tả là sẽ đi vào lịch sử.
Trước phiên tòa tuần sau, một số ý kiến của giới quan sát cho hay chính quyền Hải Phòng có thể sẽ muốn xét xử vụ án trong một động thái đa mục tiêu, vừa tiếp tục qua đó răn đe khả năng lặp lại các vụ phản kháng chống cưỡng chế vốn thu hút chú ý của công luận, vừa có thể muốn xoa dịu dư luận.
Nhà báo Huy Đức vào tuần này viết trên Bấm Facebook về điều ông gọi là "tội và công" của anh em nhà ông Đoàn Văn Vươn.
"Về tội, anh Vươn chỉ làm "trầy da, tróc vảy" mấy cán bộ công an. Về công, anh thức tỉnh được ở tầm cao nhất.
"Tòa nên chiểu theo khoản 4, điều 8 của Bộ Luật Hình sự (Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác) để miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho các thành viên trong gia đình anh.
"Rồi lịch sử sẽ còn nhắc lại vụ Đoàn Văn Vươn. Bản án là sự lựa chọn để lại tiếng thơm hay để lại vết nhơ trăm năm cho Chế độ", nhà báo Huy Đức bình luận.

'Ân giảm nếu nhận tội'?

"Con người ai cũng có quyền tự vệ khi bị kẻ khác đe dọa tính mạng hoặc lợi ích chính đáng của mình. Tự vệ, trước hết đó là quyền cơ bản của con người"
Nguyễn Thị Ánh Hiền, Dân luận
Có dự đoán từ giới quan sát cho rằng các bị can là thành viên gia đình của ông Vươn có thể phải đối mặt với mức án tù khoảng dưới mười năm, hoặc có thể chỉ khoảng 7 năm trở xuống, một số có thể sẽ được giảm án qua các hình thức ân giảm qua các đợt ân xá hàng năm, nếu chịu nhận tội.
Tuy nhiên, trên truyền thông tự do trên mạng Internet, nhiều ý kiến tiếp tục đề nghị tha bổng cho các bị can, và đặt vấn đề các ông Vươn, Quý và những người thân chỉ "tự vệ chính đáng."
Các phiên xử được dự đoán sẽ diễn ra trong vòng bảo vệ an ninh, trật tự nghiêm ngặt của chính quyền và các lực lượng cảnh sát, an ninh.
Ngay sau phiên xử ông Vươn và người thân tuần sau, từ 8-10/4 sẽ bắt đầu phiên tòa sơ thẩm xử vụ án “Hủy hoại tài sản, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” đối với 5 bị can nguyên cán bộ huyện Tiên Lãng.
Đó là các ông Lê Văn Hiền, nguyên Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng; ông Nguyễn Văn Khanh, nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng; ông Phạm Xuân Hoa, nguyên Trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Tiên Lãng; ông Lê Thanh Liêm, nguyên Chủ tịch UBND xã Vinh Quang; và ông Phạm Đăng Hoan, nguyên Bí thư Đảng ủy xã, theo tờ Người Lao Động.

'Tự vệ chính đáng'

Ông Lê Văn Hiền
Từ 8-10/4 sẽ xử cựu quan chức Tiên Lãng, Hải Phòng trong đó có cựu Chủ tịch Lê Văn Hiền
Hôm 30/3, bài báo trên tờ  Dân Luận của tác giả Nguyễn Thị Ánh Hiền với tựa đề "Đi tìm sự hợp lý trong lý do biện minh "tự vệ" ở vụ án Đoàn Văn Vươn" đặt vấn đề:
"Con người ai cũng có quyền tự vệ khi bị kẻ khác đe dọa tính mạng hoặc lợi ích chính đáng của mình. Tự vệ, trước hết đó là quyền cơ bản của con người.
"Biện pháp tự vệ được sử dụng khi phải đối mặt với tình huống sắp bị tấn công hoặc sắp bị đe dọa. Nếu không tự vệ thì nguy cơ xảy ra thiệt hại rất nghiêm trọng."
Tác giả nhận đang là sinh viên Luật ở một đại học tại Sài Gòn khẳng định: "Một hành vi không làm cho một người có tội trừ phi tâm của họ có tội."
"Nếu phiên tòa xử gia đình ông Vươn tới đây được sử dụng như là cách thức để chính quyền trả thù những kẻ phản kháng, niềm tin ít ỏi còn lại vào công lý ở VN sẽ bị chà đạp"
Nhà báo Hồng Ngọc
Trước đó, trên BBC Việt ngữ trong bài viết "Đoàn Văn Vươn - từ công lý đến bạo lực", tác giả  Hồng Ngọc, cựu nhà báo của VietnamNet và Văn hóa - Thể thao đưa ra quan điểm:
"Dù ai cũng biết gia đình ông Vươn phạm pháp trong cuộc đáp trả ấy, thì phản kháng tuyệt vọng ấy cần phải được nhìn nhận theo hướng gia đình ông Vươn là nạn nhân, trước khi bị nhìn nhận như thủ phạm,
"Nếu phiên tòa xử gia đình ông Vươn tới đây được sử dụng như là cách thức để chính quyền trả thù những kẻ phản kháng, niềm tin ít ỏi còn lại vào công lý ở Việt Nam sẽ bị chà đạp, và bạo lực ở nơi này hay nơi khác sẽ lại tiếp diễn, nghiêm trọng hơn," nhà báo tự do Hồng Ngọc cảnh báo.




Copy từ:  BBC

Chưa phải lúc phá giá tiền đồng

Chưa phải lúc phá giá tiền đồng

Tấn Đức

 

 

 

 


(TBKTSG) - LTS: TBKTSG giới thiệu thêm một ý kiến về chuyện điều chỉnh tỷ giá. Phần thắng trong cuộc tranh luận giữa các chuyên gia kinh tế, về chuyện nên hay không phá giá tiền đồng, đang nghiêng về phía phản đối. Bài phân tích của TS. Phan Minh Ngọc trên TBKTSG số ra ngày 14-3, dù đã đưa ra nhiều lý lẽ ủng hộ chuyện phá giá, nhưng xem ra phân tích của ông cũng chưa đủ sức thuyết phục.
Quan điểm chính của bên ủng hộ cho rằng, tiền đồng đã mất giá nhiều do lạm phát trong những năm qua, nên cần phá giá để kích thích xuất khẩu và hỗ trợ cạnh tranh cho các doanh nghiệp ở thị trường trong nước. Hơn nữa, phá giá để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không bị áp lực phải bơm ngoại tệ ra nhằm giữ ổn định tỷ giá. Và, lạm phát đang ở mức thấp, cán cân thương mại hiện nay đang có thặng dư. Đó là cơ hội tốt để phá giá tiền đồng.
Lập luận trên đúng, nhưng mới đúng về lý thuyết. Để có thể quyết định nên phá giá hay không, còn phải nhìn vào hiện trạng của nền kinh tế.
Trước hết, câu hỏi đặt ra là mức lạm phát thấp và xuất siêu mà Việt Nam đạt được trong thời gian gần đây có thật sự bền vững, có xuất phát từ sức mạnh nội tại của nền kinh tế? Câu trả lời chắc chắn là không.
Nhiều chuyên gia đã phân tích thành quả này và đều đi đến kết luận thống nhất: lạm phát thấp và xuất siêu chưa bền vững. Sức mua của người dân kiệt quệ; doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm nên phải cắt giảm sản xuất, hạ giá bán sản phẩm và chấp nhận lỗ... Đó là yếu tố chính kéo lùi lạm phát và giảm nhu cầu nhập khẩu, góp phần tạo ra xuất siêu.
Thứ hai, NHNN có đang chịu áp lực phải bơm ngoại tệ ra để ổn định tỷ giá không? Câu trả lời cũng là không.
Năm ngoái, NHNN đã mua vào một lượng lớn ngoại tệ, nhờ đó mức dự trữ ngoại tệ tăng mạnh. Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia dẫn số liệu từ NHNN cho thấy, dự trữ ngoại tệ hiện tương đương 14-16 tuần nhập khẩu, tăng mạnh so với mức 8-9 tuần hồi quí 1-2012. Tất nhiên, thành quả này chỉ là tạm thời. Một khi khó khăn qua đi, kinh tế phát triển trở lại, nhu cầu đầu tư và phát triển sản xuất gia tăng, nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán tăng, thì sức ép tỷ giá có thể sẽ xuất hiện. Nhưng đó là chuyện của tương lai.
Tiếp đến, hãy xem xét đến cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2012 (theo Tổng cục Hải quan). (Xem bảng bên).
Từ số liệu thống kê đó, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là có giá trị gia tăng thấp. Ngay những nhóm hàng công nghệ, như điện thoại, máy tính, hàng điện tử, phương tiện vận tải... phần giá trị tăng thêm cũng thấp, do phần sản xuất của Việt Nam chủ yếu là lắp ráp ở công đoạn cuối từ nguồn linh kiện nhập khẩu. Vì giá trị gia tăng thấp, nên chi phí nguyên vật liệu đầu vào (nhập khẩu) thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá thành sản phẩm, đến 60-70% và thậm chí trên 90% (hàng điện tử). Phần trong nước, chủ yếu là phí nhân công, chi phí điện nước và xăng dầu, cùng một số chi phí dịch vụ.
Nhóm hàng xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ thực nhiều nhất cho Việt Nam là tài nguyên thô (dầu thô, than đá và khoáng sản khác) và hàng nông lâm thủy sản.
Sản phẩm Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Trong đó, có nhiều nhóm hàng phục vụ cho sản xuất để tiêu thụ trong nước là chính (máy tính, hàng điện tử; hóa chất, thép, nguyên liệu chất dẻo, giấy, xăng dầu, dược phẩm và nguyên liệu dược, thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu, phân bón...).
Nếu phá giá tiền đồng thì chuyện gì sẽ xảy ra? Trước hết giá xăng dầu sẽ lập tức tăng và giá điện cũng sẽ tăng. Đây là hai mặt hàng có tác động rất lớn đến nền kinh tế. Cũng cần phải nhắc lại, sau đợt NHNN phá giá tiền đồng 9,3% vào đầu năm 2011, tập đoàn Điện lực Việt Nam vẫn còn đang treo 25.000 tỉ đồng lỗ do chênh lệch tỷ giá để chờ phân bổ vào giá bán điện.
Giá các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu khác như thuốc chữa bệnh, sữa, cước phí vận tải cũng sẽ tăng. Nhất là vận tải biển, vì phí dịch vụ này lâu nay vẫn được tính quy đổi theo đô la Mỹ. Vì vậy, nguy cơ lạm phát, nếu phá giá tiền đồng, không phải là rủi ro nhỏ.
Đối với ngành sản xuất công nghiệp, nếu thuần chỉ bán hàng ở thị trường nội địa, trong bối cảnh sức mua thị trường yếu như hiện nay thì áp lực sẽ rất lớn. Chi phí nguyên liệu đầu vào tăng và phí khấu hao máy móc thiết bị, điện nước, cước phí vận tải cũng tăng. Nếu không thể tăng giá bán thì sẽ là ác mộng với họ.
Doanh nghiệp xuất khẩu chưa hẳn đã được lợi nhiều. Như đã nói ở trên, do sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, nên phần lớn số thu về do chênh lệch tỷ giá sẽ bù trừ cho giá nguyên vật liệu nhập khẩu. Đồng thời, ngay những chi phí chủ chốt ở trong nước, như giá điện, xăng dầu, cước phí vận tải cũng tăng theo tỷ giá, nên kết quả còn lại sẽ chẳng còn được bao nhiêu. Đó là chưa nói những doanh nghiệp vừa bán hàng trong nước, vừa xuất khẩu, phần thu được từ xuất khẩu chưa chắc bù đắp nổi chi phí tăng lên cho phần bán nội địa, nếu họ không thể tăng giá bán.
Được lợi rõ nhất có lẽ ở ngành nông sản. Nhưng cũng cần làm rõ là lợi cho ai, cho nông dân hay cho doanh nghiệp xuất khẩu? Nếu nói phá giá tiền đồng có lợi cho nông dân thì chưa chắc. Hãy lấy gạo, sản phẩm ảnh hưởng đến nông dân nhiều nhất, làm ví dụ.
Để sản xuất gạo nông dân phải bỏ nhiều chi phí, trong đó chi phí lớn nhất là phân bón, thuốc trừ sâu và xăng dầu. Đây đều là những chi phí mà sự thay đổi tỷ giá có tác động trực tiếp. Nhưng không phải tất cả lúa làm ra đều để xuất khẩu, mà chỉ xuất khoảng một phần ba. Nếu giá bán lúa cho thị trường trong nước không thể tăng theo chi phí, thì liệu lợi ích thu được từ thay đổi tỷ giá của phần xuất khẩu có đủ bù đắp cho thiệt hại của phần lúa bán nội địa do chi phí tăng?
Ngoài ra, những ngành không có xuất khẩu, như chăn nuôi gia súc và gia cầm, đánh bắt hải sản (chỉ 10% hải sản đánh bắt được xuất khẩu), việc phá giá dẫn đến chi phí (giá thức ăn, giá xăng dầu) tăng thì lợi hay hại cho họ?
Như vậy, người được hưởng lợi một cách rõ ràng nhất chỉ là những doanh nghiệp khai thác tài nguyên để xuất khẩu.
Một yếu tố nữa mà bên ủng hộ đưa ra là phá giá tiền đồng để tăng sức cạnh tranh ở thị trường trong nước cho doanh nghiệp nội địa. Lý thuyết là vậy, nhưng thực tế thì thế nào? Cần biết rằng, hầu hết sản phẩm tiêu dùng Việt Nam nhập khẩu là từ Trung Quốc. Đây là đối thủ mà doanh nghiệp Việt Nam đã xác định là không thể cạnh tranh với họ về giá. Như vậy, nếu hàng Trung quốc nhập về đắt hơn 3-4%, thậm chí 9-10%, chưa biết sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước có cải thiện hơn không, nhưng chắc chắn rằng số nợ họ đã vay để đầu tư máy móc thiết bị thì tăng ngay lập tức.
Bên ủng hộ còn lo, nếu không phá giá thì doanh nghiệp sẽ quay sang vay ngoại tệ, thay vì vay tiền đồng, làm tăng cầu ngoại tệ và gây sức ép buộc NHNN phải bơm ngoại tệ ra để ổn định tỷ giá.
Nhưng lo ngại này không đúng. Nếu doanh nghiệp vay để thanh toán cho hàng nhập khẩu, thì dù vay tiền đồng, ngoại tệ vẫn chảy ra ngoài. Ngược lại, nếu để thanh toán nội địa, dù có vay bằng ngoại tệ thì ngoại tệ đó vẫn ở lại trong nước, chẳng mất đi đâu cả.
Cũng cần nói thêm, nếu tỷ giá ổn định và doanh nghiệp vay được ngoại tệ để làm vốn kinh doanh thì tốt quá đi chứ. Ít ra họ cũng còn có cơ hội tiếp cận được nguồn vốn rẻ. Biết đâu, nguồn vốn rẻ đó chẳng cứu cho nhiều doanh nghiệp thoát khỏi nguy cơ phá sản.
Cuối cùng, không nên xem nhẹ yếu tố tâm lý của người dân. Các chuyên gia thuộc bên ủng hộ luôn nhấn mạnh “phá giá có kiểm soát”, nhưng NHNN có kiểm soát nổi hay không thì chưa ai dám chắc.
Tỷ giá ổn định suốt hai năm qua, ngoài nguyên nhân do nhu cầu vay ngoại tệ để nhập máy móc thiết bị, nguyên vật liệu giảm, còn nhờ người dân chuyển đô la Mỹ thành tiền đồng (vì lãi suất tiết kiệm tiền đồng cao). Từ cuối năm ngoái đến nay, lãi suất huy động tiền đồng giảm liên tục, nhưng nguồn cung ngoại tệ vẫn dồi dào. Đó có thể là nhờ niềm tin của người dân vào sự ổn định của tỷ giá, nhưng niềm tin này cũng rất mong manh. Nếu phá giá tiền đồng vào lúc này và trong tình huống xấu nhất là niềm tin của người dân dao động, thì liệu NHNN có kiểm soát nổi không, có thuyết phục được họ tin đó là “phá giá có kiểm soát không”? Xin các chuyên gia kinh tế hãy nhìn vào thị trường vàng!
Tỷ giá ổn định suốt hai năm qua, ngoài nguyên nhân do nhu cầu vay ngoại tệ để nhập máy móc thiết bị, nguyên vật liệu giảm, còn nhờ người dân chuyển đô la Mỹ thành tiền đồng (vì lãi suất tiết kiệm tiền đồng cao).




Copy từ: TBKTSG

Nền kinh tế đang rất yếu!

 Tư Hoàng


(TBKTSG Online) - Nền kinh tế vẫn đang rất yếu, trong khi các chính sách hỗ trợ của Chính phủ vẫn chưa phát huy tác dụng, theo báo cáo công bố hôm nay, 29-3, của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia.
Báo cáo phục vụ cho phiên họp hàng tháng của Chính phủ nhận định, tổng cầu của nền kinh tế vẫn yếu.
Về tiêu dùng, doanh số bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng tăng 4,5%, so với mức 5% của quý 1/2012; khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 4,9%, so với mức 10,3% của quý 1/2012.
Về đầu  tư, đầu tư từ nguồn ngân  sách Nhà nước giảm 4,9%  so với cùng kỳ, trong khi vốn tín dụng chỉ tăng 0,03% và số doanh nghiệp đăng kí thành lập mới giảm 6,8% so cùng kì năm trước.
Lạm phát tháng 3 được kiểm soát ở mức thấp kỷ lục với mức giảm 0,19% so
với  tháng  trước  – mức giảm mạnh nhất  theo tháng  kể  từ  năm 2009 và chỉ  tăng 6,64% so với cùng kỳ -mức tăng thấp nhất kể từ năm 2005. Theo đó, lạm phát quý 1/2013 tăng 2,39% so với đầu năm và tăng 6,91% so với cùng kỳ - là mức thấp nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, phản ánh tổng cầu của nền kinh tế và sức mua hiện rất thấp.
Liên quan tới thị trường tiền tệ - tín dụng, Ủy ban nhận định, vốn tín dụng vào khu vực sản xuất vẫn chưa cải thiện so với cuối năm ngoái, phản ánh khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu. Tính đến ngày 21-3-2013, tín dụng chỉ  tăng 0,03%  trong khi huy động tăng 3,86% so với 31-12-2012; trong khi trái phiếu chính phủ vẫn là một kênh đầu tư hấp dẫn đối với các tổ chức tín dụng. Vấn đề nợ xấu một khi chưa được khắc phục cơ bản  sẽ  vẫn là một  trong những trở ngại lớn cho việc tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp. Do vậy, mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 12% vẫn đối mặt với thách thức lớn.

Tóm lại, Ủy ban cho rằng, trong bối cảnh số lượng doanh nghiệp giải thể phá sản vẫn cao, tín dụng ngân hàng hầu như không tăng, cầu tiêu dùng còn yếu, giải ngân vốn đầu tư phát  triển chỉ đạt 15,4% dự  toán năm, lẽ ra cần phải đẩy nhanh việc thực hiện Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ một cách hiệu quả hơn.

Ủy ban dự báo, tăng  trưởng kinh tế cả năm 2013 sẽ đạt khoảng 5,3%. Tuy nhiên, kinh tế vẫn đang đối mặt nhiều khó khăn: sức sản xuất của doanh nghiệp còn yếu, lạm phát năm 2013 dự báo  sẽ ở mức 6-7%, Ủy ban cho rằng, tình hình trên tạo dư địa cho việc giảm  lãi suất huy động xuống 7%,  lãi suất cho vay xuống 10%.


Copy từ: TBKTSG

Khi giá xăng bất chấp nhân dân

Thiền Lâm, viết từ Việt Nam
2013-03-29
laodong.com.vn-305.jpg
Người dân đổ xô đi mua xăng trước giờ tăng giá
Photo courtesy of laodong.com.vn

Minh bạch?

Vào những ngày cuối quý 1/2013, trong bối cảnh giá dầu quốc tế đã giảm đến 5%, còn nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa phát ra tín hiệu rõ ràng nào về “thoát đáy”, ít nhất 100.000 doanh nghiệp mất lối thoát sau hai năm suy thoái liên tiếp và nỗi lo thất nghiệp đã tăng vọt đến 32% so với 20% trong năm 2012, những người từng bị chỉ mặt điểm tên là “nhóm lợi ích xăng dầu” lại quyết định tăng thêm 1.400 đồng/lít, đưa mức giá của mặt hàng chiến lược quốc gia này “vươn lên một tầm cao mới” trong trang sử thoái trào kinh tế trầm kha ở Việt Nam.
“Không thể hiểu nổi chính phủ này điều hành cái lối gì mà đời sống dân tình cứ ngày càng bị áp lực nặng nề bởi thuế má hay chuyện tăng giá. Bây giờ thì bất chấp luôn, ai phản ứng cứ phản ứng, xăng điện vẫn cứ tăng ào ào. Thử hỏi như vậy thì làm sao gọi là nhà nước của dân và vì dân nữa chớ?” - một người chạy xe ôm đã có tuổi ở Sài Gòn thốt lên, nước mắt rưng rưng.
Cách đây chỉ hơn hai tháng, trong một cuộc họp với ngành công thương và các doanh nghiệp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã một lần nữa nhẹ nhàng chỉ đạo cho Tập đoàn xăng dầu Việt Nam (Petrolimex): “Vấn đề cốt lõi vẫn là minh bạch, theo đúng giá thị trường. Làm sao đừng để những vấn đề không đáng lại gây nên bức xúc”.
Chỉ hai ngày sau đó, tại cuộc họp báo thành lập Hiệp hội xăng dầu, ông Bùi Ngọc Bảo - Chủ tịch hội đồng quản trị Petrolimex - đã bật lên một trong những phát ngôn được xem là bất chấp nhất trong thời buổi rối ren hiện nay: “Giá cả xăng dầu ở Việt Nam từ lâu được thực hiện theo các quy định, nghị định và quyết định của Chính phủ. Chúng tôi cho rằng, riêng về lĩnh vực xăng dầu, giá cả xăng dầu là minh bạch nhất trong tất cả các loại hàng hiện nay”.
Một phát ngôn - đã từng được nhân dân đánh giá và kỳ vọng rất cao “Chúng tôi làm việc và điều hành có trách nhiệm, không phải vì 11 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu, mà phải vì nền kinh tế và hơn 80 triệu người tiêu dùng xăng dầu trên lãnh thổ này” của Bộ trưởng tài chính Vương Đình Huệ vào cuối năm 2011 - cũng vì thế chỉ còn đọng lại trong tâm khảm người dân một ký ức nặng nề, bị bất chấp và chẳng có hy vọng nào đổi thay.

Phục dựng

Trong báo cáo thường niên của mình, Tổ chức minh bạch quốc tế có lẽ cần bổ sung một dẫn chứng về tính khí thích thay đổi từ những lần tăng giá xăng dầu của Petrolimex - hiện thân của một trong những tập đoàn quốc doanh lớn nhất, cũng bị xem là đặc quyền và đặc lợi điển hình nhất, liên quan với những bộ ngành được coi là thần thế và thủ cựu nhất.
Theo một bài tường thuật của báo Tuổi Trẻ, trong một cuộc hội thảo về giá xăng dầu vào cuối năm 2011, khi thấy ông Bùi Ngọc Bảo của Petrolimex nhắc nhiều đến chuyện lỗ lã, ông Vương Đình Huệ - khi đó là Bộ trưởng tài chính - đã phải ngắt lời, yêu cầu nêu rõ năm 2011 lỗ bao nhiêu, từng mặt hàng lỗ lãi như thế nào.
Là người am hiểu về ngành tài chính, ông Huệ cũng đặt câu hỏi trực tiếp về lý do lỗ: Petrolimex đã thực hiện chiết khấu cho đại lý đúng quy định chưa?
Ông Bảo chưa kịp trả lời thì ông Nguyễn Cẩm Tú - thứ trưởng Bộ công thương, có mặt với tư cách khách mời, đã chen ngang cho rằng: “Các định mức cho chi phí kinh doanh xăng dầu đã quá cũ”. Giữa tiếng ồn ào của những lời phát biểu chen ngang, ông Huệ truy vấn: “Thực chất từng mặt hàng xăng dầu lãi lỗ thế nào?”. Ông Bảo khẳng định: “Chúng tôi không tách ra từng mặt hàng giá lỗ là bao nhiêu mà tính tổng thể”.
“Tại sao lại không thể hạch toán riêng? Vậy các anh tính toán thế nào để nói lỗ?” - ông Huệ truy vấn tiếp và phê phán việc Petrolimex không nói lời lỗ từng mặt hàng là không thể chấp nhận được. “Không thể hạch toán từng mặt hàng thì tôi không biết quản trị các anh thế nào…? Chúng tôi sẽ yêu cầu báo cáo từng mặt hàng một chứ không có chuyện không biết lời lỗ từng mặt hàng” - ông Huệ bức xúc và khẳng định.
Trong buổi hội thảo trên, cần ghi nhận một nhân tố đặc biệt là Thứ trưởng Bộ công thương Nguyễn Cẩm Tú đã nhiệt tình một cách đáng kinh ngạc khi bảo vệ cho quan điểm “lỗ” của Petrolimex: “Phải giải quyết cái gốc là doanh nghiệp đang lỗ rất lớn. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì đừng hòng giải quyết được các vấn đề khác. Tôi đề nghị phải dùng đầu nhiều hơn dùng tay chân, nghĩa là bớt đi biện pháp hành chính, từng bước tăng giá, như thế bớt phải hội thảo”…
Nếu với cùng một Petrolimex, người dân đã không thể hiểu được doanh nghiệp này thực chất lỗ hay lãi, thì trong cùng Bộ Công thương, hình như lại tồn tại một mối bất hòa lớn lao khi vào tháng 9/2011, ông Tú thứ trưởng khẳng định Petrolimex lỗ; còn vào tháng 11/2011, ông Hoàng bộ trưởng lại khẳng định Petrolimex có lãi về tổng thể theo… bản cáo bạch cổ phần hóa. Phải chăng đó là tư tưởng “dùng đầu nhiều hơn dùng tay chân”?
Kết thúc cuội hội thảo về cơ chế kinh doanh xăng dầu đề cập ở trên, ông Huệ đanh thép: “Nếu cần công bố gian lận, tôi sẽ công bố các gian lận”.

“Vận động”

Trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam, gian lận xăng dầu cũng là một nội dung bị xem có thể dẫn đến hậu quả “suy thoái về đạo đức và lối sống”.
1.-250.jpg
Mua bán xăng tại một cây xăng ở Hà Nội hôm 26/3/2013. RFA photo
Năm 2011 lại đã quá ấn tượng về lần đầu tiên sau hai mươi năm mở cửa kinh tế, công luận mới biết tới khái niệm “nhóm lợi ích” gắn liền với những chiến dịch lobby của nó.
Từ tháng 3/2011, các doanh nghiệp xăng dầu đã “vận động” Bộ công thương và Bộ tài chính để được Chính phủ phê duyệt cho một đợt tăng giá xăng dầu mới.
Nhưng rủi thay, cơ chế tăng giá đột biến và tham lam như thế đã như đổ thêm dầu vào ngọn lửa lạm phát, vốn đang chực chờ bùng cháy.
Bằng mô hình tính toán Leontief, một số nhà khoa học Việt Nam xác định được tác động của đợt tăng giá xăng dầu các loại ngày 29/3/2011 đã làm cho chỉ số CPI tăng đến 1,6%!
Trước sức ép của lạm phát và làn sóng phản ứng dâng cao của nhân dân cùng báo chí, nhóm lợi ích xăng dầu đã trở nên thận trọng hơn nhiều trong nửa cuối năm 2011.
Nhưng đống lửa nào vẫn còn âm ỉ lớp tro kích nổ thì vẫn có nguy cơ bùng cháy trở lại. Mối lo thường trực của người dân đã có cơ sở để biến thành linh cảm thật tệ: không lúc này thì lúc khác, nhóm lợi ích sẽ không bỏ cuộc và vẫn sẽ tiếp tục theo đuổi lộ trình tăng giá xăng dầu.
Một năm sau, vào đầu tháng 3/2012, một lần nữa các doanh nghiệp xăng dầu lại thành công trong đợt tăng giá.
Một khích lệ lớn cho Petrolimex chính là tiền lệ mà người bạn đồng hành của doanh nghiệp này - Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) - đã tiên phong thực hiện thành công ngay vào những ngày cuối năm 2011, khi giá điện được đẩy lên 5% mà không gặp trở ngại đáng kể nào từ phía dư luận, trong khi lại nhận được thái độ đồng thuận của “mẹ đỡ đầu” của nó là Bộ công thương.
Những người am hiểu về “cơ chế chính sách” lại một lần nữa phải ngậm ngùi, khi cơ chế được sinh ra để phục vụ cho chính nó.
Con át chủ bài mà EVN tung ra vào sát tết dương lịch 2012 không phải gì khác, mà chính là quyết định số 24 của Thủ tướng chính phủ, cho phép nếu giá điện tăng trong phạm vi 5%, EVN chỉ cần thông báo với Bộ công thương và Bộ tài chính; chỉ khi nào giá điện tăng trên 5% thì Chính phủ mới can thiệp.
Khi Bộ công thương đứng ra thuyết minh cho hành động tăng giá điện “hợp pháp” của EVN, người ta đã có thể hình dung sự thể rồi sẽ dẫn đến đâu. Nếu chiến thuật của EVN tỏ ra hữu hiệu thì điều đó sẽ trở thành một tiền lệ hiệu dụng cho Petrolimex.
Vào thời gian đó, không khí nghị trường lại bất ngờ nhuốm một sắc thái thay đổi rất kín đáo và hết sức tế nhị, khi ngay cả bộ trưởng Vương Đình Huệ cũng không còn biểu hiện phản đối quyết liệt trước ý đồ tăng giá xăng dầu.

Dự cảm

Trong bối cảnh ông Huệ đã “dịu giọng”, những gương mặt lãnh đạo của Bộ công thương lại liên tục xuất hiện.
Một hình ảnh PR chính sách chăng?
Thực chất vấn đề của Petrolimex và mối liên đới Petrolimex - Bộ Công thương là như thế nào?
Làm sao người dân có thể tin rằng Petrolimex, trong khi công bố con số lỗ trong năm 2008 đến 10.700 tỷ đồng, thì trong bản cáo bạch của đơn vị này (được công bố vào tháng 7/2011 nhằm phục vụ cho hoạt động cổ phần hóa) lại nêu ra số lãi 913 tỷ đồng cũng trong năm 2008?
Đúng như quyết tâm của Thứ trưởng công thương Nguyễn Cẩm Tú về phương châm “từng bước tăng giá, như thế bớt phải hội thảo”, giá xăng dầu đã được mặc định vào tháng 3/2013 mà không cần đến bất cứ cuộc hội thảo hay trao đổi nào với giới chuyên gia và người dân.
Với đợt tăng giá xăng dầu thất thần ấy, một dự cảm rất xấu cho những đợt tăng giá bất chấp tương tự sẽ diễn ra trong năm 2013, nhưng cũng gây ra sự phản ứng bất thường và có thể cả biến động mạnh mẽ khó ngờ từ phía người dân.
Nếu dự cảm trên là đúng, không thể nói khác hơn là bóng ma lạm phát gần 20% trong năm 2011 sẽ lừng lững quay trở lại vào năm 2013, trở thành một thách thức rất cụ thể, rất hữu hình đối với “quyết tâm” kềm giữ lạm phát dưới một con số vào năm nay mà những người điều hành chính phủ vẫn mải mê hứa hẹn trước các cử tri của họ.




Copy từ: RFA

Tăng giá xăng: Sự tồn vong của chế độ!

Thiền Lâm viết từ VN
2013-03-29
giaxang-kenh14-305.jpg
Điều chỉnh giá xăng trước khi bán, ảnh minh họa
Photo courtesy of kenh14.vn
Từ đầu năm Quý Tỵ đến nay, ông Huệ đã thay đổi vị trí công tác sang chức vụ Trưởng ban kinh tế trung ương, không còn nắm quyền điều hành trực tiếp Bộ tài chính và tham gia ý kiến đối với việc quyết định giá xăng dầu tăng hay giảm.
Sau phát ngôn được lòng dân vào cuối năm 2011, ông đột nhiên trở nên lặng lẽ hơn rất nhiều trong suốt năm 2012. Cũng trong thời gian đó, cùng với sự kín tiếng của ông, giá xăng dầu cũng đã có cơ hội nhảy lên đến 6 lần.
Tất cả đều mở đường cho một chiến dịch tăng giá mới.

Thuyết tân ngụy biện

Trước đợt tăng giá xăng dầu vào cuối tháng 3/2013, dư luận và báo chí trong nước đã khắc khoải không ngớt về việc giá dầu thế giới giảm đến 5-7% nhưng giá xăng dầu Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ biểu lộ nào đáp ứng “quyết tâm” của Chính phủ.
Người ta hy vọng vào một đợt giảm giá mới, và hơn thế là giảm thật sự theo cam kết của Chính phủ chứ không phải nhỏ giọt như những lần trước đây trong thời gian họp Quốc hội.
Tuy nhiên quyết định tăng giá của liên Bộ tài chính - công thương đã làm cho người dân và cả giới chuyên gia kinh tế bàng hoàng.
Không những không giảm, giá xăng dầu Việt Nam còn làm nên một cột mốc lịch sử - điều hoàn toàn đáng tự hào nếu xét đến kết quả “tận thu”.
Nhưng cũng chính thái độ tận thu bất chấp như thế mà đã càng kích thích sự phản biện và kích động phản ứng của lớp người bị thu.
Theo phản biện của giới chuyên gia và báo chí ngay sau đợt tăng giá mới nhất, trong thời gian qua các đại lý xăng dầu đã được tăng hoa hồng gấp 3-4 lần những ngày trước, còn doanh nghiệp đầu mối vẫn được sử dụng quỹ bình ổn ở mức rất cao. Với mức bình ổn 2.000 đồng/lít của Bộ tài chính quy định, vào tháng 2/2013 doanh nghiệp xăng dầu đã có lãi 1.000 đồng/lít.
Còn với mức tăng giá 1.400 đồng/lít vừa qua, các doanh nghiệp đầu mối nghiễm nhiên lãi hơn 2.400 đồng/lít. Tương tự với giá dầu, doanh nghiệp cũng lãi khoảng 1.200-1.600 đồng/lít.
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, với giá bán lẻ xăng ở mức cao kỷ lục 24.500 đồng/lít, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu sẽ kiếm lãi hàng chục tỷ đồng mỗi ngày.
Về phần mình, Bộ tài chính lý giải việc phải tăng giá xăng là do quỹ bình ổn xăng dầu của doanh nghiệp hầu như đã hết, trong khi giá xăng dầu ở các nước có chung đường biên giới với Việt Nam như Lào, Campuchia, Trung Quốc lại rẻ hơn từ 2.000-5.000 đồng/lít, dẫn đến tình trạng buôn lậu xăng dầu diễn biến phức tạp.
Tuy nhiên, lý giải này có lẽ chỉ có tính tuyên giáo đối với những người dân ít cập nhật và phân tích thông tin. Nếu nói rằng để giảm buôn lậu, tại sao cơ quan quản lý không sử dụng các biện pháp khác nhằm ngăn chặn, mà lại đánh vào giá bán lẻ trực tiếp đến tay người tiêu dùng vốn đang rất khó khăn trong bối cảnh kinh tế đi xuống như hiện nay?
Hoặc nếu cho rằng quỹ bình ổn giá đang âm, tại sao Bộ tài chính không yêu cầu các doanh nghiệp ngừng trích quỹ mà lại cho tăng giá? Quỹ âm thì doanh nghiệp vẫn được treo lỗ và sẽ được bù đắp về sau, nhưng giá tăng là đánh thẳng vào túi tiền của người dân vốn đã gánh quá nhiều các khoản chi phí và thuế như hiện thời.
Nếu Bộ tài chính cho rằng giá xăng các nước láng giềng thấp hơn Việt Nam, vì sao cơ quan này lại không thể nói rõ rằng giá xăng nước láng giềng là theo cơ chế thị trường chứ không tính giá cơ sở 30 ngày như ở Việt Nam? Cơ chế điều hành của mỗi nước là khác nhau, không thể so sánh giá bán lẻ một cách đơn giản như thế rồi khẳng định đó là nguyên nhân gây ra tình trạng buôn lậu phức tạp…

Những cậu ấm hư hỏng

Với nguồn cơn từ những đợt tăng giá bất chấp vào năm 2011, Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) đã được đặt cho cái biệt danh khó chịu: ‘Cậu ấm hư hỏng’.
petrolimex-rfa-250.jpg
Một trạm bán xăng của Petrolimex tại Hà Nội hôm 26/3/2013. RFA photo
Giá trị cổ phiếu mất quá nhiều, đất nền và căn hộ lại quá khó để tiêu thụ, cả Petrolimex lẫn EVN đều nằm trong tình thế cám cảnh của nhiều doanh nghiệp nhà nước đầu tư trái ngành. Hậu quả này còn được đào sâu bởi khả năng quản trị đầu tư, quản trị tài chính hoàn toàn không tương xứng với quy mô đầu tư, chưa kể đến quan niệm quá đơn giản về độ rủi ro trong quá trình đầu tư mà đã khiến cho Petrolimex và EVN sa vào vũng lầy do chính họ tạo ra.
Thế nhưng tự thân nghịch lý vẫn có thể đẻ thêm nghịch lý. Trong những đề xuất và những cuộc vận động hành lang nhằm tăng giá xăng dầu và giá điện, Petrolimex và EVN đều cố gắng thuyết phục các cấp quản lý rằng chuyện tăng giá chỉ để phục vụ cho… bù lỗ!
Nhưng bất chấp việc Petrolimex thua lỗ đến 10.700 tỷ đồng trong năm 2008 từ những khoản đầu tư trái ngành vào chứng khoán, bất động sản và bảo hiểm, nghịch lý phát triển trong suy thoái ở Việt Nam vẫn diễn ra theo logic hết sức tự nhiên của nó. Đó là “âm mưu” thường trực về chuyện tăng giá xăng dầu đã luôn được những người đứng đầu Petrolimex âm thầm chuẩn bị và lại được lãnh đạo Bộ công thương cổ súy.
Trong nguyên năm 2012, Petrolimex đã không chịu thất bại với mục tiêu tiếp tục tăng giá. Cùng với tỷ lệ khoảng 0,3-0,4% - mức độ mà EVN đã “cống hiến” cho chỉ số lạm phát trong đợt tăng giá điện 5% vào cuối năm 2011, việc xăng dầu tăng giá càng giống như mảnh đất màu mỡ cho các loài cỏ dại nảy mầm.
Qua nhiều năm, giới kinh doanh trong nước đã đúc kết một bài học về “cỏ dại” là không có ngành nào mà doanh nghiệp lại kinh doanh an toàn như xăng dầu. Mỗi khi giá dầu thế giới tăng, doanh nghiệp lại được quyền xin tăng giá (trực tiếp qua Bộ tài chính hoặc gây sức ép bằng cách găm hàng, không bán…), hoặc được trích lập quỹ bình ổn. Còn khi giá giảm, doanh nghiệp có thể từ từ xin giảm giá hoặc chờ quyết định từ cơ quan quản lý.
Thậm chí những đại lý xăng dầu vi phạm về kinh doanh như ngưng bán xăng một cách phi lý, pha xăng kém chất lượng… cũng chỉ bị phạt hành chính từ vài đến vài chục triệu đồng, cùng lắm là bị tạm ngưng hoạt động vài tháng.
Trong khi đó, toàn bộ trách nhiệm của ban lãnh đạo Petrolimex từ hậu quả đầu tư trái ngành vẫn chưa hề được xử lý.
Đáng chú ý là trong những báo cáo kiểm tra, kiểm toán, giám sát từ nhiều cơ quan nhà nước và Quốc hội đối với doanh nghiệp này từ giữa năm 2011 cho đến nay, không ít kiến nghị đã không ít lần được nêu ra về tính hậu quả rất trầm trọng, trách nhiệm cá nhân và tập thể cần được nghiêm khắc xem xét…, nhưng không hiểu vì lý do nào, đến giờ tất cả vẫn lẩn kín sau một bức tường thẫm tối và mục nát.

Một sự im lặng cực kỳ đáng sợ

Người “hậu duệ” của ông Vương Đình Huệ là ông Vũ Văn Ninh - phó thủ tướng và cũng là nhân vật nắm quyền chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Bộ tài chính, còn lặng lẽ hơn cả ông Huệ.
Là nhân vật có thể mang quan điểm ôn hòa, song ông Ninh vẫn chứng tỏ là người biết hành động vào lúc cần thiết.
Một lần nữa trong khá nhiều lần, câu chuyện tăng giá xăng dầu ở Việt Nam lại xảy đến trước khi kỳ họp thường kỳ của Quốc hội được chính thức tiến hành vào tháng 5/2013. Những đại biểu từng nêu nghi vấn về động thái bất thường của chuyện “tiền trảm” như thế vẫn có thể chẳng bao giờ biết được nhóm lợi ích xăng dầu đã và sẽ quyết định hành động một cách “quyết liệt” vào thời điểm nào mang lại ích lợi nhóm nhiều nhất.
Còn Chính phủ đang nghĩ gì? Hoặc đang tính toán về một thỏa thuận nào?
Liệu hành động tăng giá xăng dầu đang được nhân danh sự “minh bạch” nhưng bất chấp cả nhân dân có làm tan vỡ “những cố gắng của toàn bộ Chính phủ” trong cuộc chiến chống lạm phát?
Liệu hành vi trên có khiến cho nhận thức của tuyệt đại đa số người dân càng bị xói mòn niềm tin vào những đảng viên - lãnh đạo doanh nghiệp và bộ ngành, điều mà trong Hội nghị trung ương 4 vào cuối tháng 12/2011, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải nói đi nói lại như một nguy cơ rất lớn đối với “sự tồn vong của chế độ”?
Thay thế cuộc chiến này bằng một cuộc chiến khác, phải chăng điều mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng bày tỏ mong muốn - cuộc chiến chống các nhóm lợi ích - đang có nguy cơ bị chính các nhóm đặc quyền đặc lợi này làm cho vô hiệu?
Một tiền lệ vô hiệu cũng đã vừa xảy ra vào tháng 2/2013 ở đất nước Hoa Hồng. Trước hành động tăng giá điện của hai nhà phân phối điện lực là Công ty CEZ và Evergo-Pro của Cộng hòa Czech và Công ty EVN của Áo, hàng chục ngàn người dân Bungaria đã đổ ra đường biểu tình. Cuộc biểu tình có nguy cơ biến thành một cuộc bạo động đẫm máu.
“Tôi sẽ không tham gia vào một chính phủ mà ở đó cảnh sát có quyền được đánh đập người dân. Chúng tôi cũng có danh dự và lòng tự trọng riêng của mình. Nhân dân đưa chúng tôi lên nắm quyền và chúng tôi sẽ trao trả lại quyền lực cho họ” - Thủ tướng Boiko Borisov khẳng định trước Quốc hội nước này.
Trước đó, ông đã sa thải bộ trưởng tài chính nhưng vẫn không xoa dịu được làn sóng phẫn uất từ người biểu tình.
Vào ngày 20/3/2013, chính phủ Bungaria đã quyết định từ chức.




Copy từ: RFA

Ông Trần Huỳnh Duy Thức không còn bị biệt giam

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-03-29
duythuc-305.jpg
Ông Trần Huỳnh Duy Thức, ảnh chụp trước đây
Photo courtesy of danchimviet
Nghe bài này

Ông Trần Văn Huỳnh, cha của ông Trần Huỳnh Duy Thức có chuyến thăm con tại trại giam Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, hôm Chủ nhật vừa rồi nói với chúng tôi:
“Trước đây là biệt giam, tức là ở một phòng một mình và như thế là một ngày được ra ngòai hai lần, mỗi lần nửa giờ. Nhưng vừa rồi chúng tôi cũng được biết là tình hình đã thay đổi.”
Về nguyên do của sự thay đổi này, ông Huỳnh nói tiếp, “là do phản ứng của các anh em tù chính trị, trong đó có Việt Khang và một bốn anh em khác, họ tuyệt thực để phản đối việc này.”
Ông Trần Huỳnh Duy Thức đã khuyên các bạn tù ngưng tuyệt thực và đã nói chuyện với các người có trách nhiệm của trại giam. Và Ông Trần văn Huỳnh nhận thấy trại giam đã không còn biệt giam con ông nữa:
“Có tất cả là sáu anh em được họ cho ở trong một vòng rào B40 chừng 100 mét vuông. Mỗi ngày được ra ngoài tám tiếng, được họat động trao đổi với nhau, tập thể dục, trồng cây hay giúp đỡ nhau nấu ăn.”
Ông Trần văn Huỳnh cho hay:
“Sức khỏe của Thức tương đối tốt, còn về tinh thần thì Thức lúc nào cũng vững tin về việc làm của mình.”
Khi được hỏi là với tư cách là người thân của người tù chính trị Trần Huỳnh Duy Thức, gia đình có gặp khó khăn gì từ phía chính quyền VN không, ông Huỳnh cho biết,
“Cho tới giờ này tôi không gặp áp lực nào cả từ phía an ninh của Thành phố hay của cấp trên nữa. Tôi cũng an tâm.”
Ông Trần Huỳnh Duy Thức tốt nghiệp khoa công nghệ thông tin Đại học Bách khoa TP HCM năm 1989, sau đó họat động doanh nghiệp rất thành công với công ty điện thọai internet OCI họat động sang cả các nước láng giềng. Năm 2005, Thức cùng Lê Thăng Long thành lập Nhóm nghiên cứu Chấn để nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam. Năm 2008 ông lập blog Trần Đông Chấn đưa những phản biện về chính trị cũng như đề nghị những cải cách cho Việt nam.
Năm 2009, ông bị chính quyền Việt Nam bắt giam với tội danh Trộm cước điện thọai, nhưng sau đó trong phiên tòa đầu năm 2010 ông cùng các đồng sự đã bị xử tội họat động lật đổ chính quyền, một bản án bị nhiều người chỉ trích. Trong những người bị lãnh án, ông Thức chịu mức án nặng nhất là 16 năm.
Ông Lê Thăng Long, một đồng sự của Thức, đựơc trả tự do sớm và hiện đang thúc đẩy một phong trào trong nước mang tên là Con đường Việt Nam nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Ông Long cho biết suy nghĩ của ông Thức về diễn biến hiện tại của xã hội VN:
“Dù vẫn là truyền thông một chiều nhưng những vấn đề cấm kỵ bây giờ đã được nêu ra và làm cho nhân dân quan tâm hơn. Như vấn đề điều 4, không công nhận độc quyền cai trị của đảng cộng sản trong Hiến Pháp, trước đây mà nói thì bị bỏ tù ngay, ngay nó được nói công khai. Điều thứ hai mà anh Thức nói là những ai mà coi thường tiếng nói của người dân thì sẽ trả giá đắt.”
Được biết trong nhóm 4 người bị xử tù trong phiên tòa đầu năm 2010 còn hai người còn bị giam là ông Trần Huỳnh Duy Thức và thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung hiện ở trại giam Phan Đăng Lưu TP HCM. Luật sư Lê Công Định được trả tự do hồi ngày 6/2 vừa qua, sau hơn ba năm thụ bản án 5 năm tù giam đối với ông về những họat động mà chính quyền Việt nam cho là “họat động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.”




Copy từ: RFA

'Mỹ không muốn thấy Trung Quốc ỷ lớn ăn hiếp bé'

Tàu chiến Trung Quốc bắn tên lửa trong một cuộc tập trận tại Biển Đông.
Tàu chiến Trung Quốc bắn tên lửa trong một cuộc tập trận tại Biển Đông.
Về những diễn biến đáng lo ngại hồi gần đây tại Biển Đông, Tiến sĩ Charles Morrisson, Chủ tịch Hội Đông-Tây, một viện nghiên cứu chính sách tại Châu Á- Thái Bình Dương, nói rằng Hoa Kỳ không muốn tranh chấp được giải quyết bằng vũ lực hay thái độ 'ỷ lớn hiếp bé'. Trao đổi với Ban Việt Ngữ VOA, Tiến sĩ Morrisson cho biết:

“Chúng ta không muốn chứng kiến các cuộc tranh chấp đó được giải quyết bằng vũ lực hay thái độ hiếp đáp. Hoa Kỳ đã nêu lên rất rõ các lợi ích của mình trong khu vực, về mặt tự do hàng hải và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình dựa trên những tiến trình theo đó các vấn đề như thế này được giải quyết bằng các cuộc tham khảo ý kiến và những tiến trình đa phương, thay vì nước lớn ỷ thế hiếp đáp nước nhỏ.”

VOA: Ông ám chỉ Trung Quốc là nước lớn hiếp đáp nước bé?

Tiến sĩ Morrisson:“Cách cư xử của Trung Quốc có thể làm nhiều nước khác nghĩ như thế. Và quả là tôi có ý ám chỉ rằng một số khía cạnh trong cách cư xử của Trung Quốc có những đặc tính đó. Đấy không phải là cách để đạt một giải pháp hòa bình cho các vấn đề.”

VOA: Ông có nghĩ vấn đề Biển Đông có thể được giải quyết một cách hòa bình tại thời điểm này?

Tiến sĩ Morrison: “Thật là khó nói! Tất cả mọi người phải đồng ý về điểm đó trước đã. Thách thức tại đây là làm thế nào để tất cả mọi người đều đồng ý, rồi có một tiến trình theo đó những vấn đề xảy đến sẽ được xử lý theo một đường lối không làm căng thẳng leo thang hơn nữa.”

Tiến sĩ Charles Morrisson hiện là Chủ tịch Hội Đông-Tây, một trong những viện nghiên cứu chính sách lớn nhất khu vực Châu Á-Thái bình dương. Ông bảo vệ luận án Tiến sĩ về quan hệ quốc tế tại Đại học John Hopkins.



Copy từ: VOA

  Đọc thêm:

- Trung Quốc lên giọng đe dọa về Biển Đông (TP). - Đồng Chuông Tử: TQ bắn cháy tàu VN 'là chuyện tất yếu' (BBC). Có thể nói để đến sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực trầm trọng như vậy, lỗi lớn là ở cách hành xử của lãnh đạo Việt Nam. Nhân nhượng và chiều chuộng Trung Quốc một cách thái quá. Trong khi lại chà đạp và xúc phạm lên tiếng nói, hành động của người dân lương thiện yêu nước chính đáng”. -  Trung Quốc: Dàn đồng ca trơ trẽn chối tội bắn tàu cá Việt Nam (Infonet). - AI MẠNH THÌ ĐƯỢC (DĐCN).  - Song Chi: Đương đầu với TQ-khó và dễ (RFA blog).

- Bước leo thang nguy hiểm của Bắc Kinh (SGTT).   - Trung Quốc "ngày càng coi thường láng giềng" (NLĐ).  - Trung Quốc nghiên cứu chiến lược ’không thỏa hiệp ở biển Đông’ (PN Today). - Trung Quốc khẳng định quân đội sẽ hậu thuẫn mạnh mẽ trên Biển Đông (PT).  - Tàu lặn sâu nhất Trung Quốc khảo sát Biển Đông (VTC).  - Trung Quốc sẽ tập trận chung với ASEAN (PT).

 

Hackers Trung Quốc và an ninh thông tin mạng Việt Nam


RFA

Vũ Hoàng, phóng viên RFA

29-03-2013

Chỉ sau một thời gian ngắn sau vụ việc đơn vị 61398 được cho là thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) bị cáo buộc là hacker tấn công một loạt những tờ báo lớn của Hoa Kỳ, thì mới đây, Phó cục trưởng Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao của Việt Nam, Trần Văn Hòa cũng trở thành đối tượng tấn công có chủ ý của hacker Trung Quốc. Câu chuyện hackers nước ngoài đối với an ninh mạng  nội địa ra sao, tổng hợp thông tin, Vũ Hoàng có bài trình bày sau đây.

Tấn công có chủ ý

Không phải ngẫu nhiên ngay sau khi phóng viên của tờ New York Times, một tờ báo uy tín hàng đầu của Hoa Kỳ có phóng sự điều tra về số tài sản kếch sù của ông Ôn Gia Bảo lên tới 2,7 tỷ đô la sau 10 năm làm Thủ tướng, tờ báo này ngay lập tức bị các tay hacker thuộc đơn vị 61398 của Trung Quốc tấn công. Vụ việc làm dấy lên những cuộc tranh luận nảy lửa về vai trò của quân đội Trung Quốc đứng đằng sau những cuộc tấn công mạng có chủ đích mang tính thù nghịch vào Hoa Kỳ.

Còn tại Việt Nam, hôm 26/3, đại tá Trần Văn Hòa, Phó cục trưởng Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, vừa lên tiếng chính ông cũng là nạn nhân của những cuộc tấn công mạng thông qua một email có đính kèm file mã độc được gửi đi từ một máy chủ đặt tại Trung Quốc. Điều đáng nói ở đây chính đại tá Trần Văn Hòa được xem là giới chức an ninh đại diện của Việt Nam chịu trách nhiệm trước những vụ việc các hackers nước ngoài nhắm tới Việt Nam.

Cả hai trường hợp xảy ra tại Hoa Kỳ và Việt Nam, mặc dù quy mô lớn nhỏ khác nhau, nhưng dường như các hành động đó là những “đòn phủ đầu” mà các tay hacker Trung Quốc muốn cho thấy khả năng tấn công nguy hiểm vào các quốc gia khác, nhắm thẳng vào những đối tượng có thế lực của nước sở tại.

Vụ việc tấn công mạng vào Việt Nam cho thấy phía Trung Quốc không chỉ có chủ ý gây hấn trên những vùng biển đảo địa lý thực tế, mà họ còn đang châm ngòi cho những cuộc chiến tranh trên mạng ảo đã bắt đầu âm ỉ từ khá lâu. Điều này khiến chúng ta nhớ lại cách đây chừng 2 năm, khi hàng trăm các website bộ ngành của Việt Nam với tên miền .gov.vn bị phía Trung Quốc hack và tấn công, họ để lại những thông điệp bằng tiếng Trung và hình ảnh cũng như cờ của Hoa Lục sau khi một website của Chính phủ Trung Quốc bị phía Việt Nam hack.

Mặc dù, cho đến thời điểm này, chưa có bất kỳ một phản hồi nào từ phía Trung Quốc trước vụ việc máy tính của đại tá Trần Văn Hòa bị xâm nhập, nhưng câu chuyện đang được dư luận dành nhiều quan tâm. Chúng tôi đặt câu hỏi cho ông David Brown, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã từng làm việc nhiều năm ở Việt Nam, có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực an ninh mạng, về suy nghĩ gì của ông trước hành động tấn công mạng của Trung Quốc, ông David Brown cho biết:

“Hầu hết mọi quốc gia lớn đáng kể đều có những tổ chức an ninh mạng, giống như Cục an ninh C15 của Việt Nam, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công An.  Mặc dù những tổ chức này không hoàn toàn ngăn chặn được các hacker truy cập vào những bí mật, nhưng ít nhất họ có thể chặn đứng nhiều nỗ lực tấn công của các hacker này.

Trường hợp máy tính của đại tá Trần Văn Hòa, phó Giám đốc của Cục an ninh 15 bị hack mặc dù chưa cho thấy rõ là việc các hacker cố gắng lấy cắp các tài liệu Nhà nước là tội phạm hay không, hay hacker là từ Trung Quốc hay một quốc gia nào khác hay không. Nhưng rõ ràng vụ việc này cho thấy công an Việt Nam đã cảnh giác trước những cuộc tấn công như vậy.”

Theo thống kê của BKAV, trong năm 2011, hơn 64 triệu máy tính tại Việt Nam bị nhiễm virus, trong đó có hơn 2.000 website của các cơ quan, doanh nghiệp bị tấn công và con số các website bị tấn công này trong năm 2012 cũng gần như không giảm. Việt Nam được xếp vào nhóm 10 nước phát tán thư rác nhiều nhất thế giới trong năm vừa qua. Mặc dù, chưa có số liệu thống kê chính thức trong những năm gần đây, nhưng BKAV cho biết, tổng thiệt hại do virus gây ra trong năm 2008 là 30,000 tỷ đồng tăng gấp 10 lần so với năm 2007.

Để hiểu về cơ chế hoạt động của loại virus backdoor, chúng tôi trao đổi với thạc sỹ Lê Minh Tú, giáo viên giảng dạy tin học tại Hà Nội và được ông cho biết:

“Virus backdoor là những virus được đính kèm dạng file văn bản trong email, thường những những file văn bản vẫn được cho là an toàn, khi người nhận email, mở file và sẽ bị nhiễm virus dạng gián điệp. Virus này khai thác những lỗ hổng của các phần mềm như Word, Excel, khi đã nằm trong máy tính chủ, virus sẽ âm thầm kiểm soát máy tính nạn nhân, mở cổng hậu (nên ta gọi là backdoor) để cho phép hacker có thể điều khiển từ xa, và từ đó chúng ăn cắp mọi dữ liệu trong máy tính nạn nhân. Dưới góc độ an ninh thông tin, những hacker ăn cắp thông tin kiểu này khác với các loại hacker tấn công có chủ ý nhằm đánh sập các trang web khác.”

“Vũ khí hủy diệt hàng loạt”

Khi đề cập đến an ninh mạng với hình thức đánh sập các trang web hay blog, chắc hẳn phần nhiều trong quý vị còn nhớ vụ blog Anh Ba Sam, một trang blog được đánh giá là “lề trái” nổi tiếng về những bài bình luận được nhiều giới học giả quan tâm về các vấn đề thời cuộc mới bị tấn công và hiện vẫn chưa thể khôi phục. Trên đó, có nhiều bài của ông David Brown viết cho một số tờ báo trong khu vực cũng được dịch sang tiếng Việt. Mỗi ngày blog Anh Ba Sam có đến hơn 100.000 lượt người đọc. Ông David Brown cho biết:

“Các phần mềm tinh vi dùng để tấn công máy tính ngày càng có sẵn cho mọi đối tượng có tiền để mua, mặc dù những người này là các nhân viên an ninh, gián điệp hay thậm chí là tội phạm. Thông thường, các phần mềm này sẽ tìm điểm yếu trong hệ thống máy tính bị tấn công và cấy virus vào đó. Đôi khi, virus được sử dụng để khống chế hệ thống máy tính bị tấn công, đó giống như trường hợp blog Anh Ba Sam bị hack.

Thật đáng buồn, giờ đây chính những vũ khí điện tử tinh vi đó lại được nhắm đến các phương tiện truyền thông. Blog ABS là một thí dụ. Từ nhiều năm nay, đội ngũ cộng tác viên của ABS đã rất chuyên nghiệp trong việc truyền tải thông tin đến các độc giả cả trong và ngoài nước về nhiều vấn đề được xã hội quan tâm.

Thế nhưng, hình như vẫn có những người không thích ABS. Vào hôm 8/3, trang blog này đã bị tấn công một cách rất chuyên nghiệp bởi…. à, chúng ta vẫn không biết nó bị ai tấn công. Tuy nhiên, họ đã sử dụng công nghệ hiện đại. Những kẻ tấn công đã kiểm soát blog ABS, lấy cắp các tài liệu nhân thân của nhân viên phụ trách, trong khi đội ngũ kỹ thuật của blog ABS đã không thể chiếm lại  trong suốt gần 2 tuần. Trong thời gian đó, các kẻ tấn công đã xóa sạch mọi files trên máy tính chủ của ABS và cho đăng tải những hình ảnh thô bỉ về đời tư của một biên tập viên blog ABS.”

Ngoài ra, ông David Brown còn cho biết điều làm ông lo lắng nhất, đây là lần đầu tiên, một loại “vũ khí hủy diệt hàng loạt” công nghệ điện tử được sử dụng để chống lại một blog Việt Nam. Điều này hẳn là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho tất cả những người viết blog tại Việt Nam cần thận trọng hơn nữa.

Có thể thấy vai trò của an ninh mạng ngày càng trở nên quan trọng, kể cả doanh nghiệp lẫn chính phủ Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành nạn nhân của những tay hacker nước ngoài, nếu Việt Nam không có đầu tư đúng hướng vào lực lượng nhân sự này thì những trường hợp bị tấn công từ Trung Quốc hay từ chính những hacker trong nước vẫn sẽ là điều chắc chắn xảy ra.

Nguồn: RFA
 
 


Copy từ: Anh Ba Sàm

Thế... không vệ sinh thì sao?

 

Chẳng nhẽ độc quyền cả nói dối hay sao?


Hoàng Xuân Phú

27-03-2013

Chúng ta đang chứng kiến các cuộc tấn công vào Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và những người ghi tên ủng hộ. Chương trình thời sự ngày 20/3/2013 của VTV là một ví dụ điển hình. Nó công bố kết quả “điều tra sự thật” ở Thái Bình và Hà Tĩnh. Ngay trong câu mở đầu, người xem đã có thể nhận ra thái độ của VTV đối với bản kiến nghị đó:

Thưa quý vị và các bạn, thời gian gần đây, trên một số trang mạng đã xuất hiện cái gọi là Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do một nhóm người soạn thảo và sau đó bản kiến nghị này được cho là đã có nhiều người ký tên ủng hộ, trong đó đông nhất là ở Hà Tĩnh và Thái Bình.”

Nếu phỏng theo phong thái của VTV thì có thể mở đầu bài đáp lễ như sau:

Thưa “cái gọi là” VTV, “cái gọi là Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992″ không chỉ “xuất hiện” “trên một số trang mạng”, mà đã được một đoàn đại diện gồm 15 người (không đến nỗi vô danh) chính thức trao cho ông Lê Minh Thông, là Phó Chủ tịch Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và Phó Trưởng Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, vào sáng ngày 4/2/2013 tại Văn phòng Quốc hội, 37 Hùng Vương, quận Ba Đình, Hà Nội. Đó là một hoạt động công khai, với tinh thần xây dựng và trách nhiệm cao, hưởng ứng đợt lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đang được tổ chức trên toàn quốc. Sự kiện trao kiến nghị ấy đã được dư luận rất quan tâm và được báo chí “chính thống” đưa tin, ví dụ như báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh và báo Dân trí. Đặc biệt, báo Người lao động đã tường thuật với tiêu đề trang trọng: Cơ hội tạo sức mạnh dân tộc. VTV không thể không biết sự kiện ấy, và lẽ ra phải đưa tin để “phản ảnh kịp thời ý kiến đóng góp của nhân dân”, như đã viết trong Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Thế nhưng, cái “được cho là” “đài truyền hình quốc gia” và mang tên là Đài Truyền hình Việt Nam lại tỏ ra không hay biết, khi đó thì không hề đưa tin, và nay lại nhắc đến một cách miệt thị.

Vâng, ta có thể tiếp tục phong thái mỉa mai của VTV cho đến cuối bài. Nhưng thôi, xin chuyển sang lối viết thuần túy xây dựng, với hy vọng giúp họ nhận ra hạn chế của mình mà rút kinh nghiệm, rồi cố gắng học thêm để trưởng thành, xứng đáng với những đồng tiền thuế thấm đẫm mồ hôi và nước mắt của nhân dân, phải bỏ ra nuôi họ và chi phí cho họ hành nghề. Tất nhiên, phải giả thiết rằng họ thực sự cầu thị và thành tâm muốn học hỏi. Còn nếu ai đó đinh ninh rằng mình đã giỏi và hiểu biết hơn người, thì sự tệ hại của tác phẩm chắc hẳn bám rễ sâu trong tâm hồn tác giả, khi đó khó lòng mà lay chuyển nổi. 

Sau đây tôi sẽ dùng đại từ “chư vị” để trao đổi với những ai tham gia tấn công Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992và những người ghi tên ủng hộ, hay tham gia những chiến dịch tương tự để cản trở tiến trình dân chủ hóa xã hội tại Việt Nam. Tức là không chỉ trao đổi riêng với các vị đã làm chương trình thời sự 20/3/2013 của VTV, cũng không chỉ trao đối với các vị ở tầm biên tập viên hay phóng viên, mà với cả các cấp lãnh đạo của họ. 

1.  Trước hết, đề nghị chư vị hãy bỏ chút thời gian xem lại nhiều lần đoạn video lưu trữ chương trình thời sự 20/3/2013 của VTV. Hãy nghe thật kỹ ý kiến của cả 5 vị, được VTV lựa chọn để đại diện cho nhân dân Thái Bình. Đó là các ông Nguyễn Văn Luân (Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thái Bình), Vũ Ngọc Ngoạn (phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình), Quách Thước (phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình), Vũ Đình Trích (giáo dân xã Đông Minh, huyện Tiền Hải) và Nguyễn Văn Chính (Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc huyện Tiền Hải). Chư vị có thấy một bằng chứng bất kỳ nào được họ chưng ra hay không? Hoàn toàn không! Hết thảy 5 ông, cả quan lẫn dân, đều chỉ phát biểu cảm tưởng về một vụ việc mà họ không hề tham dự và không hề trực tiếp chứng kiến. Ví dụ như ông Vũ Đình Trích thì hùng biện thế này:

“Có bao nhiêu những người ở Nghệ An, khi hỏi đến họ thì họ không biết gì cả, thế mà họ lại có tên trong cái bản là là là xin là đa nguyên đa đảng. Như vậy đến khi hỏi đến họ thì họ không có biết gì cả, vì đấy là một số người bịa ra chứ không phải là là nhân dân Thái Bình, gần 2 triệu nhân dân Thái Bình không bao giờ như vậy. Đấy chỉ là một nhóm người bịa ra thôi".

Hẳn cộng tác viên của VTV phải có tài đi mây về gió như Tôn Hành Giả. Vừa say sưa vãn cảnh ở Nghệ An, vèo một cái đã lượn trên bầu trời Thái Bình để bao quát tình hình toàn tỉnh. Ông Trích túm lấy cái thông tin đã nghe được (có lẽ từ thời sự VTV) về xứ Nghệ An xa xôi làm bằng chứng, để suy diễn ra tình hình ở tỉnh Thái Bình, nơi mà chính ông đang sinh sống. Và thế là đã đủ cơ sở thực tiễn để vị giáo dân xã Đông Minh hùng hồn kết luận về toàn bộ nhân dân tỉnh Thái Bình: … đấy là một số người bịa ra chứ không phải là là nhân dân Thái Bình, gần 2 triệu nhân dân Thái Bình không bao giờ như vậy. Đấy chỉ là một nhóm người bịa ra thôi. 

Vâng, cả biên tập viên Quang Minh lẫn 5 “nhân chứng” đều không hề đưa ra được một bằng chứng nào cả!!! Bằng chứng thuyết phục không có đã đành, bằng chứng ngụy tạo ngờ nghệch cũng không có nốt! Vậy mà VTV lại dõng dạc tuyên bố như sau:

Cách đây nửa tháng theo điều tra độc lập của báo Đại đoàn kết và tiếp đó là Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Tĩnh thì hầu hết là người nông dân và hơn 100 sinh viên Đại học Hà Tĩnh ký vào cái gọi là Bản kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đều là tên giả và không có địa chỉ. Cách đây 2 ngày phóng viên của Đài truyền hình Việt Nam đã về Thái Bình để tìm hiểu về sự việc này và đã phát hiện ra những bằng chứng về sự ngụy tạo này.”

Trích đoạn trên không chỉ thể hiện cách hiểu kỳ quặc của VTV về cái gọi là “bằng chứng“, mà còn phản ánh cả phương pháp tác nghiệp của VTV khi tìm kiếm “bằng chứng”: Để chứng minh rằng hầu hết những người nông dân và sinh viên ở Hà Tĩnh ký vào bản kiến nghị “đều là tên giả và không có địa chỉ”, VTV không cử phóng viên về Hà Tĩnh, mà lại “về Thái Bình để tìm hiểu về sự việc này”. Qua đó ta thấy, không chỉ biên tập viên Quang Minh, mà cả những người lãnh đạo ông ta cũng chia sẻ tư duy ở tầm ông nông dân Vũ Đình Trích. Chỉ sáng tạo ngược chiều thôi: Ông Trích thì dùng thông tin nghe được từ phía nam (Nghệ An) để kết luận về tình hình phía bắc (Thái Bình), còn chư vị thì ngược lại, đến phía bắc (Thái Bình) để “tìm hiểu” tình hình phía nam (Hà Tĩnh). 

Để bổ sung “bằng chứng“, VTV phỏng vấn thêm ông Từ Văn Thiện, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, và ông này cũng lập luận tương tự:

Tìm hiểu 12 người mà các trang mạng cho là công chức của ngành y tế Hà Tĩnh thì trong đó chỉ có 2 trong 12 người là thuộc công chức của ngành y tế Hà Tĩnh, còn 10 người là không có địa chỉ cụ thể và cũng không phải là công chức của ngành y tế Hà Tĩnh… Tìm hiểu 13 người trong số ngành công chức giáo dục mà các trang mạng cho là công chức giáo dục Hà Tĩnh thì hầu hết là trùng tên và một tên như vậy có thể trùng với hàng trăm, hàng nghìn người trong ngành, không có địa chỉ cụ thểQua những vấn đề đó thì chúng tôi kết luận việc các trang mạng đưa danh sách những người dân Hà Tĩnh ký vào cái kiến nghị tập thể thì đều là giả mạo và ngụy tạo…”

Nghĩa là: Chỉ mới điều tra 12 cái tên thuộc ngành y tế và 13 cái tên thuộc ngành giáo dục, trong hoàn cảnh “hầu hết là trùng tên và một tên như vậy có thể trùng với hàng trăm, hàng nghìn người” và “không có địa chỉ cụ thể”, thế mà họ đã thấy có đủ cơ sở vững chắc để “kết luận” là “trên dưới 1300 người gồm đầy đủ các thành phần, trong đó những người làm ruộng và nông dân chiếm số đông trên 70%”có tên trong ”danh sách những người dân Hà Tĩnh ký vào cái kiến nghị tập thể thì đều là giả mạo và ngụy tạo”. 

Những cái tên thông thường, thậm chí là “tên giả”, và “không có địa chỉ”, chỉ biết là ở tỉnh Thái Bình (có khoảng 1,8 triệu người) và tỉnh Hà Tĩnh (có khoảng 1,2 triệu người). Vậy mà sau một thời gian cực ngắn chư vị đã tìm ra được đương sự, hoặc ít nhất cũng tìm ra địa chỉ, bởi lẽ nếu không tìm được thì không thể biết đó là “tên giả”. Vở hài kịch này được thiết kế bởi tầm tư duy nào và cho tầm tư duy nào vậy? 

Quả thật, không biết chọn từ gì lịch sự hơn là “thảm hại” để chỉ lối tư duy và tác nghiệp đã được chư vị phô diễn. Điều còn phân vân là nguyên nhân: Không hiểu do trình độ quá thấp, nên chư vị không thể tự nhận ra sự ngờ nghệch của bản thân và đồng nghiệp, hay vì chư vị quá coi thường nhân dân, cho rằng chúng tôi ngu ngốc đến mức không thể phân biệt đúng – sai, nên chư vị nói gì cũng tin nấy?

Cứ coi như vì quá căm thù những người ủng hộ Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nên chư vị mới dựng chuyện để bôi nhọ họ. Nhưng những khán giả truyền hình và bạn đọc chất phác thì tội tình gì, có hiềm khích gì với chư vị, mà lại nỡ lừa họ một cách sống sượng như vậy?

2.  Chư vị khó chịu về việc nhiều tên xuất hiện trong danh sách “không có địa chỉ” cụ thể và coi đó là “bằng chứng về sự ngụy tạo”. Điều gì sẽ xảy ra với những người dân đen “thấp cổ bé họng”, nếu họ khai rõ ràng địa chỉ của mình khi bày tỏ sự ủng hộ đối với một kiến nghị mà nhà cầm quyền rất ghét? Liệu sau đó họ có thể sống yên ổn hay không? Câu trả lời thì ai ai cũng rõ, và chư vị còn biết rõ hơn. Vậy thì tại sao lại đòi hỏi người dân, khi thể hiện chính kiến bất đồng, phải khai đầy đủ địa chỉ của mình? Phải chăng cái lô-gíc của chư vị là thế này: Nếu ngươi không dám công khai địa chỉ ra để cho ta… hành hạ, thì ngươi là đồ hèn.

Đòi hỏi người dân như vậy, nhưng chính các tác giả của trước tác mang tên Sự thật đằng sau bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp trên một số trang mạng: Sự ngụy tạo có chủ đích, đăng trên báo Đại đoàn kết ngày 9/3/2013, lại không dám khai ra tên thật hay bút danh quen thuộc của mình, mà dấu mặt sau cái tít “Nhóm phóng viên Thời sự – Chính trị”. Các nhà báo ấy phụng sự chính quyền và được chính quyền bảo vệ, mà còn phải nặc danh. Vậy thì, so với những người dân trần trụi trong chế độ chuyên chính, luôn đứng trước nguy cơ bị trả thù, ai hèn hơn ai? 

Đừng vội khẳng định rằng nếu người ghi tên ủng hộ kiến nghị không ghi rõ địa chỉ thì không thể chấp nhận được, vì như vậy cũng giống như phủ định giá trị của tác phẩm khi tác giả không công khai địa chỉ. Cuốn tiểu sử nổi tiếng “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” là một ví dụ điển hình. Cuốn sách ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh này là tác phẩm duy nhất mang tên tác giả Trần Dân Tiên, và ông ấy không hề để lại tung tích. Có ý kiến cho rằng Trần Dân Tiên là một bút danh của Hồ Chí Minh, nhưng yếu tố phủ định có thể tìm thấy trong câu sau đây của cuốn tiểu sử:

“Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của Người được?”

Khi dựa trên tiên đề về tính khiêm tốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta thấy ông không thể tự ca ngợi mình là “khiêm tốn nhường ấy”. Từ đó suy ra: Trần Dân Tiên không phải là Hồ Chí Minh. Sự vô danh tính của tác giả Trần Dân Tiên không hề cản trở lòng ngưỡng mộ của hàng triệu người đối với tác phẩm, và nó đã được chế độ này trân trọng tái bản rất nhiều lần trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. 

Là những người làm việc trong guồng máy tuyên giáo của ĐCSVN, chắc hẳn chư vị không thể phủ định giá trị của tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, chỉ vì tác giả của nó không để lại địa chỉ. Vậy thì tại sao chư vị lại nỡ phủ định giá trị của các ý kiến ủng hộ Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992″, chỉ vì đương sự không công khai địa chỉ, giống như Trần Dân Tiên?

3.  Chư vị rất khó chịu về việc xuất hiện “tên giả”, và sử dụng điều đó để phủ định giá trị, không chỉ của mấy biểu quyết kèm theo “tên giả”, mà của toàn bộ danh sách ủng hộ Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Từ từ đã! Hãy nghĩ xem, ai là những bậc thầy trong việc sử dụng “tên giả”? Đó chính là các bậc tiền bối của ĐCSVN! Trong thời gian hoạt động bí mật, họ luôn luôn sử dụng bí danh và liên tục thay đổi bí danh. Và “bí danh” chẳng qua là cách gọi lịch sự của “tên giả” mà thôi!

Ai là người có nhiều bí danh nhất? Vâng, chính là nhà cách mạng nổi tiếng có tên thật là Nguyễn Sinh Cung, tự là Tất Thành. Ông đã sử dụng rất nhiều bí danh: Văn Ba (1911), Nguyễn Ái Quốc (1919), Lý Thụy (1924), Lin (1924), Thầu Chín (1928), Tống Văn Sơ (1931), Hồ Quang (1938), Già Thu (1941), Hồ Chí Minh (1942)… Không chỉ trong thời kỳ hoạt động bí mật, mà ngay cả khi đã làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nghĩa là khi không còn lo bị địch bắt), ông vẫn tiếp tục sử dụng thêm nhiều bí danh, bút danh mới. Bao năm nay kêu gọi nhân dân “học tập và làm theo”, thì bây giờ có người “học tập và làm theo” việc sử dụng bí danh, sao chư vị lại bôi nhọ người ta? 

Hãy hình dung ra hoàn cảnh chư vị đang diễn thuyết tại một diễn đàn lớn, với sự tham gia của hàng trăm, hay cả nghìn người xa lạ. Để biết có khoảng bao nhiêu phần trăm cử tọa chia sẻ quan điểm với mình, chư vị đề nghị ai tán thành thì giơ tay lên. Hiển nhiên là không thể yêu cầu hàng trăm người giơ tay phải xưng tên và địa chỉ, một mặt vì không có đủ thời gian, mặt khác thì thông tin đó không hề quan trọng. Nếu chư vị tò mò về một gương mặt siêu xinh và hỏi tên cô gái đó, nhưng cô ta ngượng nghịu trước đám đông, không dám khai tên thật là Nguyễn Thị Nở, mà bịa ra cái tên giả là Nguyễn Hồng Sen, thì chư vị có tìm cách điều tra để xác định đúng hay sai, rồi kiên quyết loại bỏ giá trị biểu quyết của cô Nở, chỉ vì khai tên giả, hay không?

Giả sử có người khai tên giả để lĩnh thêm vài suất tài trợ thì đi một nhẽ. Đằng này, trong hoàn cảnh nguy hiểm không kém thời các bậc cách mạng tiền bối hoạt động bí mật, nếu ai đó sử dụng bí danh, không vì vụ lợi, mà chỉ nhằm nói lên một sự thật giản đơn, là có thêm một người ủng hộ Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thì có gì là xấu xa?

Những ý kiến ở trên chắc cũng đủ gợi ý chư vị suy nghĩ lại, để nhận ra những sơ hở trong mạch tư duy và lý luận của mình. Song điều đáng băn khoăn hơn cả không phải là sự thiếu hiểu biết, mà là tâm lý và động cơ sâu xa ẩn khuất sau hành động của chư vị, mà tôi sẽ trình bày trong hai phần còn lại. 

4.  Khi chương trình thời sự ngày 20/3/2013 của VTV phát sóng thì Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 có chưa đến 10.400 người, nghĩa là chỉ chiếm khoảng 0,01% (một phần vạn) dân số Việt Nam. 0,01% là một tỷ lệ rất rất nhỏ. Dù có nhân lên 100 lần thì cũng mới chỉ là 1%, vẫn còn rất nhỏ. Trong một đất nước văn minh, nếu bỏ phiếu về một vấn đề gì đó mà chỉ có 10% phản đối thì đã được coi là thành công rực rỡ. Còn nếu chỉ có 1% phản đối thì đã là chuyện… “không tưởng”. Ở chế độ này, khi mới chỉ có 0,01% dân số thể hiện chính kiến khác, thì chư vị đã cuống lên, phản ứng quá hoảng loạn, mất cả khôn. Điều đó nói lên cái gì?

Phải chăng chư vị không thể chấp nhận được việc có 0,01% dân số nghĩ khác mình?

Phải chăng đó chính là biểu hiện của sự độc quyền tuyệt đối về tư tưởng?

5.  Chương trình thời sự ngày 20/3/2013 của VTV đã gán cho việc ghi tên ủng hộ Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 một loạt động từ xấu xa: “ngụy tạo”, “mạo danh”, “bịa ra”, “giả mạo”. Để cho gọn, xin gói chung chúng trong một động từ đơn giản là “nói dối”.

Thật ra, nếu có điều gì không chính xác trong danh sách những người ủng hộ “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992thì cũng là lẽ thường tình. Không thể loại trừ những trường hợp cố tình khai báo sai, do kẻ xấu chủ động tạo ra để lấy cớ bôi nhọ, hay những kẻ nghịch ngợm bày trò để tiêu khiển. 

Những người đứng ra giúp tổng hợp chữ ký không thể điều tra,không thể xác minh, để đảm bảo tính chính xác của tên người và địa chỉ. Một mặt, họ không có đủ nhân lực, thời gian và tiền bạc. Mặt khác, nếu họ về các địa phương để xác minh thì sẽ bị chính quyền quy cho tội đi kích động nhân dân chống phá chế độ… Có người đề xuất là chỉ chấp nhận đăng ký của những người ghi đầy đủ địa chỉ. Điều đó không giúp ích được gì, vì cũng không thể đi xác minh xem tên và địa chỉ là đúng hay sai. Ngược lại sẽ có hại, vì những người sợ bị trả thù sẽ không giám ghi tên nữa, và những kẻ cố tình phá hoại có thể chủ động sinh ra tên sai tại địa chỉ có thật, để dễ bề “xác minh” và tố cáo. 

Cho nên, nếu VTV, hay báo Đại đoàn kết, hay bất cứ cơ quan nào trong guồng máy tuyên truyền khổng lồ, phát hiện ra thông tin không chính xác trong Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992, thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Buồn một nỗi, chưa tìm ra bằng chứng cụ thể nào, mà vẫn dõng dạc tuyên bố là “đã phát hiện ra những bằng chứng về sự ngụy tạo”. 

Lẽ ra, đã tiêu tốn tiền thuế của nhân dân cho chuyến công vụ điều tra, thì cũng phải chịu khó làm được chút gì đó. Đằng này lại lười, muốn thanh toán công tác phí nhưng lại ngại đổ mồ hôi, đến ngụy tạo ra “bằng chứng về sự ngụy tạo” cũng không làm nổi. Trong dân gian thường có câu “ăn gian – nói dối”, còn làm ăn như chư vị thì là “đến nói dối cũng còn ăn gian”.

Cứ tạm coi nghi ngờ của chư vị về hiện tượng “nói dối” trong Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 là có cơ sở đi. Nhưng điều đó có đáng để chư vị phải tức tốc đi điều tra hay không? “Nói dối” có phải là chuyện xa lạ và tệ hại đến mức chư vị phải tổ chức chiến dịch lên án hay không? 

Có thể dễ dàng trả lời câu hỏi vừa rồi, nếu chư vị chịu khó ôn lại một số sự kiện lịch sử. Ví dụ: Việc Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán” ngày 11-11-1945, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật và vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo chính quyền; việc tuyên bố ngừng bắn để nhân dân yên ổn ăn tết Mậu Thân 1968, nhưng đồng thời lại tổ chức tấn công đồng loạt trên toàn miền Nam; việc công bố ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là 3/9/1969 (muộn đi môt ngày so với thực tế)… Có rất nhiều dẫn chứng lịch sử như thế. Nhưng thôi, ta hãy tập trung vào một số ví dụ mang tính thời sự.
Ghi vào Hiến pháp 1992 đủ thứ mĩ miều, nhưng trên thực tế thì hành động hoàn toàn ngược lại.

“Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân…” (Điều 2, Hiến pháp 1992)

Thế nhưng ĐCSVN lại chiếm hết tất cả quyền lực, còn nhân dân thì buộc phải chấp nhận mọi sự lựa chọn và quyết định của đảng.

“Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, … đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.” (Điều 54, Hiến pháp 1992)

Thế nhưng hầu hết những người tự ra ứng cử đều bị cản trở thô bạo, đến mức buộc phải rút lui.

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.” (Điều 69, Hiến pháp 1992)

Thế nhưng tất cả các quyền kể trên đều không được nhà cầm quyền chấp nhận trên thực tế. Thậm chí, nhiều người cố gắng thực thi các quyền hiến định đó đã bị trấn áp, bị giam vào tù.

“Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.” (Điều 70, Hiến pháp 1992)
Thế nhưng đất của nhà thờ vẫn bị chiếm giữ… 

Kêu gọi nhân dân góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, thậm chí tuyên bố rằng:

Nhân dân có thể cho ý kiến đối với điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì cấm kỵ cả.

Nhưng khi có ý kiến góp ý “trái chiều” thì lại quy chụp là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, là chống đảng, chống chế độ…

Gọi là lấy ý kiến dân chủ rộng khắp trong nhân dân, nhưng lại áp dụng những thủ đoạn sở trường để ép người dân phải ghi rõ là “đồng ý”, khi chưa kịp đọc Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992

Mấy chục năm nay, luôn khẳng định rằng tiến lên chủ nghĩa xã hội là nguyện vọng của nhân dân, và việc duy trì Điều 4 trong Hiến pháp cũng là sự lựa chọn của nhân dân. Nhưng căn cứ vào đâu mà nói liều như vậy? Đã bao giờ tổ chức trưng cầu dân ý để toàn thể nhân dân bày tỏ nguyện vọng và nêu ra lựa chọn của mình đâu? Không phải nhà cầm quyền ngộ nhận ý dân, mà có lẽ họ còn cho rằng đa số nhân dân nghĩ ngược lại. Vì sao ư? Giả sử đa số cử tri (chỉ cần 51% thôi) ủng hộ duy trì Điều 4, tức là duy trì quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN, thì kể cả trong hoàn cảnh tổng tuyển cử tuyệt đối tự do và ĐCSVN chưa cần phải áp dụng các mẹo sở trường, chắc chắn ĐCSVN vẫn thắng cử, và do đó được đóng vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội một cách chính đáng. Chính vì vậy, khi lãnh đạo ĐCSVN khẳng định rằng“bỏ Điều 4 là tự sát”, thì có nghĩa họ cho rằng ít nhất là 50% cử tri không ủng hộ việc ĐCSVN duy trì quyền lãnh đạo. Đơn giản là vậy! 

Những sự việc kể trên không phải là nói dối hay sao? Chư vị có định lên án hay không?

Phải chăng chư vị sẽ lỉnh, với lý do là những việc đó thuộc kênh khác, không phải là “kênh tuyên giáo” của chư vị? Cũng chẳng cần chư vị phải gánh trách nhiệm thay cho người khác đâu, bởi vì “kênh tuyên giáo” chính là nơi nói dối nhiều nhất. Đến nỗi nhiều người cứ đến buổi thời sự thì lại tắt TV, hoặc chuyển sang kênh khác, để khỏi phải đau đầu với những điều giả dối. Hiện nay, hàng ngày chư vị tuyên truyền trên TV và đài báo về sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân đối với những điều được coi là “nhạy cảm” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ví dụ như duy trì việc hiến định quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN, không chấp nhận sở hữu tư nhân về đất đai, lực lượng vũ trang trước hết phải trung thành với ĐCSVN, rồi sau đó mới đến Tổ quốc và Nhân dân…  Hẳn chư vị cũng tự biết là mình đang nói dối. Chư vị tung ra “bằng chứng điều tra” để bôi nhọ Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhưng như đã chỉ ra trong phần 1: Chư vị đã nói dối!

Người dân không hề ngạc nhiên, bởi đã quen dần với điều đó, và đã mặc nhiên thừa nhận rằng: Nói dối là bản năng và biện pháp nghiệp vụ của guồng máy tuyên truyền.

Điều khiến dân tình khó hiểu là: Tại sao những người thường xuyên nói dối lại lao vào điều tra, rồi phản ứng rất cực đoan, khi cho rằng có hiện tượng nói dối trong Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992?

So với việc không hề điều tra ý dân trên toàn quốc, mà vẫn khẳng định rằng sự độc quyền lãnh đạo của ĐCSVN, chế độ độc đảng và chủ nghĩa xã hội đều là ý nguyện của nhân dân Việt Nam, từ đó bắt buộc cả Dân tộc phải chấp nhận trạng thái ấy, thì sự ngụy tạo – nếu có – trong Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 có thấm tháp gì đâu?

Bản thân thì nói dối tràn lan, vậy tại sao lại ấm ức khi cho rằng có người dân nào đó cũng nói dối?
Chẳng nhẽ chư vị muốn độc quyền cả nói dối hay sao?

Hà Nội, 27/03/2013

Nguồn: Blog Hoàng Xuân Phú

Cùng tác giả: Một ngày để nhớ   –  Là thực thi quyền hiến định ông Trọng ạ!  –   Chỗ đứng của Nhân dân trong Hiến pháp  –  Teo dần quyền con người trong Hiến pháp   –  Hai tử huyệt của chế độ  –  Viễn tưởng từ chức  –   Bài học tồn vong từ thảm họa   –  Nhận thức mới: Lấy là bỏ, bỏ là lấy –   Lực cản Nhà nước pháp quyền   –   Trải bốn nghìn năm còn chậm lớn   –   Chiến binh cầm bút –   Hãy để lương tâm lên tiếng một lần!   –  Một số khía cạnh hình sự của vụ án Tiên Lãng – Hải Phòng   –   Nhân vụ Tiên Lãng bàn về công vụ   –   Quyền biểu tình của công dân   –   Phiêu lưu điện hạt nhân   –  Về huyền thoại điện hạt nhân giá rẻ   –   Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân   –   Nỗi buồn Quốc hoa  –  Một nhà khoa học đích thực  –   Bàn về qui mô đào tạo đại học từ góc độ chất lượng giảng viên.




Copy từ: Anh Ba Sàm