Nấm mộ ông Thầy
Quảng
BS Trần Nguơn Phiêu
Trong số báo Xuân Ất
Dậu 2005 của Thế Kỷ 21, tác giả Trần
Đông Phong có bài “...Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm”. Trên
hai trang 95-96, tác giả tường thuật về việc
Bộ Trưởng Bộ Kiến Thiết, Hoàng Hùng,
năm 1956, đã nhận được chỉ thị
của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cho sửa sang “đàng
hoàng tươm tất” một nấm mộ vô chủ
ở vùng Cái Tôm, Cao Lãnh. Người phụ trách việc
trùng tu đã được các bô lão địa phương
cho biết, đó là ngôi mộ của Phó bảng Huy,
được chôn cất từ năm 1929.
Thật ra, Bộ
trưởng Hoàng Hùng không phải là người
đầu tiên đã đứng ra sửa sang lại ngôi
mộ này. Dân địa phương cũng đã biết
từ lâu gốc tích của người nằm
dưới mộ, được gọi là ông Thầy Quảng.
Thân hào nhân sĩ thông hiểu sự việc gọi: đây
là mộ thân sinh ông Nguyễn Ái Quốc.
Người viết bài này
vốn thuộc vùng Cao Lãnh, muốn nhân cơ hội, góp
thêm vài chi tiết liên quan đến nấm mộ mà
một số người đã tưởng là vô chủ.
Bài viết có thể sẽ không làm vừa lòng những
người hiện nay đang tô rồng vẽ
phượng để mong xây dựng một loại
triều đại Hồ Chí Minh, nhưng mong rằng
đây là một vài dữ kiện để làm tài liệu
cho các nhà biên khảo trong tương lai.
Cao Lãnh thường
được người miền Nam biết là một
quận thuộc tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc, nay là
tỉnh Đồng Tháp vốn chỉ là một tỉnh
nhỏ, nằm bên sông Tiền Giang. Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, vốn một quan chức miền Trung, là
người đầu tiên đã có nhiều quyết
định phân chia lại vị trí các tỉnh miền Nam
theo các kinh nghiệm hành chánh của ông, khiến những
người cố cựu vùng sông Cửu đã lắm khi
bàng hoàng kinh ngạc. Cao Lãnh, một địa danh có
tiếng hào hùng cách mạng chống Pháp, nhờ vị trí
ven biên Đồng Tháp Mười rộng lớn bát ngát.
Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, quận
được tách ra thành tỉnh Kiến Phong. Tỉnh Sa
Đéc nhỏ bé lại bị chia năm xẻ bảy, các
quận khi được sát nhập vào tỉnh Vĩnh
Long, khi được hoàn trở lại, lận
đận một thời!
Vào thời khoảng các
thập niên 1920 -1940, thực dân Pháp đã lưu
đày, đưa một số các nhà cách mạng từ Bắc
hoặc Trung vào các tỉnh miền Nam. Cụ Dương Bá
Trạc bị an trí ở An Giang, Phan Châu Trinh ở
Định Tường... Cụ cử Vũ Hoành làm
Thủ quỹ cho Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục nên
bị Pháp bắt và lưu đày ở tỉnh lỵ Sa
Đéc. Dân Sa Đéc đều biết tiếng ông và
thường gọi tắt là ông Cử Hoành. Ông sống
thanh bạch, làm nghề hốt thuốc Bắc và cư
ngụ tại đường Rue des Pêcheurs, bây giờ là
đường Nguyễn Trãi. Nhà ông thường có
nhiều khách ra vào, phần lớn là những người
đến xem mạch xin toa nhưng cũng là nơi
nhiều nhà hoạt động cách mạng đến liên
lạc. Gần cổng nhà ông, thực dân Pháp thành lập
một quán nước nhỏ, cốt để nhân viên
mật thám hằng ngày có nơi theo dõi các hoạt
động của ông.
Ông bác của người
viết bài này là Trần Hàm Trung vốn người Hà
Tỉnh vì tham gia Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục,
cũng bị Pháp lưu đày ở Nha Mân, Sa Đéc. Ông
nội tôi, thuộc hạ của Phan Đình Phùng, sau khi
phong trào bị tan rã, trở về nhà thì thôn làng đã bị
đốt phá . Ông quyết chí rời bỏ quê, đi
bộ vào Nam tìm gặp lại người anh. Ôâng đã
gầy dựng cơ nghiệp, vừa dạy học
vừa làm ruộng vườn ở xã Mỹ Long, trong
quận Cao Lãnh. Vào thập niên 1920-1930, ở Mỹ Long,
cấp Tiểu học chỉ có trường dạy
đến lớp Ba. Muốn tiếp tục học,
phải qua Sa Đéc. Các chú của tôi vì vậy đều được
ông nội tôi gởi tá túc ở nhà ông Cử Hoành để
đi học. Các cụ cách mạng bị lưu đày
ở miền Nam đều rất khắng khít với
nhau, coi nhau như ruột thịt.
Có một năm, gần
ngày Tết, ông nội tôi sai hai chú tôi đem trái cây, cam quít
của vườn nhà và gạo, nếp, qua Sa Đéc
để tặng ông Cử Hoành là nơi hai chú đã có
thời được lưu trú và dạy dỗ.
Được cho tháp tùng ra tỉnh lỵ, thằng bé nhà
quê là tôi lúc ấy mới có được dịp, lần
đầu tiên, biết bánh chưng, thịt đông,
chả cá... là những món chưa từng được
nếm qua. Vì thích khẩu nên tôi ăn một mạch
đến gần ba chén cơm. Chú thứ Sáu của tôi thúc
cùi tay nhắc: “Ba chén thôi nghe không?”. Hai chú tôi đã từng
sống trong gia đình ông Cử nên biết thông lệ
ở gia đình này. Vì nhà luôn luôn tiếp nhiều khách mà
khả năng tài chánh lại hạn hẹp nên nhà bếp
thường hay hỏi trước mỗi thực khách :
trong các buổi ăn, thường dùng bao nhiêu chén cơm
để lo liệu nấu cho vừa đủ! Ông Cử
là một nhà nho, có nếp sống rất chững chạc.
Ngồi vào bàn ăn của ông, lúc nào cũng phải ăn
mặc tươm tất. Riêng ông có cái thế ngồi
đặc biệt: lúc nào cũng giữ lưng thẳng
đứng, ngay ngắn. Ông thường nói: “Tôi không
luồn cúi ai nên lưng lúc nào cũng thẳng”.
Sau buổi ăn ngày hôm
đó, ông ra lịnh cho hai chú tôi: “Chúng mày trước khi
về nhà, phải nhớ ghé giẫy mả Cụ Phó
bảng như mọi năm. Tập thêm cho thằng cháu
nhỏ này phụ việc. Mà phải làm cho tươm
tất. Nếu làm cho lấy có. không đàng hoàng, tao sẽ “róc
xương” chúng mày”.
Đó là lần đầu
tiên tôi dược biết về nấm mộ đơn
sơ gần Miễu Trời Sanh, cạnh nhiều ngôi mộ
hoang khác, ở xã Hòa An, Cao Lãnh. Hai chú tôi cho tôi biết đó
là mộ ông thân phụ của nhà cách mạng Nguyễn Ái
Quốc. Trên đường lưu lạc vào Nam sau khi
mất chức ở triều đình Huế, ông đã
được ông Cử Hoành rước về Sa Đéc,
tìm cho nơi tá túc để hành nghề thuốc. Năm
1929, ông qua đời và được chôn cất tại
đây. Hằng năm, nếu ông Cử Hoành không đánh
tiếng, ông nội tôi vẫn bắt các chú tôi làm công việc
chỉnh trang lại mả này mà dân chúng địa
phương gọi là mả ông Thầy Quảng. Các chú tôi
cũng lo phát cỏ luôn cho các mả hoang khác, thắp
hương cho mỗi mả trước khi về lại
nhà.
Năm 1945, khi khởi
đầu cuộc Kháng Chiến Nam Bộ, Tướng
Nguyễn Hòa Hiệp đã rút quân Đệ Tam Sư
Đoàn về trú đóng Cao Lãnh. Được ông Cử Hoành
chỉ dẫn, Nguyễn Hòa Hiệp thuộc Việt Nam
Quốc Dân Đảng, đã đưa các nhân viên bộ
tham mưu đến chào kính, viếng mộ thân phụ
Hồ Chí Minh. Ông Cử Hoành đã cùng gia đình rời
thị xã Sa Đéc, tản cư trên một
chiếc ghe và đã qua đời năm 1946 ở Rạch
Tân Trường thuộc Xã Mỹ Hội, Cao Lãnh.
Sau này, do sự tình cờ và cũng do liên
hệ gia đình bên vợ của tôi nên tôi được
biết thêm về những ngày thân sinh ông Nguyễn Ái
Quốc khi ông đến trú ngụ ở Sa Đéc. Như
nhiều người đã viết trên báo chí, sách vở,
tên ông là Nguyễn Sinh Sắc, quê Nghệ-Tĩnh,
đỗ Phó bảng và được Triều đình
Huế cử làm quan phụ trách một địa
phương ở Bình Định. Trong một cơn say
rượu, ông đã lỡ tay đánh chết một can
phạm nên bị Triều đình cách chức. Nguyễn Ái
Quốc lúc ấy đang trên đường bôn ba ở
hải ngoại, đã có viết đơn bằng Pháp
văn gởi cho Khâm sứ Pháp ở Huế xin can thiệp
để cha được trở lại quan
trường nhưng việc đó không có kết quả.
Ông Nguyễn Sinh Sắc
đã lưu lạc vào Nam và đã có nhiều lần có
những cơn say rượu trên đường phố
Sài Gòn. Nhà báo Diệp Văn Kỳ đã nhiều phen giúp
đỡ khi ông bị khó khăn vì say rượu nơi
công cộng. Khi biết được tin ấy, cụ
Cử Hoành đã cho người tìm đưa ông về Sa Đéc.
Nơi đây, ông Nguyễn Sinh Sắc được
giới thiệu đến tá túc ở gia đình một
người có hằng sản ở thị xã là ông Võ Tôn Lập. Ông Cử Hoành có
người vợ kế. Bà này là cháu của bà Hồ
Thị Xuyến, vợ lẽ của ông Võ Tấn Lập.
Ông Nguyễn Sinh Sắc được cho nương náu
ở phần sau của căn nhà, ngày nay mang số 17/7
đường Lê Lợi, Thị xã Sa Đéc. Sau 30-4-1975, có
thể vì gia chủ căn nhà này là một sĩ quan quân
đội VNCH đang bị đi “cải tạo”, chánh
quyền địa phương thời đó lại ghi
nơi ông Nguyễn Sinh Sắc từng trú ngụ là nhà Bà
Chín Đường, nằm ở góc đưởng Rue des
Pêcheurs và Quai Tân Quy Đông(?). Về sau, phối kiểm
lại, chánh quyền có ý định lấy nhà 17/7 đường
Lê Lợi làm nhà “Truyền thống” và định gắn
Bảng Tri Ân. Nơi đây, ông Nguyễn Sinh Sắc đã
từng hành nghề coi mạch. hốt thuốc Bắc và
cũng luôn thể, dạy chữ Nho cho con cháu gia chủ.
Trong gia đình này, con cháu có lệ gọi cha mình là Thầy.
Vì thế nên ông Sắc được mọi người
gọi là Thầy Quảng vì ông từ xứ Quảng vào
Nam. Người vợ chánh của gia chủ có tên là
Trương Thị Sắc nên ông Nguyễn Sinh Sắc
đã đổi tên thành Nguyễn Sanh Huy. Tên này ông dùng
để tiện cho các tiệm thuốc Bắc ghi trong
sổ để hưởng tiền hoa hồng khi các
bịnh nhân đem toa thuốc của ông đến các
tiệm này để hốt thuốc. Đó là một thông
lệ thương mãi của các tiệm thuốc
người Tàu. Tiệm thuốc Quản Hòa Sanh ở
chợ Sa Đéc có giữ một sổ ghi chú nhiều
lần tên ông Nguyễn Sanh Huy.
Ông Nguyễn Sanh Huy có
chấm một số tử vi cho cháu gia chủ khi
người cháu này ra đời trong thời gian ông Huy
đang trú ngụ. Người cháu này tên Võ Ngọc Lang, khi
lớn lên là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam
Cộng Hòa, tốt nghiệp khóa 4 trường Sĩ quan
Trừ bị Thủ Đức năm 1953. Tuy đã
được giải ngũ vào tháng 11 năm 1974, sau 30-4-1975,
ông Lang vẫn bị bắt phải đi “học tập”cho
đến tháng Tư năm 1982 mới được
thả! Qua Mỹ theo diện HO, ông đang cư ngụ
ở Torrance, California và hình như vẫn còn giữ
được lá số tử vi viết tay của ông
Thầy Quảng.
Tuy được trú
ngụ trong gia đình ông nội của ông Võ Ngọc Lang,
nhưng ông Nguyễn Sanh Huy lại thân thích, tâm đầu ý
hợp với ông ngoại của ông Võ Ngọc Lang tên Hà
Văn Ngọ. Nhà ông Ngọ ở miệt Chợ Cồn,
tỉnh lỵ Sa Đéc. Ông Nguyễn Sanh Sắc
thường đến Cao Lãnh để xem mạch,
hốt thuốc cho các gia đình nghèo ở đó. Các gia
đình khá giả khác thường chọn các Thầy có gia
sản ở địa phương và ít khi mời ông
Thầy Quảng. Vào thời đó và cả cho đến
cuối thập niên 1940, sự giao dịch giữa Sa
Đéc, Cao Lãnh thường được thực hiện
bằng loại đò đạp. Đây là một loại
đò khá lớn, chuyên chở được trên hai
mươi hành khách và hàng hóa. Đò di chuyển do sức
đẩy của một bánh xe nước. Bạn
đạp đò ít nhất cũng phải đến
bốn người. Chợ Cồn là bến đò quan
trọng. Ông Nguyễn Sanh Huy thường lên, xuống
đò ở bến này và thường nhân dịp, ghé đàm
đạo, đánh cờ với ông ngoại của ông
Lang. Thêm nữa, mỗi khi đi Cao Lãnh, ông Thầy
Quảng thường chỉ ở một vài ngày và khi
về thường đem các loại dược thảo
ông tìm hái được ở Cao Lãnh, giao lại nhờ ông
ngoại của ông Lang phơi sấy để làm
thuốc cho thân chủ nghèo.
Một hôm, ông ngoại
của ông Lang nhận được thơ do chủ
đò đạp đem về từ Cao Lãnh. Ngươi
đem thơ đã lơ đãng quên đưa thơ khi
cập bến Chợ Cồn nên đã đưa trễ khi
về đến bến chót ở chợ Sa Đéc. Trong
thơ, người cho ông Nguyễn Sanh Huy tá túc mỗi khi
ông đến Cao Lãnh, báo cho ông Ngọ biết tin ông Huy
đang bị bịnh nặng. Vì không biết dùng xe
đạp, ông ngoại của ông Lang đã đi bộ
đến Cao Lãnh để thăm bạn. Vào chiều
tối, lúc ông đến nơi thì ông Thầy Quảng
đã chết rồi, thân mình còn ấm! Ông cùng chủ nhà
tri hô lên, trình cho Hương Quản. Lục giấy tờ
trong mình, thấy tên là Nguyễn Sinh Sắc, với số
tiền hơn một đồng bạc Đông
Dương Ngân Hàng, một số tiền khá lớn
thời bấy giờ nhưng chưa đủ để
tống táng. Bà con lối xóm đã quyên góp thêm để
đủ tiền mua một hòm rẻ để liệm.
Ông ngoại ông Lang đã vào Miễu Trời Sanh, xin ông
Chủ Chùa cấp cho một mảnh đất nhỏ, mượn
luôn đòn và dây luột để khiêng đi chôn cất.
Theo tục lệ cổ truyền, đầu hòm đã
được chôn hướng về phía mặt trời
lặn để hồn sớm được siêu
thăng.
Nấm mộ được chôn gần
với nhiều mộ vô danh khác nhưng mộ Thầy
Quảng đã được nhiều gia đình trong
giới cách mạng Sa Đéc chăm lo. Có một giai
thoại lý thú ít người biết là vào khoảng 1946, sau
khi Thỏa Hiệp Án (Modus Vivendi) được ký kết
giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet sau Hội nghị
Fontainebleau ở Paris, viên Quận trưởng quận Cao
Lãnh là Trung úy người Pháp tên Menut đã cho người
đắp đất, làm cỏ cho ngôi mộ!.
Trước đó, một nông dân tên Tư Quyết, có
việc đi từ Sa Đéc về Cao Lãnh bằng xe ngựa.
Cùng đi trên có một lính Lê Dương. Anh lính này có trang
bị một súng máy. Khi gần đến vùng Cao Lãnh là
nơi tương đối an toàn, anh lính lơ
đĩnh bỏ súng xuống trên sàn xe. Tư Quyết nhân
cơ hội, giựt súng lủi nhanh vào xóm và đem
nạp cho ủy ban kháng chiến địa phương.
Để chứng tỏ tinh thần tôn trọng thỏa
ước vừa được ký, ủy ban cho
người đánh tiếng với viên Quận trưởng
và cho người đem trả lại súng. Việc Trung úy
Menut cho người sửa sang ngôi mộ đã chứng
tỏ ông ta cũng biết ngôi mộ là mộ của thân
phụ Hồ Chí Minh.
Sau ngày 30-4-1975, vào
khoảng 1976, tất cả các nấm mồ phía sau
Miễu Trời Sanh, nơi an nghỉ cuối cùng của
những người tứ cố vô thân được
chôn cất nơi đây đã được chánh quyền
mới bốc lên đem cải táng nơi khác. Riêng mộ
ông Thầy Quảng giờ đây được xây
cất huy hoàng bằng đá hoa theo mô hình một lăng
tẩm rộng lớn. Cây kiểng quý được
chăm sóc từ nhiều đời của dân chúng đã
được đem cốâng hiến để trang trí
trong lăng. Băng ghế công viên do các Công ty ghi tặng là
để khách tứ phương có nơi dừng lại
nghỉ chân. Cơ quan địa phương trong xứ
đều đem sản phẩm quý báu về đây
chưng làm kỷ niệm. Cây cối, thư viện, nhà
cửa, đường đi... đã được
bố trí rất mỹ thuật để nơi đây
được xứng đáng vớùi danh xưng mới:
Lăng Cụ Phó Bảng.
Từ một nấm
mộ đất nhỏ đơn sơ, không bia, không
tường vôi, đá chắn, giữa những nắm
mồ vô chủ, mộ ông Thầy Quảng giờ đây
đã trở thành một lăng tẩm uy nghi, rộng
lớn, một công trình kiến trúc mỹ thuật. Các
nấm mộ vô danh đã được dời đi
cải táng nơi xa nào đấy để lấy
đất xây lăng Cụ Phó Bảng. Tuy vậy, cầu
mong sao cho hương linh của những nấm mộ
hoang trước kia, nếu chưa được siêu thoát
và hiện đang còn vất vưởng quanh Lăng, đã
được Cụ Phó Bảng cho họ được
tá túc trong lăng của Cụ, như ngày nào Cụ đã
được những tấm lòng người miền Nam
cho tá túc, trên bước đường lưu lạc
của Cụ.
Trần Nguơn Phiêu
Amarillo, Texas
Tết Ất Dậu, 2005
Copy từ:
Nam Kỳ Lục Tỉnh
........................