CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

Ân xá Quốc tế lần đầu thăm Việt Nam


Ân xá Quốc tế mới đây chỉ trích án tù với 14 người theo Công giáo và Tin Lành ở Nghệ An
Lần đầu tiên tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế được Việt Nam cho phép vào thăm và gặp giới bất đồng chính kiến.
Chuyến thăm “phá băng” kéo dài sáu ngày, kết thúc thứ Bảy tuần trước, nhưng chỉ được Ân xá Quốc tế (Amnesty International) chính thức tiết lộ hôm 6/3.
Cuộc đối thoại đặc biệt, lần đầu tiên từ sau 1975, diễn ra trong khi Việt Nam đang tổ chức đóng góp ý kiến về cải tổ Hiến pháp, đụng đến cả nhân quyền và tự do tôn giáo.
Frank Jannuzi, người đứng đầu văn phòng của tổ chức ở Washington, D.C., cho biết ông đã được gặp hai nhà đối kháng Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Văn Đài, cùng đại diện các nhà thờ theo phái Phúc Âm.
Ông cũng gặp Hồng y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Giáo phận TP. HCM.
Chính phủ “để tôi được rộng rãi” trong các chuyến thăm, ông nói.
Ân xá Quốc tế thường phê phán hồ sơ nhân quyền của Việt Nam, và mới đây chỉ trích án tù với 14 người theo Công giáo và Tin Lành ở Nghệ An hồi tháng Giêng.
Ông Jannuzi nói: “Tôi chứng kiến một đất nước đang thảo luận về hiến pháp mới.”
“Một trong những chủ đề chính họ đang bàn là nhân quyền.”
Ông Jannuzi, người đã chủ động liên lạc với chính phủ Việt Nam đề nghị đối thoại, cho biết những quan chức ông gặp đã “thẳng thắn thảo luận về những chủ đề nhạy cảm”.
“Dấu hiệu cho thấy sẽ còn có những vòng đối thoại tiếp theo,” ông nhận định.


Copy từ: BBC

Giáo xứ Bình Thuận: Bầu cử HĐMV nói không với cộng sản

VRNs (07.03.2013) – Nghệ An – Ai cũng biết rằng, tôn giáo và chính trị là hai lĩnh vực khác nhau. Nhưng đáng tiếc, dưới một chế độ nhà nước chủ trương vô thần lại muốn “lấn sân” tôn giáo, họ biến tôn giáo thành “sân chơi chính trị”. Quả thật giáo hội Việt Nam đang bị “lấn sân” khi chính phủ vừa ban hành nghị định 92 – nghị định kìm kẹp tôn giáo. Giáo hội vẫn chưa có những phương án, để làm “khiên che thuẫn đỡ” trước thực trạng này. Người viết ghé thăm giáo xứ Bình Thuận, giáo phận Vinh (Nghi Thuận, Nghi Lộc, Nghệ An) dịp bầu cử Hội đồng Mục vụ (HĐMV) giáo xứ mới và trộm nghĩ có thể đây là một trong những cách làm, để rút ra bài học cho các giáo xứ khắp giáo hội Việt Nam trước chiêu bài xâm nhập tinh vi của cs.
Đúng 14h, ngày 04/3/2013, tại Thánh đường giáo xứ diễn ra cuộc đại hội bầu cử HĐMV giáo xứ nhiệm kỳ 2013-2016 và kết thúc lúc 18h30 trong niềm vui phấn khởi của bà con.
Điều hành cuộc đại hội bầu cử là linh mục quản xứ Antôn Đặng Hữu Nam. Cuộc bầu cử diễn ra theo chuẩn mực cuộc bầu cử thực sự của người có đạo, không lẫn tạp vô thần, không một đảng viên cs tham dự. Như trong nội quy bầu cử của giáo xứ đã ghi rõ: “Những người theo Đảng Cộng Sản Vô thần không được phép tham dự đại hội và không có tư cách ứng cử hay bầu cử HĐMV”.
Cuộc bầu cử HĐMV giáo xứ đã diễn ra rất khách quan, lấy Chúa Thánh Thần là người hướng dẫn của phiếu bầu, và kết quả bầu cử được sự nhất trí cao của bà con trong toàn giáo xứ.
Nếu khẩu hiệu bầu cử của xã hội thường là “tinh thần cách mạng bất diệt”, “chủ nghĩa Mác-Lê bất diệt”,… thì tại khóa bầu cử HĐMV của giáo xứ Bình Thuận khẩu hiệu tiên phong là: “nói không với cộng sản”. Thiết nghĩ, đây không phải là “cầm đèn chạy trước ôtô” nhưng giáo hội Việt Nam đang đứng trước nguy cơ trở thành “giáo hội hầm trú” và “giáo hội nhà nước” như Trung quốc, khi chính phủ vừa ban hành nghị định 92 và đã có hiệu lực đầu năm nay. Vì thế cũng nên xác định rõ 2 sân chơi rạch ròi và biệt lập: Tôn giáo và chính trị, trước khi mọi thứ đã quá muộn. Khi mà đảng cs đang dùng mọi thủ đoạn để trà trộn vào giáo hội thì việc trước nhất là cần có một đội ngũ HĐMV “sạch” trong giáo xứ. Khi đã có một đội ngũ HĐMV nhiệt huyết, luôn đặt lợi ích giáo hội lên trên hết, thì đó là “khiên che thuẫn đỡ” chắc chắn với xu thế thời đại mà giáo hội Việt Nam đang trải qua.
Tứ Kỳ
Cha chính xứ hướng dẫn nội quy bầu cử

Ghi tên ngươi chọn

Quý bà quý cô cũng bỏ phiếu

Ý thức việc bỏ phiếu

Cha chính xứ và tân Hội đồng mục vụ Bình Thuận



Copy từ: Truyền Thông Chúa Cứu Thế

ƯỚC GÌ DÂN OAN CŨNG ĐƯỢC BÁO CÁO BỘ CHÍNH TRỊ


dat-dai-o-da-nang2
Chiều 5/3/2013, đoàn công tác của Thanh tra Chính phủ do Phó tổng thanh tra Nguyễn Đức Hạnh dẫn đầu đã làm việc với UBND TP Đà Nẵng suốt 3 giờ để thông báo kết luận thanh tra sai phạm đất đai. Tham dự buổi họp chỉ có thành viên đoàn thanh tra và lãnh đạo thành phố, hàng chục phóng viên phải đứng ngoài (?).
Sau buổi họp, thêm một lần nữa Đà Nẵng vẫn cảm thấy ‘oan ức’, không phục thanh tra, lãnh đạo thành phố quyết định sẽ báo cáo Bộ Chính trị vụ ‘thất thu hơn 3400 tỷ’ đồng này.

Xem như xét riêng công việc điều hành quản lý chính phủ mà trách nhiệm cao nhất, quyền quyết định cao nhất thuộc về Thủ tướng vẫn phải trông chờ vào việc báo cáo Bộ Chính trị, và Bộ Chính trị là một tập thể. Như vậy, điều này đã ứng đúng vào entry “Quá ẩu hay là sự ngây thơ đầy toan tính”, trong đó tôi đã nhận định rằng “chữ ký rõ ràng là của một người nhưng tập thể lãnh đạo… “. Đã vậy, Bộ Chính trị sẽ quyết định như thế nào lại là một câu chuyện khác nữa.
Cách đây không lâu, cư dân mạng xôn xao một việc xác định tên gọi “cô” hay “thầy” của một giáo viên chuyển đổi giới tính mà Bộ Tư pháp phải bó tay đành phải đợi quyết định cuối cùng của Thủ tướng. Nhưng nếu người giáo viên đó cũng không phục quyết định của Thủ tướng, chẳng lẻ lại làm đơn báo cáo lên Bộ Chính trị. Hai việc hoàn toàn khác nhau, nhưng trách nhiệm pháp lý như nhau.
Quay về một vấn đề cụ thể khác, tôi cũng đã đề cập trong entry “Hình như có hai Thủ tướng?”. Khi Đà Nẵng tổ chức cuộc họp yêu cầu các hộ dân chấm dứt khiếu kiện cũ, ông Văn Hữu Chiến lại đưa ra “kết luận của Thủ tướng Chính phủ và văn bản trả lời của Thanh tra Chính phủ” để làm cơ sở cho thông báo chấm dứt này. Đành rằng là rất khó, nhưng nếu dân khiếu kiện không thỏa mãn, họ có thể báo cáo lên Bộ Chính trị được không?
Và ước gì, dân oan trong cả nước (thông qua báo chí) được báo cáo lên Bộ Chính trị… thì hay biết mấy, nói vậy biết vậy thôi!
Dắt nhau ra tòa là điều chẳng ai mong muốn, nhưng mọi chuyện nhỏ lớn trong khuôn khổ hành chính-pháp lý mà cứ mãi đợi quyết định cuối cùng của Thủ tướng, của Bộ Chính trị thì dù họ có trăm tay nghìn mắt cũng không thể lo toan nổi. Quốc gia đại sự còn quá nhiều chuyện để bàn, chẳng lẻ cứ để các Ngài mất ăn mất ngủ vì những chuyện tưởng như đã được phân công rõ ràng rồi, ai vào việc nấy cả rồi.
( Theo Phước Béo blog )
P/s: hàng chục phóng viên phải đứng ngoài (?), ngạc nhiên chưa, trước giờ hình như Đà Nẵng rất thông thoáng, thiện ý với giới truyền thông lắm mà!?
  Copy từ: NV Phạm Viết Đào



Bi hài chuyện phản bác ý kiến đóng góp trái chiều.

Báo ND ngày 5/3/2013 thực sự đã làm cái gọi là '' cuộc đấu tranh phản bác luận điệu sai trái'' trong việc tiếp nhận ý kiếp đóng góp sửa đổi hiến pháp trở thành một trò đầy đủ bi ai, hỷ nộ. Đẩy tính kịch nên thành cao trào khi cho một cựu chiến binh có tên là Vũ Tiến Anh lên báo giở trò khóc lóc ơn nghĩa, tình xưa.

 Trái với báo QĐND tung ra những bóng ma thế lực thù địch, cơ hội chính trị, âm mưu luận điệu chống phá, để từ đó gào hét đòi hỏi phải trừng trị, phải cảnh giác, phải này nọ. Trước kia báo QĐND không có mục đấu tranh nội bộ hay bảo vệ tư tưởng, bảo vệ chính trị nội bộ kiểu này. Nhưng từ khi TC2 Bộ Quốc Phòng dịch và phát hành những cuốn sách tài liệu chống diễn biến hoà bình do Trung Quốc xuất bản, báo QĐND có thêm trương mục chống diễn biến hoà bình, và dường như những cây viết quân đội này hăng say với đấu tranh bảo vệ chính trị, tư tưởng nội bộ hơn là quan tâm đến vấn đề khác mà đúng ra đó mới là chuyên môn, nhiệm vụ của họ.

Các cây viết của QĐND tiếp thu và phát lại những gì ngày hôm nay theo một tư tưởng y hệt trong những cuốn sách mà TC2 đã dịch từ sách TQ cách đây ngót gần 20 năm. Một sự sao chép cũ mòn không có gì là khó thấy nếu ai đã xem những luận điệu trong các cuốn sách đó và những bài viết trên báo QĐND ngày hôm nay.

Nếu họ liên tục sao chép lại những lý luận từ bên TQ một cách máy móc như vậy, thì chuyện ngày hôm nay họ viết những bài như vậy không có gì là lạ.

Nhưng cái thật lạ lùng, dường như họ chỉ sao chép những gì bảo thủ, xơ cứng thiên về cao giọng đe doạ của TQ, chứ không sao chép hoàn toàn lý luận, tư tưởng của TQ. Phải chăng đây là cái gọi mỹ miều '' tiếp thu có chọn lọc''.

Xin xem những trang viết dưới đây.



Đây là nhận định tương đối mới của những nhà lý luận tư tưởng Trung Quốc, được công khai ở Trung Quốc trên báo chí,in sách vở. Đồng thời cũng được TTXVN dịch ra làm tài liệu cho các đảng viên tham khảo.

Tôi không tin những người viết trên báo QĐND không đọc tài liệu này, thậm chí họ còn đọc trước cả tôi vì họ có nhiều điều kiện. Nhưng họ đọc rồi và vẫn viết những bài viết như ngày hôm nay thì quả thật bi hài cho nền lý luận Việt Nam. Một nền lý luận khôn vặt chỉ sao chép nguyên xi những gì cần thiết phục vụ lợi ích tức thời bản thân mình. Thậm chí dùng kiểu nhặt nhạnh lựa chọn những lý luận cũ rích của ông thầy TQ thấy chưa xong thì giở bài khóc lóc đánh vào tình cảm. Một người cựu chiến binh, cả gia đình là cựu chiến binh. Đáng phải nhìn nhận dũng cảm vào thực tiễn, như kẻ dám chơi, dám chịu thực cảnh đang diễn ra, thể hiện bản lĩnh của mình.  Đằng này Vũ Tiến Anh được báo ND đẩy lên diễn một màn khóc lóc, lại lôi hình tượng HCM ra để bao biện. Rồi đến nước mắt, đến ngã xuống, đến hy sinh....lại một trò xưa cũ để xuê xoa lòng người.

Nhưng sự bi hài chưa dừng ở đó, vào vai diễn một cách thái quá có lẽ do sân khấu quá lớn mà một diễn viên không tên tuổi được đẩy lên. Vũ Tiến Anh trong bài viết của mình không biết vì cao hứng hay vô tình đã vẽ ra một Hồ Chí Minh hoàn toàn mới lạ chưa từng thấy trong hàng trăm nghìn cuốn sách, tư liệu của hàng nghìn tác giả viết về HCM từ xưa đến nay.

Như '' HCM dặn anh em phải thật thà...làm gương cho lớp sau "' rồi lại có đoạn vì tình hình Đảng rút vào hoạt động bí mật vì trên danh nghĩa tuyên bố giải tán , lý do đó bác Hồ phải nói '' quân đội ra trung với nước, hiếu với dân'' rồi '' khi vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định công khai, bác Hồ nói - quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân.

Trời hỡi, Vũ Tiến Anh định lấy HCM ra minh hoạ cho mục đích của mình hay còn ý đồ gì đây mà vẽ hình tượng lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam như vậy. Vì lúc đó giả vờ giải tán vào bí mật phải thế nầy nên nói thế, sau này khi đã khẳng định vị trí  rồi thì nói khác, cái khác đấy mới là đúng nhất. Lẽ nào mai kia có người khi cần lại nói vì lúc đó như vậy nên HCM nói thế, thực ra là sau này Người nói ở chỗ kia là quân đội ta Trung với Nước, Hiếu với Dân mới là chính xác tư tưởng của Người.

 Kể lể kiểu Vũ Tiến Anh như thế để phục vụ mục đích lập trường là '' quân đội trung với Đảng là đúng tư tưởng HCM '' Nhưng  thử hỏi người đọc có hiểu thế nào cho đúng về hình tượng lãnh tụ khi mà câu nói chả biết lúc nào là Người nói thật, nói chính xác.?

Không cần đứng trên khía cạnh đối tượng mà Vũ Tiến Anh đang gọi là những kẻ có luận điệu sai trái. Bài viết này của Vũ Tiến Anh chắc chắn sẽ làm cho những cây lý luận gạo cội, đồng đội chiến tuyến của ông ta cũng phải giật mình vì những sơ hở không thể chấp nhận nổi. Chả thế mà dân gian ta có câu

- yêu nhau như thế bằng mười hại nhau.

Nhưng thôi đó là chuyện của các đồng chí ông Vũ Tiến Anh. Dù sao trên cương vị người dân tôi cũng cám ơn ông một diễn viên không biết vì quá tồi hay quá xuất sắc đã làm vở kịch này có thêm nhiều bi hài, xúc cảm cho người xem nhất là một hình tượng mới, góc nhìn mới của ông về lãnh tụ HCM. Cũng không quên cám ơn các báo, đài đã nỗ lực liên tiếp đưa nhiều vai diễn như ông Vũ Tiến Anh trong những ngày qua để mang lại cho người xem nhiều mầu sắc.

Ai nói chế độ CNXH là không vui, cứ thế này bảo sao người dân chúng ta không vui vẻ mà cho mình hạnh phúc thứ nhì thế giới cơ chứ.?


Copy từ: Người Buôn Gió

VỤ ĐINH ĐỨC LẬP: MỘT CÁN BỘ BÁO ĐẠI ĐOÀN KẾT ĐÃ BỎ TRỐN


Bài đăng trên báo Người Cao tuổi, số 29, ra ngày 8.3.2013.
Liên quan đến Vụ Đinh Đức Lập, nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng (Từ Khôi) đã 3 lần gửi Đơn đề nghị Ủy ban TW MTTQ VN trả lời Kết luận giải quyết Đơn tố cáo bằng văn bản mà đến nay chưa có hồi âm. 

Ai ở Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chống lưng cho ông Đinh Đức Lập - TBT báo Đại Đoàn Kết?


Copy từ: TS Nguyễn Xuân Diện

BA SÀM LẠC QUAN VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ

Ba Sàm
Vậy là những ý kiến đóng góp thẳng thắn, chân thành của mọi tầng lớp nhân dân, thông qua cả báo chí nhà nước lẫn mạng tự do, và đặc biệt là một hình thức mạnh mẽ chưa từng thấy qua việc trực tiếp trao bản Kiến nghị 72 về sửa đổi Hiến pháp 1992 đã đem lại kết quả bước đầu rất quan trọng. Tối quatrong chương trình Thời sự 19h, lần đầu tiên bức Điện khẩn của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp gửi tới tất cả các cơ quan, địa phương, đoàn thể cả nước được công bố, trong đó có việc thông báo thay đổi về thời gian lấy ý kiến nhân dân, không phải “cứng nhắc” và gấp gáp theo Nghị quyết trước đó của Quốc hội ấn định đến hết 31/3, mà sẽ kéo dài tới 30/9. Chúng tôi cũng đã đưa tin kịp thờingay sau đó ít phút, cả phần ghi âm nội dung bức điện.
Rất dễ hiểu ở một chính quyền cộng sản, đối với một quyết định hệ trọng, thể hiện sự áp đặt ý chí sắt đá ‘chuyên chính” của giai cấp thống trị lên toàn bộ xã hội, việc buộc họ phải nhanh chóng lui bước, chịu công nhận đã sai trước sức mạnh của dư luận nhân dân, nhất là nó lại đụng đến thứ ‘húy kỵ’ ghê gớm nhất, tức Điều 4 mà bỏ đi bị họ coi như “tự sát”, là điều thường được cho là hoang tưởng.
Nhưng, không có cuộc đấu tranh cho dân chủ nào là dễ dàng và nhanh chóng đem tới thắng lợi. Nên cũng không lạ trước biểu hiện hốt hoảng đến lú lẫn, những phản ứng lúng túng, bất nhất không còn che dấu nổi từ giới bảo thủ trong hệ thống. Ngoài xã hội là những biểu hiện nóng nảy thiếu khôn ngoan vẫn thường thấy trong suốt hàng chục năm qua, hay thái độ buông xuôi, lẫn lộn trong đó là vài hiện tượng làm lạc hướng dư luận, hay giảm nhẹ ảnh hưởng của những biện pháp tranh đấu dũng cảm, khôn ngoan và kiên nhẫn của người dân và nhân sĩ trí thức.
Những con số biết nói qua hàng ngàn chữ ký, từ cuộc tập hợp hùng hậu quanh bản Kiến nghị 72, cho tới một phản ứng bất ngờ tưởng như nho nhỏ nhưng bỗng thu hút sự quan tâm rất nhanh về cá nhân một nhà báo dũng cảm dám trực diện với con người quyền lực nhất. Và ngay sáng nay, câu trả lời tức khắc chính là con sốt đột biến ký tên vào bản Kiến nghị 727.927 – tăng thêm 900 chữ ký chỉ trong 1 ngày. Những chương trình dồn dập suốt nhiều ngày liền trên truyền hình trung ương tập trung vào hành động cố thủ cho Điều 4, song lại tuyệt đối hiếm thấy trên toàn bộ 700 tờ báo nhà nước, cũng là một bức tranh thú vị về sự phân hóa sâu sắc trong cả hệ thống. Việc phải nhanh chóng xuống giọng của ông Chủ tịch Quốc hội sau vài chỉ đạo “ngầm” nhằm chặn làn sóng ảnh hưởng của Kiến nghị 72 và lời phát biểu hung hăng chỉ trích những đóng góp thẳng thắn từ người dân của ông, hay một chỉ thị nhắc nhở báo chí từ nay phải cẩn trọng hơn sau khi đưa lại “thô” lời phát ngôn được cho là tệ hại của ông Tổng bí thư, … Và còn nhiều những hiện tượng khác nữa, tất cả đã cho thấy một sự thay đổi lớn lao trong đời sống chính trị VN. Không được phép có những tổ chức quần chúng đích thực, thế nhưng người dân vẫn đã đoàn kết được với nhau một cách rất ấn tượng.
Phía trước là hơn 6 tháng nữa, với không ít phương cách, sáng kiến có thể có trong các tầng lớp nhân dân, trong đó hy vọng có cả việc tìm ra cho nhà cầm quyền những kênh đối thoại hợp lý với dân, và một giải pháp tế nhị, đỡ mất mặt khi phải chấp nhận một phần nào đó trong những đòi hỏi phải nới rộng dân chủ, trước một cơ hội mà có lẽ đã ngót một phần tư thế kỷ qua mới có được. 
(Trích bình luận của Ba Sàm trong trang tin thứ 5 ngày 7.3.2013)

Sau đây là hàng loạt bài viết liên quan đến cuộc vận động dân chủ đang sôi nổi diễn ra:
 
 


Copy từ: Huỳnh Ngọc Chênh

Thư của BS Nguyễn Quý Khoáng gửi trang Bauxite Việt Nam


Lời giới thiệu của BS Nguyễn Công Kiểm
Kính gởi GS NGUYỄN HUỆ CHI,
BS Nguyễn Quý Khoáng là bậc Thầy vô cùng đáng kính trong giới Y khoa của chúng tôi. Thầy vừa email đến Giáo sư để xin được ký tên vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 72 sau khi tôi đã ký tên và giới thiệu với Thầy về Bản kiến nghị này.
Thầy là một người rất khiêm tốn. Nhưng chúng tôi đã thuyết phục Thầy phải ghi các chức danh ra để tăng uy tín cho Bản kiến nghị này và chữ ký của Thầy chắc chắn sẽ là nguồn động viên các thầy thuốc khác đừng sợ hãi mà hãy can đảm ký tên vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam chúng ta (bởi vì tuyệt đại đa số thầy thuốc trong bệnh viện mặc dù rất muốn nhưng không ai dám có ý kiến khác với bản dự thảo Hiến pháp do cấp trên đưa xuống khi bệnh viện tổ chức lấy ý kiến. Đây cũng là tình trạng chung ở tất cả các cơ quan. Và nhà nước quy định là KHÔNG CÓ Ý KIẾN tức là ĐỒNG Ý. Tôi thấy đây là một thủ đoạn chính trị đã quá quen thuộc "AI CŨNG BIẾT MÀ KHÔNG AI DÁM NÓI" và nếu tình hình cứ như vậy thì chắc chắn kết quả cuối cùng sẽ là 99,99% dân số "đồng ý" với Bản dự thảo Hiến pháp của nhà nước đưa ra, nhưng thực ra thì lòng dân lại ngược lại! ÔI, NHÂN DUYÊN CỦA ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM...?! )
Kính,
BS Nguyễn Công Kiểm
Trưởng khoa Nội tiêu hoá - BV An Bình, TP Hồ Chí Minh
(Số thứ tự ký tên 6377)

Kính gửi GS NGUYỄN HUỆ CHI, người điều hành trang BAUXITE VIỆT NAM,
Tôi ký tên dưới đây là NGUYỄN QUÝ KHOÁNG, sinh năm 1949 tại Hà Nội, xin được tham gia danh sách người ký kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992.
Trước tình hình đất nước Việt Nam càng ngày càng tệ về mọi mặt, tôi rất hoan nghênh bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 mà 72 nhân sĩ đưa ra ngày 19/01/2013. Nay tôi viết thư này để  xin được cùng ký tên vào bản kiến nghị mà quý vị  nhân sĩ đã khởi xướng với ước mong Đảng CSVN, Quốc hộị và Nhà Nước VN chiếu cố đến những đề nghị sửa đổi hiến pháp trên đây.
Tôi xin phép được thưa cùng  GS NGUYỄN HUỆ CHI một vài chi tiết về lý lịch của tôi:
– NGUYỄN QUÝ KHOÁNG, sinh năm 1949 tại Hà Nội,
– Hiện cư ngụ tại số 649 Đường 3 tháng 2, P6, Q 10, TP.Hồ Chí Minh.
– Học Đại học Y khoa Sài Gòn từ năm 1968 đến 1975.
– Tốt nghiệp Bác sĩ X quang năm 1976, công tác tại BV Đa khoa tỉnh Tây Ninh từ 1977 đến 1983, sau đó công tác tại BV An Bình TP Hồ Chí Minh từ 1983 đến ngày nghỉ hưu năm 2009.
Các chức danh:
– Nguyên Phó chủ tịch Hội Điện quang và YHHN Việt Nam.
– Nguyên Chủ tịch Hội Chẩn đoàn hình ảnh (CĐHẢ) Tp HCM.
– Nguyên chủ nhiệm Bộ môn CĐHẢ  ĐHYK Phạm Ngọc Thạch.
– Nguyên giảng sư (Maitre de Conférences) ĐHYK Nancy,Pháp.
– Nguyên Trưởng Khoa CĐHẢ  BV.An Bình, TP.HCM.
– Thầy thuốc ưu tú.
Từ khi nghỉ hưu, tôi vẫn tiếp tục dạy về X Quang – CT – Siêu âm tại một số Trung tâm, Trường, Viện và bệnh viện.
Xin kính chào Giáo sư và xin kính chúc Giáo sư mạnh khoẻ để tiếp tục sự nghiệp phục vụ Tổ quốc và nhân dân Việt Nam.                                  
Kính thư,

BS NGUYỄN QUÝ KHOÁNG




Copy từ: Bauxite Việt Nam

VÌ SAO VỪA NÓI LẠI VỪA... RUN?

Ngày 3 tháng 3 nam 2013

VÌ SAO VỪA NÓI LẠI VỪA... RUN?


Mấy hôm nay, kể từ khi lần đầu tham gia ký tên “ăn theo” vào "Bản Tuyên bố của các công dân tự do” (xin nghe ở đây, hoặc đọc ở đây) và được vinh dự mang “biển đăng ký số 42” mình được khá nhiều người gọi điện yêu cầu có bài viết “Vì sao bác lần đầu tiên chịu tham gia ký tên?”
Mình đã trả lời: Vì nó là bản TUYÊN BỐ với toàn thế giới chứ chẳng phải “Kính gửi bất cứ ai hoặc những tổ chức, tập thể nào mà mình...ghét cay ghét độc”. Mình chỉ là người “ăn theo” chứ không sáng kiến ra được cái việc làm rất đúng lúc của lớp trẻ hôm nay mà dám giải thích giải thút gì xất!!!


Và đến hôm nay, theo dõi phản ứng của nhiều phía, nhất là việc mình “báo động” cho mọi người "cuộc phát động xử lý" đã bắt đầu bằng một bài vạch rõ những điều CÁC TRÙM ĐẢNG cùng lũ chó điên đang dọa nạt tất cả mọi người - kêu gọi “HÃY CHỐNG LẠI KHI CHÚNG RA TAY!” - Quyết không ngoan ngoãn tra tay vào còng như trước nữa! Thế là chúng nổi điên thêm, gọi điện, gửi comment, viết trên các trang mạng chửi mình, gọi mình là “lão già điên” rồi đe dọa… cho mình “sớm về chầu tiên tổ”!

Mình chẳng hề lo sợ và cũng chẳng thèm trả lời những câu sủa càn của bầy chó dữ .

Tuy nhiên, mình rất chi là....buồn cho:

1- Một số ông mà “một thời mình đã tưởng có thể làm chỗ dựa cho mình đấu tranh...” Nhưng nào ngờ các vị này vẫn không từ bỏ “làm người cộng sản chân chính” dù đã bị những kẻ hậu sinh kết luận là suy thoái, là sai trái chứ chưa nói đến…phạm pháp!” và đã bị đe dọa “cần xử lý”!!!
Các vị ấy chẳng ngại gì công khai tuyên bố: “Không hề có tư tưởng hủy bỏ điều 4”???!!! ----------- Trời hỡi trời!!!

2-Theo dõi hàng ngày danh sách những ai ký tên vào bản “Tuyên bố quyền tự do công dân”, một phiên bản mới của "Hội Nghị Diên Hồng" trên mạng chưa từng có trong một xã hội “công an trị” thì :

3- Còn khá nhiều vị không muốn tham gia mà vẫn cho bản “hiến pháp khác” [mà mới đây 72 nhân sĩ đã đưa ra rồi “nộp” cho Ban Tiếp Nhận, và đã được chủ tịch Quốc Hội của đảng trả lời dứt khoát là “SAI” là “không đúng với chỉ thị 38/2013 (?!) chứ chưa nói là Phạm Pháp”] mới là bản đúng và đứng đắn cần phải ký... Cứ như thể bản kiến nghị (72) này vẫn có tác dụng hơn những lời kêu gọi của lớp trẻ hôm nay! Hoặc cố vớt vát: “Dù sao nó cũng hướng dẫn cho quần chúng những khái niệm về một bản hiến pháp chân chính!!!”

4-Sự tham gia của khối văn nghệ sỹ, đặc biệt của giới show biz, giới “nhà xí” (nhạc sỹ) gần như con số...0! Thật nhục nhã cho những cái loa chuyên gân cổ: “Đảng ta, bác Hồ muôn năm”, đàn em của đại “nhà xí”… họ Phạm!

Sau đây, XIN MỜI CÁC BẠN COI QUA MỘT VÀI Ý KIẾN MÀ TỚ KHÔNG THỂ CHỊU NỔI ĐẾN PHÁT VĂNG TỤC …: (thôi chả gõ ra nữa kẻo bẩn tai, bẩn mắt các bạn!)

Đọc thử coi nè:

....”Ở đâu thì tôi không rõ, chứ trong 7 điểm nêu trong Kiến nghi về sửa đổi Hiến pháp 1992, thì kiến nghị bỏ Điều 4 của Hiến pháp không đồng nghĩa với “phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng” theo cách hiểu của Tổng Bí thư. Xin nhắc lại nguyên văn nội dung của kiến nghị đó trong văn bản đã được trao cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”
Hoặc …
"Chính vì vậy chúng tôi đề nghị bỏ Điều 4 của Dự thảo. Việc tiếp thu đề nghị này tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị được xã hội chấp nhận“
.
Hoặc:
"Vì vậy giới trí thức chúng tôi muốn Đảng phải đổi mới mình, biết dựa vào dân. Trước đây đã đấu tranh giành được độc lập, bây giờ phải đấu tranh giành dân chủ. Tạo ra dân chủ, sẽ tạo ra sức mạnh mới, tạo tiền đề để Việt Nam gắn bó với thế giới chống lại âm mưu của Trung quốc..."

Và đây là đoạn đầu bài phỏng vấn của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh với đài BBC:

Tôi không nói về vấn đề phi chính trị hoá quân đội, tôi chỉ muốn Hiến pháp sửa cái câu là lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng cộng sản Việt nam. Tôi muốn sửa cái câu ấy bằng cái câu quân đội … lực lượng vũ trang phải trung thành với tổ quốc Việt nam, chứ tôi không nói phi chính trị gì. Tại sao tôi nói … là bởi vì trước đây Hồ chủ tịch nói là , quân đội phải trung với nước, hiếu với dân, thế thì nếu mà tôi sửa cái câu quân đội, à …, lực lượng vũ trang phải trung thành với tổ quốc Việt nam thì trong đó có cả Đảng cộng sản . Nếu mà quân đội không bảo vệ được tổ quốc Việt nam thì nếu mà tổ quốc việt nam mà mất thì cũng không còn Đảng cộng sản cho nên tổ quốc Việt nam mà còn thì vẫn còn Đảng cộng sản cho nên ý kiến của tôi là tôi không nói phi chính trị gì mà tôi chỉ nói là phải sửa là lực lượng vũ trang phải trung thành với tổ quốc Việt nam thôi … thế … và lâu nay vẫn là như thế.
Xin nghe tiếp bài phỏng vấn tướng Vĩnh ở đây

Kèm theo là những lời “khuyên” hay đe dọa:
Để bảo vệ lợi ích của Đảng ta là bảo vệ toàn bộ quyền lợi đảng viên trước nhân dân, các ông trí thức đảng viên phải rút tên ra khỏi kiến nghị 72, nhanh chóng góp sức cùng Đảng phản kích các thế lực nhân dân thù địch, các thế lực nhân dân phản động, các thế lực suy thoái đạo đức đang ra sức lợi dụng tự do dân chủ Internet chống phá Đảng ta qua việc gây nhiễu loạn đợt góp ý sửa đổi hiến pháp. Các ông đảng viên trí thức đang bắn vào chân mình.
Chỉ có bản dự thảo hiến pháp của Quốc hội ban hành đã được ban soạn thảo do Đảng chỉ định mới là chính danh, hợp pháp, được toàn thể nhân dân cả nước và loài người tiến bộ toàn thế giới ủng hộ.
Đả đảo dự thảo hiến pháp 72 do bọn suy thoái đạo đức, bọn đảng viên biến chất, bọn nhân dân phản động phát hành vi phạm pháp luạt của Đảng và Nhà nước.
Hoặc:
“Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Ý kiến nêu trên được tiếp thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đâọ chính trị (sic!) được xã hội chấp nhận"
Mình chả muốn nêu tên ai là ai vì chắc rằng: tất cả những người đã hàng ngày theo dõi trên mạng đều biết rõ ai là ai rồi!

Thế là, một lần nữa, những gì mà các ông ấy nói đã làm tớ mạnh dạn đi vào con đường “NÓI THẬT” lại bị các ông ấy làm cho vỡ mộng về một Goocba, một Eltsine Việt Nam và tớ bỗng nhớ về những gì tớ đã viết cách đây 4, 5 năm...

Và đây, tớ xin phép post lại một bài tớ đã viết lúc 84 tuổi, cách đây…3 năm để rồi đã phải mang « tội » với bên này là « quá khích » (!), còn với bên kia là « công an mạng gài vào »!?

(Ai chưa đọc xin chịu khó đọc, ai đọc rồi thì cho qua kẻo mất thời giờ đấy!):

DU KÍCH KÍ SỐ 20
Sep 29, '09 9:11 AM

XIN LỖI ÔNG CÔNG, TÔI PHẢN BIỆN

Chờ mãi không thấy ai lên tiếng, tớ đành… “múa rìu qua mắt Đảng viên kỳ cựu” mà phản biện một phần những tài liệu của các ông Đặng Quốc Bảo, Tống Văn Công được các trang mạng đăng đi đăng lại và được ông (hay bà Tâm Viêt nào đó) “oánh” túi bụi, đội cho các cái mũ chết người trên báo Q.D.N.D, như sau:

Tớ đặc biêt chú ý, đọc đi, đọc lại các bài “luận án” có một không hai của hai ông và thấy càng sáng tỏ,… sau một rừng phân tích, phản biện, tổng hợp từ lý luận đến thực tế, hai ông đều tỏ rõ thái độ lập trường của một ĐẢNG VIÊN KỲ CỰU CỦA “ĐẢNG NGÀY XƯA” ĐANG CỐ GẮNG GIÚP ĐỠ, VẠCH ĐƯỜNG CHO “ĐẢNG HÔM NAY” LÀM SAO HOÀN THIỆN MÌNH ĐỂ TIẾP TỤC LÃNH ĐẠO DÂN TỘC… tới xã hội công bằng, ấm no, hạnh phúc…

Giấy trắng mực đen còn đó… ông Đặng Quốc Bảo thì… “kính gửi” các người đàn em đang lãnh đạo các ông rằng “các chú sai thế này, sai thế nọ… rằng thì là… ný nuận thế này nhưng thực tế phải thế kia…" Để rồi cuối cùng là… “mong các đồng chí sẽ thế này, thế nọ”… Còn ông CÔNG thì vào đề ngay bằng cái tít “ĐỔI MỚI ĐẢNG TRÁNH NGUY CƠ XỤP ĐỔ”!?

Mục đích các bài viết của các ông rõ ràng muốn Đảng không xụp đổ mà “mách nước” cho các đàn em của các ông phải làm thế này, phảỉ… sửa thế nọ… và nổi bật nhất vẫn là đề cao công lao to lớn của Đảng trong “quá khứ oai hùng”, có công với dân với nước nên được dân tin cậy” (!)… Còn những cái sai dù sai hơn cả CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, tịch thu đất đai, nhà cửa, xí nghiệp tư nhân, đẩy hơn 3 triệu đồng bào vào con đường cùng của một dân tộc bị di cư về phía “kẻ thù”, không bao giờ có thể hòa giải được… thì các ông… lờ tịt… mà chỉ nói đến cái sai trước mắt là hai nạn “ngoại xâm” và “nội xâm”. Ngay cả những cái “thế mạnh” và “thế yếu” mà Đảng của các ông đang cần phải phát huy và sửa chữa… do các ông nêu ra thì… cũng đầy… mâu thuẫn!

Tôi có thể cãi nhau với các ông mặt đối mặt cả ngaỳ, cả tháng, cả năm, vì thưa các ông:

1- Các ông vẫn dựa trên phương pháp luận của những người “được phép nói” mà không sợ bị bắt nóng, bị lên tivi, nhận tội… vì rõ ràng là các ông đang góp ý xây dựng Đảng để… “Đảng sẽ cùng dân tộc đồng tiến tới tương lai vô cùng xán lạn” (trích câu kết luận của ông Công trong bài “Đổi mới Đảng để tránh nguy cơ xụp đổ”).

Chẳng hiểu sao mà đọc chỉ riêng cái tít và câu kết này thôi mà nhiều người lại có thể đưa các ông lên tận mây xanh của bầu trời cách mang triệt để? mà đăng đi đăng lại nhiều lần trên các trang mạng (?!), không một lời phê phán, bắt bẻ để đến nỗi nhiều người nhẹ dạ cả tin hua-ra các ông như thể… đã xuất hiện một Góobachốp, một Eltsine trên bầu trời Việt Nam...

2- Các ông lên án các chính sách “đổi mới nửa vời” và mách nước nên “từ bỏ vĩnh viễn Chủ Nghĩa Xã Hội” và “Đổi mới toàn diện” vì còn giữ cái đuôi này thì càng “khủng hoảng về ý thức hệ”.. bằng chính cái ý thức hệ không những đang khủng hoảng mà đã bị cả thế giới vứt vào sọt rác của lịch sử từ lâu rồi, nghĩa là cả thế giới và toàn dân Việt Nam đã biết hết cả rồi.
Các ông là những người “nói hộ” cho đa số thầm lặng mà thôi.
Còn với hàng chục triệu nạn nhân của của chủ nghĩa cộng sản (cả mới lẫn cũ), trong đó có cá nhân tôi thì, dù các ông có kể ra 3 hay 4 hay 5 hay 1000 “thế mạnh” của Đảng, cũng chỉ là những lý lẽ cù nhầy của những người đang cố ngoi đầu khỏi đầm lầy khủng hoảng ý thức hệ, cố bảo vệ những gì đã bị thực tế vạch trần ra là một… tà giáo, có tội với cả loài người chứ chẳng riêng gì với dân tộc Việt Nam, không hơn, không kém!
Hơn nữa “Đảng ngày nay” làm gì có cái ý thức hệ gì mà theo? Mắc xít ư? Mao ít ư?... Tư bản chủ nghĩa đỏ ư? Chứng cớ là ông Công còn ngây thơ (hay giả vờ) như thời ông Góoc Ba Chốp đã tuyên bố “Perestroika và Glasnost chính là để có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn!”....? Và đến khi, chủ nghĩa xã hội xụp đổ tan tành thì ông ta lại nói khác…! (nói gì thì cả thế giới đều biết sau “cái hôn tử thần” tặng Honếckơ trước giờ ông ta ra thẳng sân bay, bay về Máxcơva!")

“Chủ nghĩa cộng sản là không thể thay đổi mà chỉ có …loại bỏ!” Lời tuyên bố này của Eltsine chắc hai ông không thể không biết! Tôi mong các ông nói dzậy mà không phải dzậy y như ông Góoc-ba thì may cho dân ta biết mấy!

Nhưng tôi hoàn toàn thất vọng khi đọc đến phần mách nước cho Đảng của ông Công:

1- Đổi tên Đảng, (như Đảng đàn em Campuchia), và cho phép Đãng Xã Hội và Dân Chủ (chắc không phải Đảng Dân chủ của ông Hoàng Minh Chính) được hoạt động trở lại…

2- Trở lại hiến pháp năm 1946! Riêng điều 4 của hiến pháp hiên nay ông Công xử dụng những cụm từ rất lạ (như “tầu lạ”) là… “luật hóa điều 4”!!? Chắc ông lo có nhiều đồng chí mới của ông …tự sát thật!

3- Riêng vấn đề ĐA ĐẢNG thì ông lại có cái sáng kiến Đa Đảng KIỂU LẠ ĐỜI: “Đảng ta nên học tập Đảng xã hôi Pháp năm 1920, tách ra thành hai Đảng (?!). Một Đảng “đối lập” có tên gì đó để thành lập một Đảng đối lập (!?)” vv… và vv… mà càng đọc càng thấy đúng là ông Công đang… khủng hoảng về ý thức hệ thật sự! Phải chăng ông vẫn muốn cầm chắc cái thẻ 50 tuổi Đảng của ông trong tay để …may ra…

Tiếc thay, tới giờ, vẫn chưa có ai phản biện cả cái mớ lý luận dài dòng nhưng cực kỳ… khủng hoảng này, kể cả lập trường, động cơ của các vị đang muốn “Đổi mới Đảng dể tránh nguy cơ xụp đổ”, (tên bài viết của ông Công) đã công khai và minh bạch cái góp ý đổi mới lạ lùng này cả!

Dù sao, tớ cũng xin hoan nghênh các ông ấy đã mạnh dạn nêu ra cái thực trạng kinh tế chính trị của nước ta và đều khẳng định PHẢI TỪ BỎ VĨNH VIỄN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, vạch ra hai cái họa NỘI XÂM và NGOẠI XÂM, không nể nang, sợ hãi. Nhưng LÀM GÌ? LÀM THẾ NÀO? thì tớ hoàn toàn thất vọng, trừ khi …trước khi phản biện các ông ấy cho ra một bản tuyên bố đại khái như sau:

Chúng tôi, có tên sau đây… tên, tuổi đảng, tuổi đời… chức vụ… địa chỉ…
Trứoc tình hình… 1, 2, 3, 4,… nay tuyên bố: Đảng đang nắm chính quyền đương thời "mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng như A, B, C,… Z…" nay cùng tuyên bố LY KHAI KHỎI ĐẢNG ĐỂ ĐƯỢC TRỞ VỀ ĐỨNG TRONG “HÀNG NGŨ NHÂN DÂN,…VÀ KHÔNG CHỊU TRÁCH NHIỆM GÌ VỀ MỌI CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẨNG CẦM QUYỀN NỮA…" rồi thì góp ý trên cương vị một công dân Việt Nam yêu cầu những điều ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC phải điều chỉnh như A, B, C, D ...Rồi cùng ký tên…

Đó mới là điều, tớ, một kẻ “lực bất tòng tâm” trước tình hình đất nước, mơ ước nhìn thấy những năm tháng cuối đời.

Lúc ấy, tớ mới thấy Tin Tưởng là: Đã có những cái ĐẦU TẦU có thể kéo cả nhân dân ta đi về một “tương lai xán lạn” thật sự.

Copy từ: NS Tô Hải
Đọc thêm:  ở đây

Khối Trí thức (Câu lạc bộ Truyền thống Kháng chiến TP HCM) góp ý sửa đổi Hiến pháp


Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 01 năm 2013
Bản Tổng hợp góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Câu lạc bộ Truyền thống Kháng chiến TP HCM (Khối Trí thức)
Căn cứ Nghị Quyết số 38/2012/QH 13 ngày 23-11-2012 của Quốc hội khóa XIII về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 24 tháng 01 năm 2013 Câu lạc bộ Truyền thống Kháng chiến Thành phố Hồ Chí Minh (Khối Trí thức) đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992. Đến dự Hội nghị có khoảng 100 hội viên, trên 30 lượt phát biểu, trong đó 10 phát biểu có văn bản (đính kèm), các ý kiến được tập hợp như sau:
Trước khi phát biểu chúng tôi băn khoăn trước sự kiện trái ngược: Chỉ thị số 22 CT/TW ngày 28-12-2012 của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do TBT Nguyễn Phú Trọng ký xác định: “1. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai và Kết luận Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI”; trong khi đó tại cuộc họp khai mạc Hội nghị toàn quốc triển khai tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 08-01-2013, ông Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, phát biểu “[…] tạo điều kiện người dân có thể thể hiện các quan điểm, chính kiến về toàn bộ bản Hiến pháp nói chung cũng như đối với từng điều khoản cụ thể của Hiến pháp”.
Như vậy, là có khác nhau: một bên “quán triệt”, một bên “có thể thể hiện các quan điểm, chính kiến”. Chúng tôi vì lợi ích của tổ quốc, của nhân dân chọn cách phát biểu như sau:
Một là: Đề nghị đổi tên Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thành tên Dự thảo Hiến pháp 2013.
Hai là: Đề nghị thể chế Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và XI về “cải cách kinh tế đồng thời cải cách chính trị; làm rõ cơ chế mối quan hệ Đảng, Quốc hội và Nhân dân, thể hiện trong Hiến pháp.
Ba là: Nhận xét chung
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 có một số tiến bộ so với Hiến pháp 1992 đó là bổ sung về “quyền con người” (Chương II Dự thảo), lập một số cơ quan Hiến định mới: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, thành lập cơ quan Kiểm toán (các điều 120, 121 và 122 Dự thảo); không coi kinh tế nhà nước là chủ đạo (điều 54 Dự thảo). Tuy nhiên Dự thảo vẫn phản ảnh sự áp đặt ý chí, quan niệm cũ về Hiến pháp, quan tâm nhiều đến sự ổn định của chế độ hơn là quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân, có nhiều điều khoản mang tính tuyên ngôn thiếu nội hàm cụ thể.
Bản Dự thảo Hiến pháp chưa thể phản ánh bản chất tự nhiên của một Hiến pháp dân chủ, đó là phản ánh sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân đối với chính quyền theo tinh thần có sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với quyền lực. Kiểm soát bên trong của các nhánh quyền lực bằng các cơ chế kiềm chế, đối trọng của các nhánh lập pháp - hành pháp - tư pháp không thể vượt quá qui định của luật. Kiểm soát bên ngoài là xã hội dân sự mà tiền đề là các quyền tự do dân sự và chính trị: tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do biểu tình…
Hiến pháp phải mang tính chính đáng; tính chính đáng này còn quan trọng hơn cả tính pháp lý. Tính chính đáng này được đo bằng một số tiêu chí chính:
Thứ nhất, Hiến pháp phải thể hiện ý chí chung của toàn dân, thể hiện sự đồng thuận của nhân dân để thành lập chính quyền.
Thứ hai, Hiến pháp phải có mục tiêu kiến tạo hạnh phúc, tự do, công bằng, đoàn kết, loại bỏ mọi sự chia rẽ hay áp bức, hướng tới sự phát triển bền vững của dân tộc.
Thứ ba, về mặt pháp lý, Hiến pháp phải được xây dựng theo các nguyên tắc pháp luật phổ thông của thế giới văn minh, phù họp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Bốn là: Góp vào các nội dung cụ thể
Về Lời nói đầu: Nhìn chung là viết ngắn gọn hơn Hiến pháp hiện hành, nhưng vẫn dài dòng; về lịch sử 4.000 năm dựng nước, giữ nước, mở cõi và xây dựng đất nước thì viết quá ngắn (chưa đủ 4 dòng); trong khi nói về lịch sử từ khi có Đảng 1930 đến nay (83 năm), thì viết quá dài (28 dòng). Cách thể hiện như vậy là không cân đối. Vì vậy, chúng tôi đề nghị viết ngắn gọn như nhiều Hiến pháp của các nước tiên tiến trên thế giới. Cụ thể có thể viết như sau:
Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì tự do và độc lập của dân tộc.
Vì một xã hội dân chủ-công bằng-văn minh-pháp quyền, vì tự do và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai.
Chúng tôi nhân dân Việt Nam thông qua Bản Hiến pháp này”.
Về Chương I.
Nguyên tắc chủ quyền nhân dân “nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân”. Lịch sử cho thấy chỉ dưới các chế độ phong kiến, các chế độ chuyên chế mới có việc xác định một dòng họ, một gia tộc, một lực lượng chính trị là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Người dân Việt Nam từ lâu đã có năng lực để vượt qua mọi khó khăn, hy sinh trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng tổ quốc, nhất định có đủ sáng suốt để lựa chọn người có đủ khả năng và đạo đức để lãnh đạo đất nước. Nhân dân Việt Nam phải có quyền tự do lựa chọn ra những người sẽ phục vụ lợi ích của họ và của đất nước, có quyền tự do chọn ra những người xứng đáng với niềm tin và xứng đáng nhận tiền lương mà nhân dân chi trả.
Một chính đảng có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử.
Vì vậy, chúng tôi băn khoăn về việc tồn tại hoặc cách thể hiện của Điều 4, mặc dù có bổ sung; có ý kiến đề nghị bỏ Điều 4; có ý kiến đề nghị giữ như Dự thảo và bổ sung “theo qui định của luật. Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 4 này một đoạn “Đối với các vấn đề có liên quan đến sự phát triển, sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự tồn vong của dân tộc, Đảng phải được sự đồng thuận của Quốc hội, phải trưng cầu ý dân. Do đó điều cần thiết là phải biên tập lại làm rõ nội hàm giữa các điều 2, 4 và 74 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thể chế cụ thể qui định của Nghị quyết X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách chính trị
Đề nghị sửa đổi cụ thể như sau:
Điều 1.
Lấy lại tên nước là: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đề nghị bỏ tất cả cụm từ “xã hội chủ nghĩa và cụm từ định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, vì nó không có nội hàm cụ thể.
Điều 2
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Có ý kiến đề nghị bỏ đoạn mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” thay vào đó là đoạn “mà nền tảng là Đại đoàn kết dân tộc”.
Một số ý kiến đề nghị thực hiện tam quyền phân lập do Montesquieu (1689-1755) đề xuất, hiện đang được các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng. Nội dung cốt lõi của học thuyết này là phân chia, chế ước, kiểm soát quyền lực nhằm chống lạm quyền của các quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Montesquieu cho rằng: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện nguyên lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật chỉ để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nữa nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp, thì quan tòa sẽ có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức, hoặc của quan chức, hoặc của quí tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên, thì tất cả sẽ mất hết”.
Điều 4
1. “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.”
Có ý kiến đề nghị làm rõ: Nói “chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”, nếu quyết định sai, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng, xâm hại đến lợi ích của dân tộc, của nhân dân, thì cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền phán xét?
3. Các tổ chức của Đảng đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Điều 74Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”
Như thế “quyền lực cao nhất” nằm ở đâu? Ở nhân dân? Ở Quốc hội? Ở Tòa án? Ở Đảng?
Có ý kiến đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa các Điều 2Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, Điều 74Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Điều 4. “Đảng Cộng sản Việt Nam […] là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Thực chất là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam bao trùm lên cả ba bộ phận về nhân sự, đường lối chánh sách và cả tổ chức thực hiện. Đó là một điều nghịch lý.
Theo tài liệu “Đại biểu Quốc hội khóa XIII 2011-2016” do Ban Công tác đại biểu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội biên soạn (nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội – 2011) thì trong 13 khóa Quốc hội, chỉ có khóa Quốc hội đầu tiên năm 1946, đại biểu Quốc hội là người có Đảng phái chiếm 57%, trong thời kỳ đó 57% là bao gồm nhiều đảng, phái khác nhau. Nhưng Quốc hội khóa I đã ban hành Hiến pháp 1946: đoàn kết dân tộc, thể hiện được khát vọng của dân tộc là độc lập dân chủ, tự do; lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kéo dài 8 năm.
Còn 12 khóa tiếp theo, khi Đảng Cộng sản Việt Nam đã cầm quyền, thì đại biểu Quốc hội là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam thấp nhất là 73-75, 40% (khóa IV và V) còn lại là trên 80% có 4 khóa tỷ lệ này là trên 90% (khóa VIII, IX, XII và khóa XIII hiện nay (2011-2016) tỷ lệ này là 91, 60%).
Số đại biểu không là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là các vị chức sắc của các tôn giáo và một số vị nhân sĩ.
Điều 9. Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011, thì “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Chúng ta đều biết lãnh đạo Quốc hội có “Đảng đoàn Quốc hội” và các Ủy ban, Hội đồng dân tộc của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội đều có tổ chức Đảng; Trưởng đoàn, Phó đoàn các Đoàn Đại biểu Quốc hội của các tỉnh, thành phố đều có là các vị lãnh đạo Đảng ở địa phương.
Cách cơ cấu, tổ chức 11 khóa vừa qua và hiện nay của Quốc hội, thì Quốc hội thực chất là hội nghị đảng viên mở rộng bao gồm cán bộ các cấp, các ngành trên phạm vi cả nước với Trung ương, không có đại biểu thật sự là nhân dânđược hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc cử tri cũng được chọn “cử tri chuyên trách nên Quốc hội không nghe được tiếng nói, tâm tư, nguyện vọng, thể hiện được ý chí thật của toàn thể nhân dân, của cả dân tộc mà chỉ nghe qua phản ảnh ý kiến, kiến nghị của cử tri đã được “lọc” của “cử tri chuyên trách”, tiếp đến lại được “lọc” một lần nữa là các đại biểu Quốc hội là đảng viên, các “đại biểu kiêm nhiệm”.
Trong khi đó, thì lời văn, câu chữ ghi trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, trang 88)
Vấn đề đặt ra là làm sao những nội dung hiến định thể hiện ở Điều 74 (“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”) Điều 2 (“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”) có ý nghĩa trên thực tế. Đây cũng là điểm mấu chốt khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó (8 phương hướng) phải đặc biệt chú trọng và giải quyết các mối quan hệ lớn […] giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, trang 72-73)
Điều 5, Khoản 1, đề nghị bổ sung “có quốc tịch Việt Nam
Điều 9, Khoản 3, đề nghị bổ sung “tôn trọng”sau chữ nhà nước.
Điều 21, đề nghị bổ sung “được tự do, được mưu cầu hạnh phúc”
Về Chương II Quyền con người-Quyền và nghĩa vụ công dân
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 bổ sung qui định về quyền con người để phù hợp với nội dung các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã hàng chục năm qua là một sự kiện đáng hoan nghênh so với Hiến pháp hiện hành. Tuy nhiên, cách thể hiện chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đề nghị các quy phạm qui định về nhân quyền - quyền công dân ví dụ như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền hội họp, quyền lập hội, quyền biểu tình… phải được qui định một cách rõ ràng. Mặc dù Hiến pháp hiện hành đã qui định “quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật qui định” (Điều 51 Hiến pháp 92; Điều 20 Dự thảo sửa đổi) có nghĩa là qui định về các quyền cơ bản của công dân phải do Quốc hội ban hành, nhưng cũng trong chương này của Hiến pháp hiện hành cũng như Dự thảo có một số chỗ lại ghi “theo qui định của pháp luật”. Cách ghi không thống nhất này đã tạo điều kiện để cho một số người có quyền không tốt lợi dụng ban hành các văn bản dưới luật để cản trở các quyền cơ bản của công dân. Có quyền bị “treo” 67 năm chưa có luật qui định, thậm chí dùng qui định của văn bản dưới luật để ngăn cản như “quyền biểu tình”… Có chỗ qui định “tù mù” như “Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân (Điều 16 khoản 2 Dự thảo).
Chúng tôi yêu cầu các qui định trong Hiến pháp về quyền con người phải phù hợp với Công ước quốc tế “Về quyền dân sự và chính trị” mà Việt Nam là thành viên từ năm 1982.
Cụ thể: Điều 16 Dự thảo, đề nghị bỏ đoạn “lợi dụng quyền con người, quyền công dân”. Chữ “lợi dụng” không rõ nghĩa, người cầm quyền có thể sử dụng để ngăn cản người dân thực hiện nhân quyền hoặc quyền công dân.
Điều 25 Khoản 3 Dự thảo, đề nghị bỏ đoạn “hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để vi phạm pháp luật”, lý do như nêu trên.
Điều 31 Khoản 3 Dự thảo, đề nghị bỏ đoạn “hoặc lợi dụng quyền khiếu nại tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”, lý do như nêu trên.
Điều 50 Dự thảo qui định: “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế”. Có phân biệt người có thu nhập và người chưa có thu nhập không? Trẻ sơ sinh, vị thành niên, người già cô đơn… thì giải quyết, xử lý thế nào?
Chương III Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường
Về đất đai, Điều 57, chế độ sở hữu về đất đai đã tồn tại lâu đời trên đất nước ta, đó cũng là một trong các động lực để người nông dân tham gia kháng chiến mong được“người cày có ruộng”. Việc sao chép Hiến pháp Liên Xô vào Hiến pháp nước ta từ năm 1980 là điều hoàn toàn xa lạ đối với nhân dân Việt Nam, tạo ra hàng triệu cuộc khiếu kiện trong các năm qua là phần nổi của tảng băng chìm hết sức nguy hiểm và trên thực tế đã gây nên tình trạng xã hội ngày càng bất ổn. Việc đánh đồng sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân về đất đai tạo điều kiện cho các quan chức tham nhũng, lộng quyền, bắt tay với bọn tư nhân gian manh cùng trục lợi, gây thiệt hại cho nhân dân, đặt biệt là nông dân. Đã từ lâu Khối Trí thức đã đề nghị đã là “kinh tế thị trường” thì phải đa sở hữu đất đai.
Vì vậy, đề nghị sửa đổi bổ sung Điều 57 Dự thảo: “[…] Sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng và nhà nước về đất đai được tôn trọng”.
Đề nghị sửa khoản 3 Điều 57 Dự thảo thay từ “thu hồi” bằng “thu mua”; không sử dụng cụm từ “và các dự án phát triển kinh tế-xã hội. Chỉ dùng từ “thu hồi” đất đai đối với bọn tham nhũng và kẻ vi phạm luật đất đai.
Đề nghị bổ sung Điều 56 Dự thảo: “bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Đề nghị bổ sung Điều 64 Dự thảo: gia đình là nền tảng của xã hội và văn hóa Việt Nam, […] gắn bó với gia đình với quê hương, đất nước và với dân tộc”.
Đề nghị bổ sung Điều 66 Dự thảo: phổ cập giáo dục không phải đóng học phí”.
Chương IV Bảo vệ Tổ quốc
Hiến pháp qui định về thành lập Nhà nước nhằm bảo vệ nhân dân, luôn đặt lợi ích của tổ quốc và nhân dân lên trên hết bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và nhân dân. Vì vậy, đề nghị giữ nguyên Điều 45 Hiến pháp 92, bỏ phần bổ sung “với Đảng Cộng sản Việt Nam” của Điều 70 Dự thảo. Không thể đặt Đảng đứng trên Tổ quốc, trên nhân dân. Thực hiện đúng theo lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh quân đội trung với nước hiếu với dân”; trong tình hình Đảng hiện nay “một bộ phận không nhỏ suy thoái tư tưởng, thoái hóa biến chất, tham nhũng” (Nghị quyết Trung ương 4), bọn xấu còn cầm quyền có thể sử dụng quân đội để đàn áp nhân dân, bảo vệ lợi ích cho bọn quan tham.
Chương V Quốc hội
Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân không là cán bộ, công chức của các cơ quan chịu sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Đề nghị làm rõ nội hàm của thuật ngữ nhà nước. Trong Dự thảo Hiến pháp có hàng trăm chữ nhà nước? Nhà nước là ai? Là Chính phủ, là UBND các cấp hay tổ chức Đảng hay các Đoàn thể? Phải phân biệt rạch ròi từ đó để xác định trách nhiệm, không thể viết tù mù không xác định địa chỉ. Đây cũng chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân của lạm quyền, tham nhũng, thiếu trách nhiệm của bộ máy công quyền hiện nay.
Đề nghị gọi Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Tòa án là “tổ chức”, không gọi là “cơ quan”, vì “cơ quan” là tổ chức thống nhất thực hành theo chế độ thủ trưởng còn Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Tòa án làm việc theo nguyên tắc tập thể, các thành viên đều bình đẳng, thảo luận và quyết định theo đa số.
Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Bí thư, Chủ tịch UBND không tham gia ứng cử Đại biểu Quốc hội hoặc nếu trúng cử, thì phải từ bỏ chức vụ hành chính đang đảm trách.
Chương VI Chủ tịch nước.
Có ý kiến đề nghị Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam kiêm luôn Chủ tịch nước hoặc Chủ tịch nước phải là Tổng Bí thư.
Chương IX Chính quyền địa phương
Về cơ bản viết như luật hiện hành: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương”, “Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của HĐND”.
Đề nghị bổ sung các thành phố lớn trực thuộc trung ương thành lập “chính quyền đô thị”.
Có ý kiến đề nghị viết về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân nên viết thành hai chương hoặc hai phần riêng biệt tương tự như Quốc hội và Chính phủ. Hội đồng nhân dân có tính độc lập chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương. Đề nghị viết lại như sau: “Hội đồng nhân dân là tổ chức đại diện của nhân dân địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và luật pháp quốc gia”.
Chương X Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước.
Về Hội đồng Hiến pháp Điều 120 (mới) Dự thảo, đề nghị Hội đồng Hiến pháp có quyền “tài phán”, ra quyết định về tính hợp hiến của văn bản, đình chỉ, bãi bỏ văn bản, quyết định, hành vi vi phạm Hiến pháp; không phải chỉ “kiến nghị”, “yêu cầu – đó chỉ là nhiệm vụ của cá nhân, cơ quan, tổ chức “tham mưu”, “giúp việc” tương ứng như qui định hiện hành.
Trên đây là Bản tập hợp các ý kiến góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại cuộc Hội nghị của CLB kháng chiến TP Hồ Chí Minh - Khối trí thức, ngày 24 tháng 01 năm 2013, tại Trụ sở 114 Nam Kỳ Khởi nghĩa, Quận 1 Tp Hồ Chí Minh
(Kèm theo 10 văn bản góp ý)
Chủ tọa Hội nghị
Lê Văn Oanh
Nơi nhận:
-Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 92 (Hà Nội)
-Ban Tổ chức lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp TP HCM
-Đoàn Đại biểu Quốc hội TP
-Ban Chủ nhiệm CLB Kháng chiến
-Lưu
Nguồn: Một thân hữu gửi trực tiếp cho BVN.




Copy từ: Bauxite Việt Nam

Đọc thêm: ở đây

Đã có 7900 người ký tên vào Kiến Nghị 72

6611. Phan Thị Hùng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6612. Nguyễn Văn Khoan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6613. Phan Văn Ân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6614. Nguyễn Thị Trung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6615. Trần Văn Đô, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6616. Nguyễn Thị Phú, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6617. Nguyễn Thi, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6618. Nguyễn Văn Hùng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6619. Nguyễn Văn Nam, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6620. Nguyễn Văn Nhân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6621. Trần Ngọc Cung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6622. Nguyễn Văn Thủy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6623. Nguyễn Văn Phương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6624. Nguyễn Văn Lưu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6625. Nguyễn Thái Vượng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6626. Nguyễn Hoàn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6627. Phạm Thi, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6628. Phạm Dương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6629. Phan Lân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6630. Nguyễn Quế, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6631. Nguyễn Văn Ước, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6632. Hoàng Văn Căn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6633. Nguyễn Văn Sáng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6634. Phan Văn Mai, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6635. Phan Đức Lành, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6636. Ngô Thị Tuyết, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6637. Hồ Ất, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6638. Nguyễn Thị Trí, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6639. Nguyễn Văn Vui, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6640. Nguyễn Văn Diệu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6641. Trần Hiệp, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6642. Nguyễn Văn Kinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6643. Phan Thị Hồng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6644. Phan Văn Thanh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6645. Nguyễn Thị Lành, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6646. Nguyễn Quang Tuyến, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6647. Nguyễn Đình Thức, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6648. Ngô Tương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6649. Nguyễn Văn Thủy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6650. Nguyễn Hưởng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6651. Trần Thủy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6652. Trần Xuân Huệ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6653. Phan Linh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6654. Trần Thị Tín, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6655. Nguyễn Văn Hóa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6656. Nguyễn Văn Dương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6657. Nguyễn Thị Lập, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6658. Nguyễn Văn Ngọc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6659. Nguyễn Văn Thanh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6660. Nguyễn Văn Danh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6661. Nguyễn Văn Thiện, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6662. Nguyễn Tùng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6663. Hoàng Văn Châu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6664. Nguyễn Thị Tín, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6665. Hoàng Văn Trang, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6666. Hoàng Văn Nghiên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6667. Trần Văn Thiệu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6668. Bùi Văn Công, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6669. Bùi Văn Thủy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6670. Bùi Văn Tâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6671. Đinh Hồng Lực, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6672. Bùi Minh Châu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6673. Hồ Văn Sơn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6674. Bùi Đình Thuận, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6675. Hồ Văn Quýt, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6676. Hồ Văn Sơn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6677. Hồ Văn Tính, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6678. Phan Thị Thái, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6679. Hồ Thị Nhung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6680. Hồ Thị Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6681. Lê Văn Hợp, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6682. Lê Thị Hoa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6683. Lê Văn Sâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6684. Lê Thị Thu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6685. Lê Văn Khuy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6686. Bùi Thị Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6687. Bùi Đức Viện, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6688. Bùi Văn Bộ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6689. Bùi Đức Nhàn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6690. Đinh Thị Quỵ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6691. Bùi Văn Linh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6692. Hồ Văn Thuận, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6693. Đặng Thị Quyền, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6694. Bùi Văn Hòa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6695. Bùi Đức Phi, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6696. Bùi Văn Đồng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6697. Bùi Thị Mai, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6698. Bùi Văn Dương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6699. Đinh Ngọc Thạnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6700. Hà Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6701. Bùi Văn Chế, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6702. Hồ Minh Toàn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6703. Nguyễn Văn Chính, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6704. Nguyễn Đình Pháp, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6705. Nguyễn Trình, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6706. Nguyễn Đoan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6707. Bùi Dung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6708. Hồ Xuân Diên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6709. Nguyễn Văn Trí, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6710. Bùi Dũng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6711. Hồ Thuận, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6712. Phê rô Hiệp, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6713. Tê rê xa Thanh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6714. Bùi Thị Hạnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6715. Phê rô Hoàng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6716. Phê rô Hoàng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6717. Phê rô Trường, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6718. Nguyễn Phúc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6719. Bùi Thị Phượng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6720. Trần Thị Đào, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6721. Bùi Thị Hạnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6722. Nguyễn Văn Đại, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6723. Giu se Châu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6724. Phê rô Quyền, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6725. Vũ Văn Hậu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6726. Phê rô Thành, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6727. Hà Viện, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6728. Bùi Trí, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6729. Nguyễn Đại, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6730. Bùi Thị Loan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6731. Bùi Văn Tin, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6732. Nguyễn Văn Phương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6733. Nguyễn Văn Đám, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6734. Nguyễn Văn Cử, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6735. Nguyễn Văn Trọng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6736. Nguyễn Trọng Khánh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6737. Nguyễn Tĩnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6738. Lê Văn Liêm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6739. Ngô Văn Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6740. Nguyễn Trọng Quế, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6741. Nguyễn Tuân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6742. Nguyễn Văn Phú, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6743. Nguyễn Văn Tú, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6744. Nguyễn Thị Hưng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6745. Nguyễn Thị Tạo, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6746. Phan Văn Vinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6747. Phan Văn Sáng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6748. Phan Văn Thanh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6749. Trần Thị Dũng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6750. Nguyễn Văn Pháp, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6751. Nguyễn Văn Sự, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6752. Nguyễn Văn Nghiên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6753. Nguyễn Thị Nga, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6754. Nguyễn Thị Lan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6755. Ngô Thị Trọng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6756. Nguyễn Văn Hiếu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6757. Bùi Văn Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6758. Hồ Thị Huyền, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6759. Bùi Văn Hồng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6760. Nguyễn Hóa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6761. Nguyễn Thị Lý, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6762. Nguyễn Phước, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6763. Bùi Thị Huyên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6764. Nguyễn Văn Cần, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6765. Nguyễn Thị Duyên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6766. Bùi Thụy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6767. Nguyễn Chính, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6768. Bùi Hảo, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6769. Bùi Mỹ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6770. Nguyễn Văn Kính, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6771. Thái Văn Hạnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6772. Nguyễn Thị Tâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6773. Phan Thị Huyên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6774. Nguyễn Thị Hoan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6775. Nguyễn Thị Quý, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6776. Nguyễn Thị Vinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6777. Nguyễn Thị Trang, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6778. Nguyễn Thị Vương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6779. Nguyễn Huyền Nhung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6780. Nguyễn Văn Nguyên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6781. Trần Thị Thanh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6782. Trần Văn Ngọc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6783. Đậu Văn Dũng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6784. Triệu Thị Dung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6785. Đậu Văn Viễn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6786. Nguyễn Văn Phượng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6787. Nguyễn Văn Hải, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6788. Nguyễn Văn Tình, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6789. Nguyễn Thị Phúc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6790. Nguyễn Thị Bích, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6791. Nguyễn Thị Hằng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6792. Nguyễn Văn Trọng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6793. Nguyễn Văn Hồng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6794. Nguyễn Thị Trinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6795. Nguyễn Thị Huệ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6796. Nguyễn Thị Tứ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6797. Nguyễn Thị Vinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6798. Nguyễn Thị Tín, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6799. Nguyễn Thị Tình, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6800. Nguyễn Thị Năng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6801. Nguyễn Thị Hạ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6802. Nguyễn Thị Ca, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6803. Nguyễn Văn Cậy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6804. Nguyễn Văn Diễm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6805. Chu Thị Thảo, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6806. Nguyễn Văn Tuy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6807. Nguyễn Thị Loan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6808. Nguyễn Văn Trọng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6809. Nguyễn Thị Châu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6810. Nguyễn Hiếu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6811. Nguyễn Thị An, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6812. Nguyễn Thị Lan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6813. Đậu Thị Nhung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6814. Hồ Thị Lý, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6815. Hồ Thị Hoa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6816. Nguyễn Thị Lý, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6817. Phan Thị Thế, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6818. Nguyễn Thị Hân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6819. Nguyễn Thị Tâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6820. Bùi Văn Hảo, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6821. Nguyễn Thị Dung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6822. Trần Thị Tín, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6823. Trần Thị Quỳnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6824. Nguyễn Thị Đoài, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6825. Phan Thị Xinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6826. Nguyễn Thị Đông, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6827. Bùi Thị Tâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6828. Trần Thị Hoan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6829. Nguyễn Thị Cầu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6830. Nguyễn Văn Kế, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6831. Phan Thị Khuê, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6832. Đậu Phán, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6833. Phan Thị Sáu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6834. Phan Văn Thuận, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6835. Trần Thị Hường, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6836. Trần Văn An, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6837. Phan Xuân Hạnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6838. Ngô Thị Thiện, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6839. Phan Thị Hân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6840. Phan Thị Hoa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6841. Phan Thị Thành, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6842. Phan Văn Tâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6843. Phan Văn Linh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6844. Phan Văn Bình, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6845. Phan Thị Phương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6846. Phan Đình Nam, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6847. Phan Đình Bắc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6848. Bùi Thúy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6849. Bùi Thị Năm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6850. Bùi Thị Tăm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6851. Bùi Thị Lâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6852. Nguyễn Đức Phượng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6853. Bùi Thị Thanh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6854. Nguyễn Duệ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6855. Nguyễn Thị Hạ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6856. Bùi Hậu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6857. Bùi Phúc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6858. Nguyễn Văn Đức, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6859. Đinh Thị Luật, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6860. Nguyễn Văn Đoài, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6861. Thái Văn Phúc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6862. Phan Văn Hường, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6863. Trần Xuân Thạch, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6864. Phan Thị Dung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6865. Nguyễn Văn Trung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6866. Thái Văn Đức, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6867. Nguyễn Thị Hoa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6868. Thái Thị Hương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6869. Thái Văn Sơn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6870. Thái Văn Linh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6871. Thái Thị Thịnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6872. Nguyễn Văn Tiên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6873. Trần Văn Tuyết, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6874. Hoàng Thanh Đương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6875. Nguyễn Văn Long, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6876. Ngô Đình Lý, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6877. Trần Văn Châu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6878. Hoàng Thị Thông, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6879. Nguyễn Thị Hội, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6880. Nguyễn Thị Lập, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6881. Nguyễn Kim Cẩn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6882. Nguyễn Văn Ý, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6883. Phan Văn Nhan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6884. Hoàng Văn Đức, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6885. Bùi Thị Hồng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6886. Phan Thị Thinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6887. Bùi Văn Hậu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6888. Bùi Công Hoan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6889. Nguyễn Văn Giáp, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6890. Phan Thị Sáng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6891. Bùi Văn Thanh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6892. Bùi Đức Tình, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6893. Bùi Đức Tâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6894. Bùi Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6895. Vũ Hải, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6896. Bùi Hùng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6897. Bùi Tuyết, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6898. Nguyễn Hạnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6899. Bùi Châu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6900. Bùi Cảnh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6901. Bùi Hiền, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6902. Bùi Hương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6903. Bùi Hiện, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6904. Đinh Văn Châu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6905. Bùi Thị Hương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6906. Bùi Văn Khánh, sinh viên, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6907. Nguyễn Minh Lân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6908. Trần Thị Quy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6909. Hồ Văn Nguyên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6910. Nguyễn Thị Hồng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6911. Nguyễn Thế, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6912. Nguyễn Văn Phúc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6913. Nguyễn Thị Bích, công nhân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6914. Phan Thị Vân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6915. Nguyễn Thị Hiệp, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6916. Nguyễn Thị Phú, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6917. Ngô Thị Cậy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6918. Nguyễn Thị Tín, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6919. Nguyễn Thị Nhung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6920. Nguyễn Thị Hương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6921. Nguyễn Thị Hà, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6922. Phan Văn Học, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6923. Nguyễn Văn Đoàn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6924. Nguyễn Thị Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6925. Nguyễn Văn Cường, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6926. Nguyễn Thị Ngọc Yến, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6927. Nguyễn Thị Thúy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6928. Nguyễn Văn Cận, học sinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6929. Nguyễn Thị Hà, học sinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6930. Vũ Xuân Kỳ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6931. Trần Văn Khương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6932. Trần Văn Dũng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6933. Phạm Văn Nhung, Thợ xây, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6934. Nguyễn Thị Nguyên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6935. Phan Thị Hồng, học sinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6936. Bùi Thị Thơm, giáo viên, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6937. Phan Văn Xuân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6938. Nguyễn Văn Đức, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6939. Ngô Đình Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6940. Nguyễn Văn Hòa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6941. Nguyễn Hữu Phúc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6942. Nguyễn Văn Vinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6943. Nguyễn Mạnh Hằng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6944. Đinh Loan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6945. Nguyễn Ngọc Thái, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6946. Nguyễn Thế, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6947. Nguyễn Thị Thìn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6948. Phan Tương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6949. Nguyễn Chương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6950. Hoàng Văn Hậu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6951. Hoàng Triều, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6952. Nguyễn Thị Hải, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6953. Phạm Văn Ân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6954. Phạm Văn Nhân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6955. Phạm Văn Đức, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6956. Phạm Văn Tin, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6957. Phạm Thanh Thúy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6958. Nguyễn Thị Chính, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6959. Hoàng Thị Hiển, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6960. Trịnh Thị Hồng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6961. Phan Thị Vinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6962. Nguyễn Văn Toàn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6963. Nguyễn Thị Tiết, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6964. Nguyễn Thị Trinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6965. Nguyễn Mạnh Trường, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6966. Phan Thị Nhân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6967. Nguyễn Văn San, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6968. Phan Văn Tiến, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6969. Hoàng Thị Thiện, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6970. Phan Văn Bình, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6971. Nguyễn Thị Hảo, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6972. Nguyễn Thị Minh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6973. Ngô Thị Hương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6974. Nguyễn Văn Trúc, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6975. Nguyễn Văn Duyên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6976. Ngô Thị Trí, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6977. Nguyễn Thị Hóa, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6978. Nguyễn Thị Lan, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6979. Phan Thị Từ, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6980. Nguyễn Văn Linh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6981. Phan Thị Trung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6982. Nguyễn Thị Bảy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6983. Nguyễn Văn Cần, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6984. Nguyễn Thị Tâm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6985. Nguyễn Thị Hiền, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6986. Phan Văn Danh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6987. Nguyễn Thị Sáng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6988. Phan Văn Thiện, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6989. Nguyễn Văn Hương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6990. Nguyễn Thị Tuyết, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6991. Nguyễn Duy Thanh, học sinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6992. Nguyễn Thành Tâm, học sinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6993. Nguyễn Xuân Tâp, học sinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6994. Hoàng Văn Hảo, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6995. Nguyễn Thị Hải, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6996. Hoàng Thanh, học sinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6997. Nguyễn Văn Thảo, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6998. Hoàng Minh Huyền, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
6999. Nguyễn Văn Nhu, học sinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7000. Ngô Thị Hiền, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7001. Trần Văn Hậu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7002. Lê Hồng Văn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7003. Nguyễn Văn Danh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7004. Nguyễn Văn Nhân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7005. Nguyễn Văn Hoãn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7006. Nguyễn Trung Thực, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7007. Nguyễn Văn Giáo, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7008. Nguyễn Văn Phương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7009. Nguyễn Văn Hướng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7010. Phan Thị Quang, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7011. Đậu Thị Vân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7012. Nguyễn Thị Trinh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7013. Bùi Thị Nhung, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7014. Nguyễn Thị Gương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7015. Trần Thị Nhiệm, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7016. Trần Văn Mậu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7017. Nguyễn Thị Hưng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7018. Trần Văn Thiện, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7019. Nguyễn Thị Hồng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7020. Trần Thị Thanh, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7021. Trần Thị Hương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7022. Trần Văn Tân, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7023. Trần Văn Năng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7024. Hồ Thị Liên, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7025. Trần Văn Thắng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7026. Trần Thị Hương, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7027. Trần Văn Hướng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7028. Trần Thị Mai, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7029. Trần Văn Thủy, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7030. Nguyễn Tin, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7031. Trần Dũng, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7032. Trần Đức, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7033. Trần Hậu, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
7034. Trần Toàn, nông dân, Quỳnh Lưu, Nghệ An
Đợt 22:
7035. Nguyễn Quý Khoáng, nguyên Phó chủ tịch Hội Điện quang và Y học Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Chẩn đoàn hình ảnh (CĐHẢ) TP HCM, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn CĐHẢ  ĐHYK Phạm Ngọc Thạch, nguyên giảng sư (Maitre de Conférences) ĐHYK Nancy, Pháp, nguyên Trưởng khoa CĐHẢ  BV An Bình, TP HCM, Thầy thuốc ưu tú, TP HCM
7036. Nguyễn Thị Quý, sinh viên, Hà Nội
7037. Nguyễn Huy Hà, hưu trí, Thanh Hóa
7038. Nguyễn Thị Mai, tự do, Thái Bình
7039. Phạm Thị Nhài, tự do, Hà Nội
7040. Lưu Thị Bích, sinh viên, Hà Nội
7041. Nguyễn Văn Hưởng, công nhân, Nam Định
7042. Trần Thị Thiêng, tự do, Hà Nam
7043. Nguyễn Văn Quế, kinh doanh, Thanh Hóa
7044. Hoàng Hồng Hạnh, kinh doanh, Thanh Hóa
7045. Vũ Hoàng Hiệp, tự do, Thanh Hóa
7046. Nguyễn Văn Huynh, tự do, Hà Nội
7047. Lê Văn Tình, lái xe, Nam Định
7048. Nguyễn Văn Thanh, Xây dựng, Nam Định
7049. Nguyễn Văn Công, tự do, Hà Nội
7050. Hoàng Văn Diệp, sinh viên, Nghệ An
7051. Nguyễn Quang Hà, lao động phổ thông, Thanh Hóa
7052. Nguyễn Văn Mười, lao động phổ thông, Thanh Hóa
7053. Nguyễn Văn Báu, tự do, Ninh Bình
7054. Đỗ Hữu Nghĩa, tự do, Hà Nội
7055. Phạm Văn Luật, sinh viên, Ninh Bình
7056. Trần Văn Hải, tự do, Ninh Bình
7057. Trần Phương Thúy, tự do, Thanh Hóa
7058. Hoàng Anh Phương, công nhân, Nghệ An
7059. Đinh Nước Nga, sinh viên, Nghệ An
7060. Hồ Phi Sự, sinh viên, Nghệ An
7061. Nguyễn Hữu Đam, sinh viên, Thái Bình
7062. Trần Ngọc Chiến, lao động phổ thông, Hà Tĩnh
7063. Trần Thị Ngọc, sinh viên, Thái Bình
7064. Lê Đức Thành, tự do, Nam Định
7065. Phạm Văn Thanh, công nhân, Hà Nội
7066. Đặng Thị Hồng, tự do, Phú Thọ
7067. Nguyễn Huy Hà, bác sĩ, Hà Nội
7068. Đinh Văn Đại, sinh viên, Nam Định
7069. Vũ Thị Huế, hưu trí, Hà Nội
7070. Nguyễn Huy Quang, tự do, Phú Thọ
7071. Nguyễn Văn Cương, quay phim, Hà Nội
7072. Đinh Văn Căn, quản lý, Hà Nội
7073. Nguyễn Thị Thơm, kế toán, Hà Nội
7074. Nguyễn Thị Hạnh, giúp việc, Thái Bình
7075. Hồ Thị Kim Thành, biên dịch viên, Nghệ An
7076. Phạm Thị Dịu, kinh doanh, Thái Bình
7077. Mai Duy Thành, kinh doanh, Nam Định
7078. Trần Thị Ơn, tự do, Hà Nội
7079. Nguyễn Thị Hà, kinh doanh, Nam Định
7080. Lê Quang Trung, tự do, Hà Nội
7081. Nguyễn Hoàng Hải, nhân viên, TP HCM
7082. Hằng, nông dân, Hà Nội
7083. Trần Công Hoạch, kỹ sư, Nam Định
7084. Bùi Thị Hà, tự do, Hà Nội
7085. Nguyễn Thị Lan Hoa, nhân viên, Phú Thọ
7086. Hoàng Thế Anh, tự do, Hà Nội
7087. Vũ Văn Hà, tự do, Hà Nội
7088. Nguyễn Văn Tình, sinh viên, Nghệ An
7089. Phạm Văn Tân, kinh doanh, Nam Định
7090. Mai Thị Huyền, sinh viên, Nam Định
7091. Hoàng Văn Hoàn, kinh doanh, Hà Nội
7092. Nguyễn Văn Quân, tự do, Hà Nội
7093. Vũ Đại Cương, tự do, Hà Nội
7094. Ngô Thị Nhung, nhân viên, Hà Nội
7095. Đặng Huyền Thanh, nhân viên, Hà Nội
7096. Nguyễn Thị Hoa, tự do, Nghệ An
7097. Tạ Văn Tuyền, kinh doanh, Hà Nội
7098. Trương Quốc Thọ, văn thư lưu trữ, Hà Nội
7099. Hà Thị Huế, nhân viên, Hà Nội
7100. Hà Thị Phương, kế toán, Hà Nội
7101. Trương Văn Độ, thiết kế nội thất, Hà Nội
7102. Kiều Quang Hải, tự do, Hà Nội
7103. Võ Minh Trường, thiết kế đồ họa, Nghệ An
7104. Nguyễn Thị Hiểu, kế toán tài chính, Thanh Hóa
7105. Nguyễn Thị Hằng, sinh viên, Thái Bình
7106. Đào Xuân Hưởng, quản lý nhà hàng, Hà Nam
7107. Trần Thị Vân, sinh viên, Thái Bình
7108. Nguyễn Tuấn Anh, tài nguyên môi trường, Nghệ An
7109. Trần Văn Toán, nhân viên điều hành, Hà Nội
7110. Nguyễn Thị Thúy, nhân viên, Hà Nội
7111. Trần Văn Toàn, nội thất, Nam Định
7112. Nguyễn Văn Nghĩa, công nhân, Thái Bình
7113. Trần Văn Tuyến, thiết kế đồ họa, Thanh Hóa
7114. Nguyễn Văn Băng, kỹ sư, Thái Bình
7115. Đào Minh Tuấn, kinh doanh, Hà Nội
7116. Nguyễn Hữu Hưng, kinh doanh, Hà Nội
7117. Nguyễn Khắc Thạch, giáo viên, Hà Nội
7118. Nguyễn Văn Hùng, sinh viên, Hà Nội
7119. Trần Thị Thanh, sinh viên, Hà Nội
7120. Trần Thị Thảo, công nhân, Hà Nội
7121. Mai Thu Hòa, học sinh, Hà Nội
7122. Lưu Đình Chuyên, học sinh, Hà Nội
7123. Hoàng Văn Long, công nhân, Bắc Giang
7124. Lê Đình Long, sinh viên, Thanh Hóa
7125. Trần Văn Duy, sinh viên, Hà Nam
7126. Nguyễn Thị Thu Trang, sinh viên, Ninh Bình
7127. Trần Thị Thường, nhân viên, Nghệ An
7128. Trần Đức Vinh, cán bộ, Hà Nội
7129. Nguyễn Thị Minh Hằng, cán bộ, Hà Nội
7130. Nguyễn Thị Thảo, dược sĩ, Thanh Hóa
7131. Hoàng Tâm Minh, chuyên viên, Phú Thọ
7132. Trần Quốc Mạnh, tài xế, Yên Bái
7133. Nguyễn Văn Tuấn, tự do, Hà Nội
7134. Nguyễn Thị Mai, thợ may, Hà Nội
7135. Hoàng Xuân Công, kinh doanh, Nghệ An
7136. Lê Đình Liên, công nhân, Thanh Hóa
7137. Nguyễn Huy Hà, sinh viên, Hà Nội
7138. Nguyễn Thị Hiên, giúp việc, Phú Thọ
7139. Vũ Thị Nên, công nhân, Hà Nội
7140. Nguyễn Thị Hương, công nhân, Hà Nội
7141. Hoàng Thị Minh Huệ, nội trợ, Hà Nội
7142. Lại Thị Hồng Nhung, học sinh, Hà Nội
7143. Chu Thị Phượng, sinh viên, Hà Nội
7144. Phạm Văn Việt, bảo vệ, Hà Nội
7145. Phùng Văn Diễn, công nhân, Thanh Hóa
7146. Nguyễn Thu Hà, kế toán, Hà Nội
7147. Vũ Thị Hà, kế toán, Nam Định
7148. Vũ Văn Cường, IT, Hà Nội
7149. Nguyễn Văn Sơn, kinh doanh, Hà Nội
7150. Hoàng Trung Lập, tự do, Nam Định
7151. Đỗ Thị Hạnh, sinh viên, Nam Định
7152. Đặng Thanh Nhàn, công nhân, Hà Nội
7153. Phan Văn Dương, IT, Ninh Bình
7154. Cao Thọ Lâm, tự do, Hà Nội
7155. Vũ Văn Quân, sinh viên, Hà Nội
7156. Trần Văn Sỹ, kinh doanh, Hà Nội
7157. Phan Trí Tuệ, nhân viên, Hà Nội
7158. Nguyễn Văn Điệp, kinh doanh, Hà Nội
7159. Trương Thị Chinh, kinh doanh, Nam Định
7160. Trịnh Thị Huệ, tự do, Nam Định
7161. Nguyễn Thị Chính, kinh doanh, Nam Định
7162. Vũ Thị Hà, kinh doanh, Nam Định
7163. Nguyễn Hữu Thuật, sinh viên, Tuyên Quang
7164. Đỗ Đức Cương, kinh doanh, Hà Nội
7165. Nguyễn Thanh Hà, bác sĩ, Hà Nội
7166. Nguyễn Quang Quân, cán bộ hành chính, Nam Định
7167. Lê Thị Thúy, tự do, Ninh Bình
7168. Nguyễn Đức Lưa, bảo vệ, Hà Nội
7169. Bùi Thu Hoài, nhân viên, Hà Nội
7170. Nguyễn Văn Dũng, nhân viên, Hà Nội
7171. Trần Văn Hiếu, nhân viên, Hà Nội
7172. Nguyễn Trung Hiếu, kế toán, Hà Nội
7173. Lưu Bá Chương, sinh viên, Thái Bình
7174. Trần Thị Ngân, kinh doanh, Hà Nam
7175. Nguyễn Quốc Khánh, kỹ sư, Phú Thọ
7176. Lâm Văn Thức, lái xe, Nam Định
7177. Lại Thị Tươi, công nhân, Nam Định
7178. Nguyễn Văn Hoa, sinh viên, Hải Dương
7179. Phạm Văn Chuyển, công nhân, Ninh Bình
7180. Phùng Văn Dương, công nhân, Nam Định
7181. Phan Văn Đính, kỹ sư, Nam Định
7182. Nguyễn Thị Ngát, sinh viên, Nam Định
7183. Lương Thị Yên, sinh viên, Nam Định
7184. Phạm Viết Hùng, lái xe, Nam Định
7185. Nguyễn Văn Lợi, kinh doanh, Thái Bình
7186. Lê Thị Loan, tự do, Nam Định
7187. Nguyễn Thị Thu, tự do, Nam Định
7188. Đinh Thị Lý, tự do, Nam Định
7189. Lê Văn Đoán, nông dân, Hà Nội
7190. Nguyễn Hành Văn, kỹ sư, Phú Thọ
7191. Nguyêễn Thị Thơm, tự do, Nam Định
7192. Trần Văn Lợi, tự do, Nam Định
7193. Vũ Thị Hằng, thiết kế thời trang, Nam Định
7194. Lê Thị Thảo, tư vấn, Ninh Bình
7195. Nguyễn Minh Kiên, sinh viên, Hà Nội
7196. Nguyễn Văn Sinh, sinh viên, Thái Bình
7197. Trần Đắc Thơ, nông dân, Hà Nội
7198. Trần Ngọc Toàn, xây dựng, Hà Nội
7199. Trần Ngọc Hà, học sinh, Hà Nội
7200. Nguyễn Thành Biên, kỹ sư, Hà Nội
7201. Ngô Thị Bích, sinh viên, Hà Nội
7202. Lại Văn Thắng, kinh doanh, Hà Nội
7203. Ngô Văn Doang, nhân viên kinh doanh, Nam Định
7204. Định Ngọc Khánh, kỹ sư, Hà Nội
7205. Trần Văn Thanh, kinh doanh, Thái Bình
7206. Nguyễn Thị Thủy, tự do, Vĩnh Phúc
7207. Nguyễn Văn Thể, tự do, Nam Định
7208. Nguyễn Thị Thùy Linh, kế toán, Hà Nội
7209. Nguyễn Ngọc An, kinh doanh, Nam Định
7210. Thu Huyền, kinh doanh, Hà Nội
7211. Trần Hoàng Long, kinh doanh, Bắc Giang
7212. Nguyễn Thị Hạnh, tự do, Hà Nội
7213. Nguyễn Đức Lĩnh, tự do, Hà Nội
7214. Trần Hùng Phương, kinh doanh, Nam Định
7215. Ngô Quang Huy, kinh doanh, Nam Định
7216. Mai Trần Ngự, tự do, Thaí Bình
7217. Nguyễn Thị Long, sinh viên, Bắc Giang
7218. Trần Dương, kinh doanh, Ninh Bình
7219. Nguyễn Anh Xuân, nhân viên kinh doanh, Hà Nội
7220. Nguyễn Thị Hoồng Vân, bác sĩ, Nghệ An
7221. Bùi Quốc Trung, quay phim, Hà Nội
7222. Trần Văn Chuẩn, kế toán, Hà Nội
7223. Đỗ Kim Thành, nhân viên, Hà Nội
7224. Đinh Văn Hưởng, nhân viên kinh doanh, Hà Nội
7225. Phạm Thị Ngoan, sinh viên, Nam Định
7226. Trần Thị Ngà, nhân viên, Hà Nam
7227. Trần Văn Dương, giáo viên, Hà Nội
7228. Nguyêễn Thị Na, sinh viên, Hà Nội
7229. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, thợ xây, Hà Nội
7230. Nguyễn Văn Ninh, thợ xây, Hà Nội
7231. Nguyên Thị Hiền, lao động phổ thông, Hà Nội
7232. Trịnh Văn Thức, tự do, Nam Định
7233. Trần Văn Dũng, tự do, Nam Định
7234. Đinh Văn Chiến, tự do, Nam Định
7235. Đặng Văn Từ, tự do, Thái Bình
7236. Đỗ Văn Thái, nhân viên, Nam Định
7237. Nguyễn Ngọc Nhậm, sinh viên, Nghệ An
7238. Trịnh Xuân Hiếu, tự do, Nam Định
7239. Trần Văn Hoàn, tự do, Nam Định
7240. Nguyễn Văn Hùng, tự do, Hà Nội
7241. Lưu Minh Khẩn, kỹ sư cầu đường, Thái Bình
7242. Lê Thu Trang, nhân viên bán hàng, Hà Nội
7243. Nguyễn Thị Thúy, tự do, Hà Nội
7244. Trần Tại Nga, nhân viên, Hà Nam
7245. Nguyễn Thị Hải, hưu trí, Hà Nội
7246. Đỗ Thị Hồng Nhật, sinh viên, Hà Nội
7247. Đặng Thị Nhung, sinh viên, Hà Nội
7248. Nguyễn Thị Thu Trang, sinh viên, Hà Nội
7249. Trần Xuân Thủy, công nhân, Hà Nội
7250. Đinh Thị Trang, nhân viên, Hà Nội
7251. Phạm Vũ Duy, sinh viên, Hà Nội
7252. Mai Văn Cần, nhân viên, Hà Nội
7253. Nguyễn Thị Huệ, giáo viên, Hà Nội
7254. Đỗ Hạnh, giáo viên, Hà Nội
7255. Lê Văn Thạch, nhân viên, Nam Định
7256. Hoàng Thanh, giáo viên, Hà Tĩnh
7257. Phan Thị Nguyệt, tự do, Hà Nội
7258. Trịnh Thanh Mai, sinh viên, Nam Định
7259. Mai Công Nhật, kinh doanh, Hà Tĩnh
7260. Nguyễn Thị Gái, sinh viên, Hà Tĩnh
7261. Nguyễn Huy Hà, bác sỹ Đông y, Thanh Hóa
7262. Trần Thị Toan, nông dân, Thái Bình
7263. Giang Thị Thơm, giáo viên, Phú Thọ
7264. Nguyễn Thị Nguyệt, nông dân, Hà Nội
7265. Nguyễn Ngọc Nam, nhân viên, Nam Định
7266. Đặng Thị Oanh, nội trợ, Nam Định
7267. Nguyễn Thị Phương, sinh viên, Hà Nam
7268. Nguyễn Thị Dự, nông dân, Hà Nam
7269. Nguyễn Văn Mài, nông dân, Hà Nội
7270. Phạm Thị Thêu, nông dân, Hà Nam
7271. Nguyễn Thị Huệ, nông dân, Hà Nội
7272. Nguyễn Thị Trang, thợ cắt tóc, Nam Định
7273. Nguyễn Thị Vui, nông dân, Hà Nội
7274. Nguyễn Thiên Hà, sinh viên, Hà Nội
7275. Nguyễn Khắc Phúc, tự do, Hà Nội
7276. Nguyễn Đức Hùng, hưu trí, Hà Nội
7277. Nguyễn Văn Cường, sinh viên, Hà Nội
7278. Nguyễn Thị Hải, nội trợ, Hà Nội
7279. Bùi Ngân Hằng, tự do, Hà Nội
7280. Đặng Thị Thành, tự do, Hà Nội
7281. Từ Bạch Lê, công chức, Hà Nội
7282. Nguyễn Ngọc Bính, tự do, Nam Định
7283. Nguyễn Ngọc Tý, tự do, Nam Định
7284. Nguyễn Văn Dũng, kinh doanh, Hà Nội
7285. Nguyễn Văn Đức, học sinh, Hà Nội
7286. Đỗ Duy Cảnh, kinh doanh, Nam Định
7287. Nguyễn Văn Quý, kỹ sư, Nam Định
7288. Nguyễn Thị Kim Hương, công nhân, Hà Nội
7289. Phạm Minh Chiến, bảo vệ, Hà Nội
7290. Nguyễn Thị Kẻ, nông dân, Hà Nội
7291. Nguyễn Thị Thân, nông dân, Hà Nội
7292. Ngô Thị Hạnh, công nhân, Hà Nội
7293. Ngô Thị Nữ, nông dân, Hà Nội
7294. Trần Thị Nhụ, nông dân, Hà Nội
7295. Vũ Thị Thanh Huyền, nông dân, Hà Nội
7296. Nguyễn Văn Triển, thủ quỹ, Hà Nội
7297. Nguyễn Văn Hiếu, sinh viên, Bắc Giang
7298. Nguyễn Thị Diên, tự do, Hà Nội
7299. Nguyễn Văn Luận, tự do, Hà Nội
7300. Nguyễn Thị Thanh, hưu trí, Hà Nội
7301. Phạm Mạnh Thìn, cán bộ Ngân Hàng, Hà Nội
7302. Đinh Quốc Toản, nhân viên Đại sứ quán Mỹ, Hà Nội
7303. Nguyễn Ngọc Bích, nội trợ, Hà Nội
7304. Dương Thùy Trang, sinh viên, Hà Nội
7305. Nguyễn Thị Tiến, nông dân, Hà Nội
7306. Nguyễn Thị Mai, sinh viên, Hà Nội
7307. Nguyễn Văn Thế, giáo viên, Hà Nội
7308. Phạm Thị Thu, buôn bán, Hà Nội
7309. Phan Thị Hằng, tự do, Hà Nội
7310. Vương Thị Nghĩa, hưu trí, Hà Nội
7311. Nguyễn Văn Hải, hưu trí, Hà Nội
7312. Ninh Thị Hồng, hưu trí, Hà Nội
7313. Vũ Quốc Tỉnh, nhân viên, Hà Nội
7314. Nguyễn Thanh Thủy, nhân viên, Hà Nội
7315. Phạm Bích Phương, nhân viên, Hà Nội
7316. Nguyễn Thị Linh Chi, sinh viên, Hà Nội
7317. Vũ Ngọc Ánh, nhân viên, Hà Nội
7318. Nguyễn Thị Thu Hà, tự do, Hà Nội
7319. Nguyễn Đình Thịnh, kỹ sư, Hà Nội
7320. Đinh Thị Thu Trang, sinh viên, Hà Nội
7321. Nguyễn Thi Kim Dung, nhân viên, Phú Thọ
7322. Trần Thu Hương, tự do, Phú Thọ
7323. Nguyễn Văn Vinh, hưu trí, Hà Nội
7324. Nguyễn Văn Ninh, tự do, Vĩnh Phúc
7325. Nguyễn Thị Quyên, kinh doanh, Hà Nội
7326. Nguyễn Thu Yến, kinh doanh, Hà Nội
7327. Nguyễn Thị Tâm, tự do, Hà Nội
7328. Nguyễn Văn Tiến, nông dân, Hà Nội
7329. Đinh Hoàng Minh, học sinh, Nam Định
7330. Đoàn Thị Thảo, thợ may, Nam Định
7331. Lê Thị Sim, sinh viên, Nam Định
7332. Nguyễn Bá Mạnh, hưu trí, Nam Định
7333. Phạm Thu Trang, học sinh, Hà Nội
7334. Nguyễn Thị Hồi, hưu trí, Hà Nội
7335. Phạm Văn Vinh, hưu trí, Hà Nội
7336. Lê Thị Thanh Nhàn, hưu trí, Hà Nội
7337. Nguyễn Văn Thanh, hưu trí, Hà Nội
7338. Trần Thị Hương, dược sĩ, Nam Định
7339. Vũ Thị Xiêm, thợ may, Nam Định
7340. Vũ Thị Tâm, kinh doanh, Hà Nội
7341. Ngô Thị Thu, tự do, Lạng sơn
7342. Nguyễn Thị Hòa, hưu trí, Hà Nội
7343. Nguyễn Thị Hợp, tự do, Hà Nội
7344. Lê Xuân Đồng, hưu trí, Hà Nội
7345. Nguyễn Thị Hồng Hải, kế toán, Hà Nội
7346. Hoàng Hữu Trung, hưu trí, Hà Nội
7347. Trần Thị Tươi, hưu trí, Hà Nội
7348. Nguyễn Thị Thắng, hưu trí, Hà Nội
7349. Nguyễn Thị Ty, hưu trí, Hà Nội
7350. Nguyễn Thị Hoa, hưu trí, Hà Nội
7351. Nguyễn Thị Vượng, nông dân, Hà Nội
7352. Vũ Thị Tân, nội trợ, Hà Nội
7353. Phạm Thanh Hoa, tự do, Hà Nội
7354. Nguyễn Song Hào, IT, Hà Nội
7355. Nguyễn Thị Thảo, nội trợ, Hà Nội
7356. Nguyễn Thị Bích, về hưu, Hà Nội
7357. Bùi Thanh Tiến, kinh doanh, Hà Nội
7358. Nguyễn Thị Hồng, hưu trí, Hà Nội
7359. Nguyễn Văn Hoan, công chúc, Hà Nội
7360. Nguyễn Xuân Thiều, công nhân, Hà Nội
7361. Nguyễn Thanh Huyền, nhân viên, Hà Nội
7362. Trần Hữu Ngọc, IT, Hà Nội
7363. Nguyễn Văn Quang, IT, Hà Nội
7364. Nguyễn Thị Thu Thủy, sinh viên, Hà Nội
7365. Phạm Tùng, hưu trí, Hà Nội
7366. Nguyễn Thị Lan, hưu trí, Hà Nội
7367. Nguyễn Thị Ngọc Mai, kế toán, Nam Định
7368. Nguyễn Thị Liên, sinh viên, Ninh Bình
7369. Nguyễn Thanh Bình, sinh viên, Hà Nội
7370. Nguyễn Thu Hà, sinh viên, Hà Nam
7371. Hoàng Thị Châm, công chức, Hà Nội
7372. Trần Thị Thanh Tịnh, sinh viên, Nghệ An
7373. Nguyễn Văn Kết, sinh viên, Hà Nội
7374. Nguyễn Quý Khang, hưu trí, Hà Nội
7375. Nguyễn Tất Thắng, kỹ sư, Hà Nội
7376. Trịnh Ngọc Quy, sinh viên, Hà Nội
7377. Trương Minh Văn, tự do, Thanh Hóa
7378. Trần Trung Hiếu, học sinh, Hà Nội
7379. Bùi Thị Hoài Phượng, tiến sỹ, Hà Nội
7380. Lê Thị Oanh, học sinh, Hà Nội
7381. Lê Văn Trình, đầu bếp, Hà Nội
7382. Nguyễn Hồng Phi, nông dân, Hà Nam
7383. Nguyễn Thị Thân, nông dân, Hà Nam
7384. Lê Thị Hương, sinh viên, Nghệ An
7385. Dđào Thị Hương, thợ may, Nam Định
7386. Nguyễn Thị mây, học sinh, Hà Nội
7387. Nguyễn Thị Tính, nông dân, Hà Nội
7388. Trịnh Thị Lý, nông dân, Hà Nội
7389. Trịnh Tuyết Nhi, học sinh, Hà Nội
7390. Vũ Thị Hạnh, tự do, Hà Nội
7391. Vũ Thị Thúy Hằng, giáo viên, Hà Nội
7392. Nguyễn Văn Lý, linh mục, Hà Nam
7393. Nguyễn Thị Thêm, tự do, Hà Nội
7394. Nguyễn Tuấn Anh, học sinh, Nam Định
7395. Phạm Văn Đáng, tự do, Hà Nội
7396. Phan Thị Huyền, sinh viên, Bắc Giang
7397. Đoỗ Bích Vân, nội trợ, Hà Nội
7398. Đinh Văn Hiền, giảng viên, Hà Nội
7399. Nguyễn Thị Xuân Thu, nội trợ, Hà Nội
7400. Nguyễn Thị Minh, tự do, Hà Nội
7401. Nguyễn Thị Châu, hưu trí, Hà Nội
7402. Nguyễn Văn Chung, công nhân, Hà Nội
7403. Nguyễn Thị An, hưu trí, Hà Nội
7404. Nguyễn Hồng Hạnh, giáo viên, Hà Nội
7405. Nguyễn Thị Nguyệt, tự do, Hà Nội
7406. Lê Thị Xuân, công nhân, Hà Nội
7407. Nguyễn Văn Hòa, công nhân, Hà Nội
7408. Phạm Ngọc Tâm, lập trình viên, Hà Nội
7409. Nguyễn Thị Hải, nội trợ, Hà Nội
7410. Nguyễn Tiến Tùng, tự do, Hà Nội
7411. Phạm Văn Hải, tự do, Thái Bình
7412. Hoàng Thị Thùy Dương, kế toán, Hà Nội
7413. Nguyễn Hữu Trọng, hưu trí, Hà Nội
7414. Phạm Văn Cường, tự do, Hà Nội
7415. Đinh Thị Huệ, tự do, Nam Định
7416. Đặng Thị Kim Dung, hưu trí, Hà Nội
7417. Vũ Đình Bang, hưu trí, Hà Nội
7418. Lương Thị Thu Hà, tự do, Hà Nội
7419. Nguyễn Chí Luân, hưu trí, Hà Nội
7420. Vũ Thị Thịnh, hưu trí, Hà Nội
7421. Đinh Thị Huê, tự do, Nam Định
7422. Lê Thị Quang, tự do, Nam Định
7423. Nguyễn Văn Hiệu, sinh viên, Hà Nội
7424. Nguyễn Văn Báu, tự do, Ninh Bình
7425. Nguyễn Minh Hải, tự do, Hà Nội
7426. Nguyễn Đức Huấn, tự do, Hà Nội
7427. Đinh Văn Thành, sinh viên, Nam Định
7428. Đinh Thị Hường, sinh viên, Hà Nội
7429. Nguyễn Thị Bình, kế toán, Hà Nội
7430. Vũ Hồng Doan, Văn phòng, Hà Nội
7431. Trần Văn Tuấn, công nhân, Thái Bình
7432. Đinh Quốc Bổng, kỹ sư, Nam Định
7433. Nguyễn Văn Chiến, kỹ sư cơ khí, Nam Định
7434. Trần Thị Thơm, kế toán, Nam Định
7435. Nguyễn Trí Hiếu, nhân viên, Nam Định
7436. Vương Thanh Bình, công nhân, Hà Nội
7437. Chu Thị Khuyên, kinh doanh, Hà Nội
7438. Nguyễn Thị Bảy, lao động phổ thông, Hà Nội
7439. Nguyễn Ngọc Tâm, tự do, Hà Nội
7440. Lương Kim Liên, tự do, Hà Nội
7441. Nguyễn Thị Hoàn, hưu trí, Hà Nội
7442. Trần Thị Xuân, tự do, Hà Nội
7443. Trần Quang Hiếu, học sinh, Hà Nội
7444. Đỗ Xuân Trường, học sinh, Hà Nội
7445. Đỗ Phương Thảo, học sinh, Hà Nội
7446. Phạm Thị Thu, tự do, Hà Nội
7447. Tạ Thị Phượng, tự do, Thái Bình
7448. Phan Quang Toàn, tự do, Hà Tĩnh
7449. Vũ Văn Diên, lao động phổ thông, Hà Nam
7450. Nguyễn Sỹ Nhật, thợ xây, Nghệ An
7451. Lê Thị Nhĩ, kế toán, Thái Bình
7452. Trần Thị Hương, sinh viên, Phú Thọ
7453. Nguyễn Văn Hân, lái xe, Nam Định
7454. Lê Thùy Dương, học sinh, Hà Nội
7455. Nguyễn Văn Viên, kỹ thuật viên, Nam Định
7456. Nguyễn Văn Thắng, tự do, Hà Nội
7457. Nguyễn Thị Thu, tự do, Hà Nội
7458. Phạm Hà, kinh doanh, Hà Nội
7459. Nguyễn Thị Thế, tự do, Hưng Yên
7460. Ngô Đức Thành, hưu trí, Hà Nội
7461. Nguyễn Văn Sơn, truyền thông, Thái Bình
7462. Trương Văn Phương, tự do, Thái Bình
7463. Trần Thị Lệ Hải, tự do, Hà Nội
7464. Dương Thị Xuân, tự do, Hà Nội
7465. Nguyễn Quang Hà, tự do, Thanh Hóa
7466. Nguyễn Thị Khoa, giáo viên, Thanh Hóa
7467. Nguyễn Thị Tâm, tự do, Nghệ An
7468. Nguyễn Văn Vinh, tự do, Nam Định
7469. Đinh Thị Hạt, tự do, Nam Định
7470. Trương Quang Long, nhân viên, Hà Nội
7471. Trần Thị Hiền, sinh viên, Hà Nội
7472. Vũ Trọng Khang, kinh doanh, Hà Nội
7473. Đỗ Thị Huyền, công chức, Hà Nội
7474. Phạm Văn Phóng, kinh doanh, Hà Nội
7475. Trương Thị Huế, nhân viên, Hà Nội
7476. Lê Văn Tầm, cựu chiến binh, hưu trí, tốt nghiệp ĐH khóa 1977-1983 Trường ĐHTH Khắc-cốp (Ucraina -LX cũ), Vũng Tàu
7477. Hà Văn Tiến, cử nhân, Hà Nội
7478. Vũ Văn Cương, kỹ sư, Hà Nội
7479. Nguyễn Đình Tường, kế toán, Đồng Nai
7480. Tôn Thất Mai, ngư dân, Khánh Hòa
7481. Nguyễn Văn Dũng, sinh viên, TP HCM
7482. Quách Hoàng Thiên Hy, sinh viên, TP HCM
7483. Lại Vân Hòa, kỹ sư, TP HCM
7484. Nguyễn Xuân Văn, làm ruộng, Tuyên Quang
7485. Đinh Hoàng Thắng, tiến sĩ, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan
7486. Chau Qui Thien, kỹ sư, Bỉ
7487. Trần Mạnh Hảo, giám đốc công ty tư nhân, Quảng Bình
7488. Đỗ Cao Hiền, nghề nghiệp tự do, Tây Ninh
7489. Nguyen Manh Duong, cựu giáo viên, Bình Định
7490. Nguyễn Thúy Phượng, chuyên viên pháp lý, TP HCM
7491. Nguyễn Văn Thanh, kỹ sư, Nam Định
7492. Võ Lâm Viễn, sinh viên, Đà Nẵng
7493. Vũ Hoàng An, Canada
7494. Tran Hoang Thu, TS, Hoa Kỳ
7495. Trần Minh Quoc, giáo viên, TP HCM
7496. Tôn Văn Niên, Hoa Kỳ
7497. Lê Manh Hung, thac si, Hoa Kỳ
7498. Đinh Hồng Sơn, đảng viên, nguyên cán bộ Sở Y tế Hà Giang đã nghỉ hưu, Hà Nội
7499. Lê Viết An, sinh viên, TP HCM
7500. Hoàng Thu Hiền, sinh viên, CHLB Đức
7501. Chi Nguyễn, Network Analyst, Hoa Kỳ
7502. Nguyễn Đức Thành, cựu đảng viên CSVN, Hoa Kỳ
7503. Lê Tấn Cường, kỹ sư cao học điện, CHLB Đức
7504. Nguyễn Bảo Hạnh, thương nghiệp gia, CHLB Đức
7505. Lê Thiên Hương, sinh viên, CHLB Đức
7506. Lê Minh Tiến, sinh viên, CHLB Đức
7507. Lê Minh Thắng, học sinh trung học, CHLB Đức
7508. Tran Bien, CHLB Đức
7509. Nguyễn Dân Trí, kinh doanh, Anh Quốc
7510. Đinh Công Lịch, linh mục Giáo phận Phát Diệm
7511. Nguyễn Nha Trang, Hoa Kỳ
7512. Phan Van Hao, tho lam dong, Hoa Kỳ
7513. Lê Hải Trung, PhD student, Đại học Công nghệ Delft, Vương quốc Hà Lan
7514. Tony Nguyễn, công dân Việt Nam, Hoa Kỳ
7515. Le Thi Thanh Dan, nội trợ, TP HCM
7516. Huynh Van Ti, tho may, Long An
7517. Hồ Viết Hùng, cử nhân, Phó giám đốc công ty tư nhân, Nghệ An
7518. Huỳnh Văn Sơn, nhân viên chuyển phát thư, Australia
7519. Đỗ Quyền, kỹ sư, Hà Nội
7520. Vũ Quang Hậu, du học sinh tại Syney, Australia
7521. Phạm Thông, nghề tự do, Hà Nội
7522. Huỳnh Út Phi Châu, TP HCM
7523. Nguyễn Văn Thọ, hành nghề tự do, Hà Tĩnh
7524. Trần Xuân Tự, cán bộ xã, Hà Tĩnh
7525. Mai Xuân Toản, đảng viên, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân xã, Hà Tĩnh
7526. Giuse Hoang Minh Giam, linh mục, Nam Định
7527. Anh Phan, sinh viên, Hoa Kỳ
7528. Ly Nguyen, công nhân, Hoa Kỳ
7529. Tran Ngoc Long, Hà Nội
7530. Vuong Van Nga, du học sinh, Hoa Kỳ
7531. Nguyễn Hữu Sơn, Cần Thơ
7532. Nguyễn Manh Hưng, kỹ sư, công dân Việt Nam, Nhật Bản
7533. Vo Thanh, kỹ sư, công dân Việt Nam, Nhật Bản
7534. Tang Nhon Phen, kỹ sư, công dân Việt Nam, Nhật Bản
7535. Nguyen Dai Thanh, kỹ sư, công dân Việt Nam, Nhật Bản
7536. Vũ Mạnh Tiền, kỹ sư, Đồng Nai
7537. Trần Hà Tuấn, nghiên cứu sinh, Hoa Kỳ
7538. Trần Trọng Nghĩa, cán bộ, Hà Nội
7539. Tung Duong, Hoa Kỳ
7540. Phạm Trọng Mỹ, kế toán, TP HCM
7541. Nguyen Phong Bang, quản lý, TP HCM
7542. Đinh Đình Phước, nhân viên văn phòng, Đà Nẵng
7543. Trần Ngọc Tú, nghề nghiệp tự do, TP HCM
7544. Nguyễn Xuân Thu, cựu chiến binh, Hà Nội
7545. Nguyễn Văn Hoàng, sinh viên, Hà Nội
7546. Phạm Văn Minh, Hà Nội
7547. Lâm Văn Chinh, kỹ sư xây dựng, Hà Nội
7548. Phê-rô Nguyễn Văn Phương, linh mục Dòng Đa Minh, Đăk Lắk
7549. Nguyễn Đăng Hoàng Lân, kiến trúc sư, Hà Nội
7550. Nguyễn Trung Kiên, kĩ sư, Hà Nội
7551. Đinh Dũng Chinh, machinist, Hoa Kỳ
7552. Phan Thanh Hồng, cử nhân luật, TP HCM
7553. Nguyễn Đình Quang, kỹ sư, TP HCM
7554. Thanh Lan Lê, Retired Teacher, Hoa Kỳ
7555. Lê Châu, kỹ sư Điện toán, Hoa Kỳ
7556. Nguyễn Văn Dung, cựu chiến binh, Hải Dương
7557. Lê Thanh Hiệp, công dân Việt Nam, TP HCM
7558. Hà Quốc Vũ, kinh doanh, TP HCM
7559. Nguyễn Công Lý, cựu chiến binh, Hải Dương
7560. Vinh D Nguyen, Hoa Kỳ
7561. Trần Anh Nam, kỹ sư, TP HCM
7562. Trần Văn, dược sĩ, Hoa Kỳ
7563. Nguyễn Văn Cần, làm nông, Nghệ An
7564. Nguyễn Duy Nhân, giảng viên đại học, TP HCM
7565. Vũ Phong, công nhân, TP HCM
7566. Lê Tuấn Kiệt, cử nhân, Vũng Tàu
7567. Lê Đức Thông, kỹ sư, TP HCM
7568. Phạm Minh Tuấn, công nhân, Kiên Giang
7569. Hồ Thị Thanh Nga, giáo viên, nghiên cứu sinh, Australia
7570. Phạm Hải Đăng, Hà Nội
7571. Phan Văn Quốc, Quảng Bình
7572. Nguyễn Văn Hùng, kinh doanh, Ba Lan
7573. Nguyễn Bá Hiền, lao động tự do, Bình Thuận
7574. Vũ Văn Bằng, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ nước và Môi trường, VUSTA
7575. Dong Thi Kim Chi, giáo viên, TP HCM
7576. Nguyễn Tuấn Phong, thạc sĩ, Hà Nội
7577. Nguyễn Văn Huệ, cửu vạn, Nghệ An
7578. Nguyễn Văn Đức, lái xe, Nghệ An
7579. Nguyễn Văn Tuấn, học sinh, Nghệ An
7580. Nguyễn Văn Toàn, học sinh, Nghệ An
7581. Vũ Thị Tiết Hạnh, giảng viên Đại học Hàng hải, Hải Phòng
7582. Chu Giang Sơn, kỹ sư điện, Hà Nội
7583. Nguyễn Trung Kiên, kinh doanh, Hà Nội
7584. Phùng Thị Phên, kế toán, TP HCM
7585. Nguyễn Hoàng Nguyên, TP HCM
7586. Nguyen Van Son, tài xế, Australia
7587. Nguyễn Trọng Kiên, thạc sĩ, doanh nhân, Hà Nội
7588. Võ Trần Phương, Quảng Trị
7589. Cao Tuyết Trinh, học sinh, Nghệ An
7590. Nguyễn Thị Thanh Ngân, học sinh, Đồng Nai
7591. Lai The Ninh, Bỉ
7592. Võ Văn Chánh, Tiền Giang
7593. Nguyễn Thanh Giang, TS, Hà Nội
7594. Nguyễn Minh Tuấn, kỹ sư, TP HCM
7595. Nguyễn Thanh Bình, kỹ sư điện, CHLB Đức
7596. Nguyễn Vinh Khoa, sinh viên, CHLB Đức
7597. Tạ Đình Hiến, nghề nghiệp tự do, Hưng Yên
7598. Đỗ Vũ, nghề nghiệp tự do, Hà Nội
7599. Minh Quân, sinh viên, Huế
7600. Phan Trần Minh, kinh doanh, TP HCM
7601. Đỗ Lê Thị Trinh, viên chức, TP HCM
7602. Lê Hoàng, học sinh, TP HCM
7603. Lê Thụy, học sinh, TP HCM
7604. Phạm Bá Hải, TP HCM
7605. Hồ Tài, giáo viên, TP HCM
7606. Nguyễn Đình Văn, Giám đốc công ty GIVA plus, Cộng hòa Czech
7607. Hà Bình Minh, hưu trí, Lâm Đồng
7608. Lê Minh Sơn, cựu quân nhân, giám đốc, Tây Ninh
7609. Lâm Bình Bắc, Civil Engineer, ÚC
7610. Đặng Thị Hương, hưu trí, Hà Nam
7611. Phan Văn Tấn, công nhân, Thái Bình
7612. Nguyen Duy, làm nông, Đồng Nai
7613. Biện Quang Thanh, giáo viên, Nghệ An
7614. Nguyễn Thị Diệu Huyền, thạc sĩ, Anh Quốc
7615. Vũ Thanh Ca, PGS TS, cán bộ Bộ Tài nguyên – Môi trường, Hà Nội
7616. Nguyễn Kim Liên, Australia
7617. Nguyễn Bạch, cựu giáo viên, Australia
7618. Hoàng Ngọc Tú, kỹ sư, CHLB Đức
7619. Hoàng Văn Thảnh, cựu quân nhân, Hà Nội
7620. Trần Hồng Vân, nghỉ hưu, Hà Nội
7621. Nguyen Van Tuyen, thạc sĩ, bác sĩ, Bắc Giang
7622. Nguyễn Trọng Hoài, kiến trúc sư, Hà Nội
7623. Đặng Tiến Quân, sinh viên, Bà Rịa-Vũng Tàu
7624. Tran Minh Quang, kỹ sư, Hà Nội
7625. Bùi Đức Viên, làm ruộng và môi giới bất động sản, Thái Bình
7626. Hồ Văn Trước, TP HCM
7627. Đỗ Đình Thái, công nhân, TP HCM
7628. Cao Bá Cảnh, doanh nhân, Hà Nội
7629. Nguyen Thi Bich Dung, giám đốc công ty tư nhân, TP HCM
7630. Phan Thu Hải, cán bộ hưu trí, trước đây là cán bộ Viện Dầu Khí Việt Nam, Hà Nội
7631. Son Quy, Canada
7632. Tran Ngoc Anh, thạc sĩ, Hoa Kỳ
7633. Nguyễn Phạm Hoàng Chánh, sinh viên, Đồng Nai
7634. Lê Mạnh Cần, Hà Nội
7635. Nguyễn Việt Lâm, kế toán, Hà Tĩnh
7636. Vu Van Tuan, Cộng hòa Czech
7637. Thuấn Trần, Serigrafer, Đan Mạch
7638. Nguyễn Văn Huân, giáo viên, TP HCM
7639. Phạm Quốc Bảo, kỹ sư, Bình Phước
7640. Lê Cẩm Tú, kỹ sư, TP HCM
7641. Hoàng Anh Vũ, kỹ sư, Team Leader, Quảng Nam
7642. Bùi Thế Hưng, kỹ sư, Na Uy
7643. Phạm Tấn Phước, lao động tự do, Tây Ninh
7644. Trương Minh Đức, kỹ sư, Ba Lan
7645. Nguyen Thai Truc, kế toán, Hoa Kỳ
7646. Nguyen Tai Thuong, CHLB Đức
7647. Phạm Minh Long, kĩ sư, Na Uy
7648. Tran T Huong, công chức về hưu, Canada
7649. Hoa Tran, Hoa Kỳ
7650. Phạm Việt Hùng, kỹ sư, Hà Nội
7651. Nguyễn Khánh Toàn, kỹ sư, Đài truyền hình WRD, Cologne, CHLB Đức
7652. Hien Hoang, Hoa Kỳ
7653. Vũ Ngọc Ánh, nhà văn, Hoa Kỳ
7654. Tôn Thất Thành, biên tập viên, TP HCM
7655. Tri Ngo, hưu trí, Vancouver, Canada
7656. Trần Hiện, nông dân, Đồng Nai
7657. Bùi Thị Thúy Hồng, giảng viên đại học, nghiên cứu sinh tiến sĩ, TP HCM
7658. Trần Hải Bằng, nghiên cứu sinh, khoa Nông nghiệp Đại học Kyushu, Nhật Bản
7659. Ngo Thi Dieu, thư ký, Hoa Kỳ
7660. Le Tu Phuong Chi, thạc sĩ, bác sĩ, Khoa Ung bướu Phụ khoa Bệnh viện Từ Dũ, TP HCM
7661. Lê Hồng Phong, Hà Nội
7662. Be Minh Duc, Canada
7663. Bàng Thế Quân, TP HCM
7664. Tô Xuân Thành, nguyên là cựu quân nhân Hải quân, Nghệ An
7665. Nguyen Thi Thu Thuy, kỹ sư, TP HCM
7666. Huynh Van Tuan, Cần Thơ
7667. Huỳnh Thị Hồng, hưu trí, Quảng Nam
7668. Phan Trung Ha, nông dân, Kiên Giang
7669. Nguyễn Anh Khoa, sinh viên, TP HCM
7670. Kiều Quốc Thư, giáo viên, Hà Nội
7671. Nguyễn Thăng Long, Hà Nội
7672. Nguyen Tuan Anh, Hà Nội
7673. Nguyễn Thành Đô, sinh viên tại trường Coastline College, Hoa Kỳ
7674. Mai Thanh Tùng, công nhân, Long An
7675. Trương Hồng Hiếu, nghiên cứu sinh tại LB Nga
7676. Trần Thị Vương, bưu chính viễn thông, TP HCM
7677. Hoa Thai Le, thợ làm móng, Hoa Kỳ
7678. Phạm Quốc Tuấn, Bà Rịa – Vũng Tàu
7679. Nguyễn Gia Long, giám đốc doanh nghiệp, Cần Thơ
7680. Nguyễn Hồng Huy, học sinh, Cần Thơ
7681. Ngô Ngọc Lan, kỹ sư, Cần Thơ
7682. Nguyễn Văn Cần, nông dân, Nghệ An
7683. Phan Thị Khai, nông dân, Nghệ An
7684. Nguyễn Thái Sơn, kinh doanh, Nghệ An
7685. Nguyễn Thị Vân, bán thuốc, Nghệ An
7686. Nguyễn Thị Ngọc, kinh doanh, Nghệ An
7687. Cao Minh Huyền, quay phim, Nghệ An
7688. Nguyễn Thị Oanh, nhiếp ảnh, Nghệ An
7689. Cao Tiến Dũng, học sinh, Nghệ An
7690. Cao Linh Thiên, học sinh, Nghệ An
7691. Nguyễn Văn Hưng, học sinh, Nghệ An
7692. Nguyễn Thị Loan, kinh doanh, Nghệ An
7693. Lâm Kim Dung, bác sĩ Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn BV An Bình, TPHCM
7694. Vũ Văn Hợp, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch kiêm Giám đốc NXB Thời Đại, Hà Nội
7695. Nguyễn Quốc Khánh, giáo viên, Hà Nội
7696. Nguyễn Tuấn Anh, kỹ sư tin học, Hungary
7697. Đỗ Diền, TP HCM
7698. Nguyễn Văn Toản, sinh viên, Hà Nam
7699. Đỗ Minh Quân, công nhân, CHLB Đức
7700. Hoàng Diệu, Australia
7701. Nguyễn Văn Nhất, kỹ sư, Bắc Ninh
7702. Đặng Hoàng Hùng, nhân viên, TP HCM
7703. Phan Ái Quốc, sinh viên, TP HCM
7704. Đặng Thế Tài, nghề nghiệp tự do, Nam Định
7705. Tran Van Phuc, Hoa Kỳ
7706. Võ An Tuyên, giáo viên, Ninh Thuận
7707. Nguyễn Thành Luân, kỹ sư, Hà Nội
7708. Trần Thị Kim Lan, CHLB Đức
7709. Trần Minh Tuấn, kiến trúc - trang trí nội thất, TP HCM
7710. Do Duc Vien, GS đại học, Canada
7711. Peter Phan, Computer Engineer, Hoa Kỳ
7712. Nguyen Luong, bác sĩ, Hoa Kỳ
7713. Phạm Tiền Phong, TP HCM
7714. Huỳnh Vĩnh Tiến, doanh nhân, Sóc Trăng
7715. Lâm Công Võ, Cà Mau
7716. Nguyen Dinh Dung, viên chức, Hà Nội
7717. Ngô Đình Long, Đà Nẵng
7718. Đỗ Quốc Khanh, Toronto, Canada
7719. Võ Thế Huy, doanh nhân, Cộng hòa Czech
7720. Chu Hoàng Phong, sinh viên, Australia
7721. Trần Văn Muôn, nguyên là sỹ quan QĐNND Việt nam, CHLB Đức
7722. Trần Đình Thiên, Giám đốc công ty tư nhân, TP HCM
7723. Nguyễn Chí Hiếu, kiến trúc sư, TP HCM
7724. Nguyen Thien Phuc, Automotive Performance Specialist, Hoa Kỳ
7725. Nguyễn Việt Anh, sinh viên cao học, Ecole Polytechnique, Pháp
7726. Hoàng Trần Trung, sinh viên, Hà Nội
7727. Nguyễn Hoàng Giang, sinh viên, TP HCM
7728. Đỗ Nam Hải, doanh nhân, Hải Phòng
7729. Đinh Vũ Hoàng Dân, sinh viên, TP HCM
7730. Võ Trương Đức Nhân, sinh viên, Đà Nẵng
7731. Bùi Quang Học, kiến trúc sư, TP HCM
7732. Nguyễn Tuấn Anh, kỹ sư, Quảng Trị
7733. Nguyen Tan Tuoc, kinh doanh, Hoa Kỳ
7734. Châu Vĩnh Hài, công chức, Hoa Kỳ
7735. Văn Thành, cử nhân, Huế
7736. Nguyễn Thế Dũng, cựu chiến binh, Hưng Yên
7737. Nguyen Van Tri, Australia
7738. Pham Tuan Khoi, bác sĩ, TP HCM
7739. Nguyễn Vũ Thân, Phó bí thư thường trực đảng bộ, Tổng công ty Văn hóa Sài Gòn, TP HCM
7740. Hoàng Đình Thành, kiến trức sư, Hà Nội
7741. Phan Minh Nhẫn, Canada
7742. Nguyễn Thị Đào, Canada
7743. Phan Minh Tâm, Canada
7744. Phan Minh Trí, Canada
7745. Phan Minh Đức, Canada
7746. Phan Minh Duy, Canada
7747. Phan Thị Hạnh, Canada
7748. Phan Minh Tiến, Canada
7749. Nguyễn Tuấn Thành, giám đốc doanh nghiệp tư nhân, Hà Nội
7750. Pham Vinh Huy, TP HCM
7751. Lê Văn Quang, sinh viên, Cần Thơ
7752. Đoàn Hữu Phố, công nhân, Bình Dương
7753. Lê Quốc Thịnh, kỹ sư, Thanh Hóa
7754. Trần Thị Thu Trang, luật sư, Hà Nội
7755. Angela Nguyen Le, nha sỹ, Hoa Kỳ
7756. Nguyễn Trọng Hòa, cử nhân, Kon Tum
7757. Nguyễn Nhựt Dân, công dân Việt Nam, TP HCM
7758. Phạm Thu Hà, công dân, TP HCM
7759. Trần Trọng Tiến, thương gia, TP HCM
7760. Nguyen Van Phuong, Hà Nam
7761. Lê Hiền Minh, Vūng Tàu
7762. Xinh Bui, Hoa Kỳ
7763. Nguyễn Công Hạnh, hưu trí, nguyên bộ đội Việt Minh, TP HCM
7764. Nguyen Van Hung, bác sĩ, Hoa Kỳ
7765. Nguyễn Đức Hoàng, kỹ sư, Nghệ An
7766. Nguyen Hai Long, CHLB Đức
7767. Bùi Chưởng, tiến sĩ, Pháp
7768. Lê Minh Ngọc, lao động tự do, Hà Nội
7769. Hà Duy Trung Nguyên, TP HCM
7770. Trúc Lâm, Canada
7771. Mạc Đức Minh, doanh nhân, Hải Phòng
7772. Trần Sỹ Tin, Hà Tĩnh
7773. Trịnh Thu Hà, kinh doanh, Hà Nội
7774. Nguyễn Văn Cường, Hải Phòng
7775. Đinh Trung Thành, bác sĩ, đang tu nghiệp tại Pháp
7776. Phạm Thị Thu Phương, kĩ sư, Hàn Quốc
7777. Phạm Ngọc Hoàng, sinh viên, Hà Tĩnh
7778. Anthony Hoang, Electrical Engineer, Hoa Kỳ
7779. Nguyễn Hồng Dương, kỹ sư, Giám đốc Công ty TNHH, Vũng Tàu
7780. Đặng Minh Kháng, hưu trí, Vũng Tàu
7781. Trịnh Xuân Hài, cựu cán bộ giảng dạy khoa Toán Đại học Hồng Đức Thanh Hóa, đảng viên, cựu chiến binh nhập ngũ 3-79, Thanh Hóa
7782. Bùi Đăng Thuấn, kỹ sư, TP HCM
7783. Nguyễn Tuấn Anh, MBA, CPA, Hà Nội
7784. Khong Quoc An, sinh viên, TP HCM
7785. Phạm Xuân Anh, lao động tự do, Hà Nội
7786. Ngô Xuân Hải, cán bộ, Hà Nội
7787. Trịnh Xuân Thủy, kinh doanh, TP HCM
7788. Le Ngoc Minh Chau, Hoa Kỳ
7789. Nguyến Văn Khánh, Bắc Giang
7790. Nguyen Van Liễn, kỹ sư, Hoa Kỳ
7791. Nguyễn Xuân Thủy, kỹ sư, Đồng Nai
7792. Nguyễn Đỗ Phong, kinh doanh, TP HCM
7793. Lại Hải Hà, Hà Nội
7794. Trần Văn Trường, thợ mộc, Hà Nam
7795. Tran Thi Thu Huong, nhân viên nhà nước, TP HCM
7796. Vu Do, nghề tự do, Hà Nội
7797. Ngô Quang Minh, học sinh, TP HCM
7798. Nguyễn Phúc Hưng, nhân viên, kinh doanh, TP HCM
7799. Võ Phú, kỹ sư, Hoa Kỳ
7800. Trần Thị Thanh Mai, Hà Nội
7801. Lê Thành Luân, sinh viên, TP HCM
7802. Đào Phương, kỹ sư, TP HCM
7803. Nguyễn Ngọc Oanh, bút danh Hoàng Yến, nguyên  trưởng Ban Biên tập của một tờ tạp chí, Hà Nội
7804. Trần Lợi, kỹ sư, TP HCM
7805. Phạm Đình Tuấn, thương phế binh, Cần Thơ
7806. Lê Hoàng Tùng, kỹ sư, Hà Nội
7807. Nguyen Hiep, kỹ sư, giám đốc doanh nghiệp, Nam Định
7808. Phan Tấn Hải, nhà văn, Hoa Kỳ
7809. Nguyễn Thái Sơn, công dân, TP HCM
7810. Phan Rick, kỹ sư, Canada
7811. Võ Bá Linh, lao động tư do, TP HCM
7812. Vũ Thị Thúy, cử nhân, Hà Nội
7813. Nguyễn Anh Hào, cử nhân, nhân viên kinh doanh vàng bạc, Nghệ An
7814. Nguyễn Thái Sơn, giáo viên, TP HCM
7815. Trần Khánh Dương, kinh doanh, TP HCM
7816. Nguyễn Hữu Phi, sinh viên, Cà Mau
7817. Phùng Hữu Thanh, cử nhân kinh tế, Hà Nội
7818. Lê Thúy Hiền, công nhân, Ba Lan
7819. Dương Tấn Lượng, cử nhân, TP HCM
7820. Tran Van Tan, CHLB Đức
7821. Nguyễn Đức Minh, kỹ sư, TP HCM
7822. Nguyễn Thanh Long, TP HCM
7823. Phùng Mai Hưng, buôn bán, Hà Nội
7824. Hoàng Thị Bích, kinh doanh, TP HCM
7825. Cao Hoàng Long, sinh viên, TP HCM
7826. Nguyễn Quốc Khánh, buôn bán, TP HCM
7827. Mai Xuan Ngon, thạc sĩ, TP HCM
7828. Trương Thị Mỹ Trinh, cử nhân, TP HCM
7829. Đoàn Lưu Hùng Minh, TP HCM
7830. Đặng Ngọc Lan, giảng viên, nghiên cứu viên, Hà Nội
7831. Vũ Quang Huy, kĩ sư, TP HCM
7832. Tăng Trọng Thức, TP HCM
7833. Nguyen Anh Minh, kỹ sư, Hà Nội
7834. Nguyễn Thị Thúy Hà, cử nhân, TP HCM
7835. Vũ Đình Công, hưu trí, Hải Phòng
7836. Nguyễn Quốc Ân, cựu chiến binh, đã nghỉ hưu, Hà Nội
7837. Nguyễn Khắc Hiệp, hưu trí, Hoa Kỳ
7838. Phạm Minh Thế, kinh doanh, TP HCM
7839. Huan Phung, electrician, Hoa Kỳ
7840. Duong Thi Trinh, kinh doanh, Bình Phước
7841. Hiep Vu, technician polishing, Hoa Kỳ
7842. Nguyễn Thành, nhân viên hành chính - đối ngoại, Hà Nội
7843. Tran Nguyen, sinh viên, Canada
7844. Nguyễn Trát, Cựu chiến binh E25 Công Binh QK7, TP HCM
7845. Lê Minh Nhân, kỹ sư, TP HCM
7846. Phạm Đ Thắng, kỹ sư, Đan Mạch
7847. Ho Thi Tuyet Hong, Manicurist, Hoa Kỳ
7848. Đoàn Trần Đức, Pháp
7849. Tôn Thị Kim Chi, hưu trí, CHLB Đức
7850. Ca Dao, Pháp
7851. Hoàng Ngọc Công, linh mục giáo phận Sài Gòn
7852. Nguyen Tuan Anh, doanh nhân, Cộng hòa Czech
7853. Vo Van Thanh, doanh nhân, Cộng hòa Czech
7854. Le Thi Nga, doanh nhân, Cộng hòa Czech
7855. Pham Van Hai, doanh nhân, Cộng hòa Czech
7856. Le Tan Duong, doanh nhân, Cộng hòa Czech
7857. Đỗ Thái Sơn, kỹ sư, Hoa Kỳ
7858. Quang Nguyen, hưu trí, Hoa Kỳ
7859. Dang Minh Son, công nhân, TP HCM
7860. Đinh Ngọc Quyết, nghề tự do, TP HCM
7861. Pham Minh Tung, programmer, Australia
7862. Nguyễn Ái Liên, nhân viên văn phòng, TP HCM
7863. Hoàng Kim Sơn, doanh nghiệp tư nhân xăng dầu, Daklak
7864. Hoàng Ngọc Anh Thư, học sinh, TP HCM
7865. Nguyễn Hoàng Anh, học sinh, TP HCM
7866. Lê Hòa, Huế
7867. Lương Văn Phước, Hoa Kỳ
7868. Nguyễn Nữ Như Nghĩa, Hoa Kỳ
7869. Nguyen Thi Ngoc Anh, Document Controller, Canada
7870. Dinh Van Thanh, TP HCM
7871. Nguyen Van Thuan, công nhân tự do, Hà Nội
7872. Nguyễn Công Hạnh, Ninh Thuận
7873. Chu Trọng Thi, kỹ sư, Vũng Tàu
7874. Trần Văn Vinh, kỹ sư, Vũng Tàu
7875. Nguyễn Văn Mạnh, kỹ sư, Vũng Tàu
7876. Trần Văn Thắng, kỹ sư, Vũng Tàu
7877. Nguyễn Tri Phương, kỹ sư, Vũng Tàu
7878. Phạm Tuấn, lập trình viên, Hoa Kỳ
7879. Pham Quốc Việt, cựu quân nhân, Hà Nội
7880. Nguyễn Hưng, công nhân, Hà Nội
7881. Le Ngoc Thanh, giáo viên, TP HCM
7882. Nguyễn Ngọc Sơn, giáo viên, Ninh Thuận
7883. Trần Yên Trường, Ninh Bình
7884. Trân Minh Nhât, Bình Định
7885. Phạm Hoàn Cầu, kinh doanh, TP HCM
7886. Tăng Phan Thanh Hiệp, kỹ sư, TP HCM
7887. Tăng Châu Huy, sinh viên, TP HCM
7888. Lê Minh Châu, nông dân, Tiền Giang
7889. Nguyen Tin Nang, Hà Nội
7890. Nguyễn Thị Nhâm, giáo viên, Hải Dương
7891. Giản Tư Thành, kỹ sư, TP HCM
7892. Lê Tiến Quang, công nhân viên chức, Tây Ninh
7893. Hồ Thái Hùng, sinh viên, Huế
7894. Le Ngoc Thanh, kiến trúc sư, TP HCM
7895. Tin Năng, Hà Nội
7896. Trần Đình Thịnh, kinh doanh tự do, TP HCM
7897. Quốc Truơng, bác sĩ, Australia
7898. Nguyễn Kim Thái, nhà báo, Quảng Ninh
7899. Lê Văn Hưng, kỹ sư, Đắk Lắk
7900. Nguyễn Phương Bắc, kỹ sư, TPHCM
7901. Nguyễn Xuân Ngọc, kỹ sư, Vũng Tàu
7902. Cao Thị Dung, nhân viên, Hà Nội
7903. Phạm Công Khanh, kỹ sư, Vũng Tàu
7904. Lê Trung Cường, kỹ sư, Vũng Tàu
7905. Le Van Xuan, cán bộ hưu trí, Dak Lak
7906. Le Thanh Hai, kỹ sư, Hà Nội
7907. Nguyễn Văn Lâm, công dân, Nghệ An
7908. Nguyễn Ngọc Nữ, công nhân,  Cà Mau
7909. Nguyễn Văn Sĩ, công nhân, Cà Mau
7910. Quách Văn Mừng, công nhân, Bạc Liêu
7911. Nguyễn Chí Nguyện, công nhân, Cà Mau
7912. Tô Văn Hây, công nhân, Cà Mau
7913. Lê Thanh Tí, công nhân, Bạc Liêu
7914. Huỳnh Quốc Văn, công nhân, Cà Mau
7915. Trương Thu Hai, công nhân, Bạc Liêu
7916. Ngô Thúy Mơn, công nhân, Cà Mau
7917. Trương Diễm My, công nhân, Bạc Liêu
7918. Cao Hải Minh, công nhân, Bạc Liêu
7919. Phạm Thị Tiền, công nhân, Đồng Tháp
7920. Nguyễn Ngọc Dũng, nhân viên văn phòng, Hải Phòng
7921. Trần Đăng Tân, thợ điện, Bà Rịa - Vũng Tàu
7922. Trần Định Tuyến, doanh nhân, TP HCM
7923. Nguyễn Việt Cường, lao động tự do, Hà Nội
7924. Đặng Văn Minh, nghề tự do, Đồng Tháp
7925. Luong Van Dung, TP HCM
7926. Kim Văn Vũ, nông dân, Bình Dương
7927. Phạm Khánh Toàn, sinh viên, Hải Dương


Copy từ: Bauxite Việt Nam