TIẾNG NÓI THÀNH THỰC HAY TIẾNG GỌI CỦA SỔ HƯU?
Đào Tiến Thi
Kính gửi anh Nguyễn Thanh Tú, PGS.TS, nhà
văn
Vì cũng có chút
biết anh nên xin phép xưng hô thân mật như trên. Chả là tôi và anh đã cùng dự
lớp bồi dưỡng về lý luận, phê bình văn học hồi hè 2008 do Hội Nhà văn mở. Thời
gian khoảng hơn hai tháng và học gần như liên tục các ngày nên nó cũng không đến
nỗi quá ít để chúng ta biết nhau. Hơn nữa trong thời gian học, lớp có tổ chức
một số cuộc hội thảo và một số lần gọi là “đi thực tế”, cho nên tôi và anh đã
từng nói chuyện với nhau, từng được (hoặc phải) nghe ý kiến của nhau trong các
hội thảo.
Nhưng chính vì một chút
thiện cảm trên mà một điều bất ngờ kinh khủng đã đến với tôi khi đọc bài của
anh trên báo Quân đội nhân dân: Khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp là hợp lý, hợp tình.
Điều sốc đầu tiên
là giọng điệu của người viết (anh là
dân lý luận, phê bình văn học nên thừa hiểu giọng điệu quan trọng như thế nào
trong một tác phẩm). Anh viết: “Có những kẻ cơ hội dựa vào một số sai
lầm của Đảng ta để kêu gọi sửa đổi Điều 4 Hiến pháp (ĐTT nhấn mạnh) đòi thay đổi
vị trí lãnh đạo cách mạng của Đảng”. Tuy ngôn từ không chỉ đích danh “những kẻ
cơ hội”, nhưng còn ai khác ngoài những người đã ký bản kiến nghị – gọi là “Kiến nghị 72” – gửi Quốc hội. Chưa kể đến
nay hơn 4000 người ký, trong đó có hàng trăm người danh giá, chỉ tính riêng
trong số 72 người “ký tươi” đợt 1 đã có hàng chục vị nhân sỹ, trí thức khả
kính. Nếu chỉ tính riêng trong giới văn chương thôi, nhiều vị về tuổi tác là
bậc cha chú, bậc anh chị của anh và tôi, về học vấn thì sự uyên thâm của họ là
những bậc thầy, bậc đàn anh của anh và tôi. Đó là những người như nhà văn
Nguyên Ngọc, GS. Trần Đình Sử, GS. Nguyễn Huệ Chi, PGS. Phạm Vĩnh Cư, nhà văn –
nhà giáo Phạm Toàn, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nhà nghiên
cứu Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên,... Trong số này, GS. Trần
Đình Sử còn là người thầy trực tiếp hướng dẫn tiến sỹ cho anh, người thầy mà
anh có dùng hết cuộc đời còn lại để học, tôi nghĩ cũng không có được sự uyên
bác như thầy.
Điều sốc thứ hai với tôi, là vấn đề kỹ
thuật trong bài viết của anh. Tôi không thể hiểu nổi một người có học hành, mang
những chức danh đẹp như thế mà viết nó lại luộm thuộm như thế. Không có biện
bác, không có chứng minh, gần như gặp đâu nói đó, không rõ mạch nào ra mạch
nào. Ví dụ như mục 1 – Đảng kế tục lịch sử và làm
nên lịch sử – nhưng phần triển khai anh lại huyên thuyên về
tội ác của thực dân Pháp và các truyền thuyết về lịch sử, chẳng dính dáng đến
cái tiêu đề đã nêu, chẳng cho người đọc thấy Đảng “kế tục lịch sử” ở chỗ nào và
“làm nên lịch sử” ở chỗ nào. Thực ra làm cái này rất dễ, vốn là những bài rất
quen thuộc, học trò cấp 3 vẫn làm làu làu bấy lâu nay. Này nhé, Đảng kế tục
lịch sử, vì Đảng tiếp nối ngọn cờ giải phóng dân tộc của các phong trào trước
đó, như Cần vương của các văn thân, sỹ phu, như phong trào vận động dân tộc và
dân chủ đầu thế kỷ XX của các cụ chí sỹ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,... Này
nhé, Đảng làm nên lịch sử vì đã lãnh đạo nhân dân đánh đổ thực dân và phong
kiến trong Cách mạng tháng Tám (1945), rồi lại liên tiếp lãnh đạo nhân dân
kháng chiến chống xâm lược Pháp (1946 – 1954), Mỹ (1955 – 1975), Trung Cộng
(1979), v.v..
Nhưng thôi, tôi bỏ
qua hầu hết các lỗi kỹ thuật đó để trao đổi những nội dung và những thông điệp chính
mà anh gửi gắm qua bài viết. Vì tôi là một trong 72 người “ký tươi” đợt đầu bản
Kiến nghị 72, cho nên từ đây xin được đối thoại với anh ở ngôi thứ nhất – chúng
tôi, chứ không phải ngôi thứ ba như phần đầu, khi trao đổi về mặt đạo lý trong
mối quan hệ giữa anh với một số vị tên tuổi trong số 72 người.
Về nội dung thứ nhất – Đảng kế tục lịch sử và làm nên lịch sử
Trong mục này,
trước hết anh kể tội thực dân Pháp trong thời kỳ đô hộ Việt Nam. Những tội của thực dân (đầu
độc bằng rượu cồn, bóc lột bằng sưu thuế,...) anh nêu na ná như trong Tuyên
ngôn độc lập, học trò đã qua cấp 3 gần như thuộc lòng, cho nên thực ra là thừa
và từ trước cũng như bây giờ, chả có ai phủ định những điều đó cả. Nhưng mục
đích anh nêu thể hiện ở mấy câu cuối đoạn này:
“Có
thể nói trong lịch sử hàng nghìn năm chưa bao giờ đất nước vẻ vang “con Rồng
cháu Tiên” lại rơi vào thảm cảnh khốn cùng như thế. Để cứu một dân tộc đang bị
tàn lụi vì bị đầu độc, đang bị chết đói bởi sự dã man thú vật của kẻ thù, lại
có một con đường “thỏa hiệp” với chính kẻ đang hút máu nhân dân mình ư? Và kẻ
thù xâm lược ấy chỉ có một mục đích là hút máu nhân dân mình, thì thử hỏi “thỏa
hiệp” với ai và bằng cách nào? Đúng là một lối nghĩ ảo tưởng, mơ hồ!”.
À, thì ra anh nghĩ chúng tôi đang muốn
đổi chế độ XHCN hiện nay để lấy chế độ thực dân cách đây từ 70 – 150 năm trước.
Không biết “duyên do” nào mà anh lại
có suy nghĩ như thế. Vì ít ra một em học sinh hết cấp 3 cũng đã có ít nhiều khả
năng phân biệt 3 điều sau:
- Chủ nghĩa thực
dân Pháp khác với văn hoá, văn minh Pháp.
- Chính sách thực dân của nhà nước
Pháp thi hành ở các nước thuộc địa khác với chính thể Cộng hoà Pháp (ở chính
quốc) với tôn chỉ “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” mà nhân dân Pháp liên tục hoàn
thiện nó suốt từ Cách mạng 1789 đến nay.
- Nước Pháp thời trước, cách đây
30, 50, 70, 100, 150,... năm khác với nước Pháp bây giờ.
Đối với nước Mỹ,
Nhật hay thế giới phương Tây nói chung tình hình cũng tương tự như vậy. Cho nên
nền dân chủ của Pháp, Mỹ, Đức, Anh,... đến nay vẫn là những nền dân chủ mà nhân
loại phải ngưỡng mộ.
Cũng chính vì nhận
thức như thế nên ngay từ đầu thế kỷ XX, các chí sỹ cách mạng lỗi lạc như Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, với hoài bão giải phóng dân tộc mãnh liệt, lại chính
là người vận động “Tân học”, tức là học theo phương Tây, cụ thể là học theo nước
Pháp, người Pháp một cách tích cực nhất. Và chính bản thân hai cụ Phan – một
mặt là nạn nhân đàn áp của chủ nghĩa thực dân Pháp, mặt khác, chính những người
Pháp dân chủ, tiến bộ lại ra sức ủng hộ và cứu các cụ. Cụ Phan Châu Trinh bị
triều đình Huế kết tội chung thân đày đi Côn Đảo, thế nhưng chỉ ba năm sau do
sự bênh vực của Hội Nhân quyền Pháp mà cụ được ra tù và người Pháp đón hẳn cụ
sang Pháp ở (có chế độ trợ cấp của chính phủ Pháp). Cụ Phan Bội Châu, người dính
líu vào hàng chục cuộc bạo động chống Pháp, ấy thế mà cuối cùng họ lại tha
bổng. (Còn các hoạt động “tuyên truyền chống nhà nước Pháp”, thì chính quyền
Pháp không coi là tội[1]). Chính
cụ Phan cũng thừa nhận nếu giao cụ cho toà án Nam triều (triều đình Huế) thì cụ
đã không thoát khỏi án tử hình và do đó cụ hết lời cảm ơn chính phủ Pháp. Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc khi đi tìm đường cứu nước cũng đến Pháp, nhờ sự giúp đỡ của
người Pháp.
Phần tiếp theo trong
mục 1, anh nói về Đảng biết nhân nhượng: “Những
người cộng sản lãnh đạo dân tộc ta làm nên kỳ tích lịch sử năm 1945 không hề
thỏa hiệp với kẻ thù nhưng rất biết nhân nhượng với kẻ thù vì mục đích hòa
bình. Hãy đọc lại Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh...”. Sau đó anh dẫn ra các anh hùng của Việt Nam theo dã sử được nhân dân thờ
phụng. Như trên đã nói, đó là một sự lạc đề trong lập luận. Nhưng nếu cố khớp 2
ý trên với đoạn kết thì sẽ đọc được ý anh muốn nói gì. Anh viết: “Có thể nói phẩm chất anh hùng quyết không
bao giờ chịu nô lệ cho kẻ ngoại bang có ở trong máu của mỗi người Việt, nhất là
mỗi khi có kẻ thù xâm lăng thì phẩm chất ấy càng trỗi dậy mạnh mẽ”.
À, thì ra tuy đang
bàn về hiến pháp nhưng anh “tạt ngang” để thanh minh cho một bộ phận cầm quyền
hiện nay đang nhân nhượng chủ quyền quốc gia cho Trung Cộng. Nhưng lý lẽ thanh
minh của anh không có sức thuyết phục, bởi vì không thể lấy cái anh hùng của
người xưa để bào chữa cho cái hèn hôm nay. Và sự nhân nhượng của Cụ Hồ hồi ấy cũng
khác hẳn hôm nay. Cụ Hồ nhân nhượng nhưng không bắt nước ta phụ thuộc vào Pháp.
Nhân nhượng nhưng không để mất biển, mất đảo. Nhân nhượng Pháp nhưng không đàn
áp người yêu nước chống Pháp... Vả lại, cái anh hùng hồi 1945 – 1946 cũng đã
thuộc về thế hệ trước. Ngay cả những người anh hùng trong chống Mỹ, chống Tàu
Cộng hôm nay còn sống khoẻ mạnh, nhiều người cũng đã trở nên hèn rồi. Vì trong
khi chúng tôi đề cao quá khứ dân tộc thì họ tìm cách dập tắt đi. Bia ghi công
của Quang Trung đại phá quân Thanh (do chính Cụ Hồ viết) ở Nghệ An bị người ta
thay. May nhờ sự đấu tranh quyết liệt của những người anh cho là “cơ hội”
(trong đó phải kể đến công anh Phạm Xuân Nguyên) nên gần đây người ta mới khôi
phục lại văn bia do Cụ Hồ viết. Và mới đây nhất (17-2-2013), họ dứt khoát không
cho chúng tôi tưởng niệm liệt sỹ chống Trung Cộng hồi 1979, chẳng lẽ anh không
biết sao?
Về nội dung thứ hai - Bài học “Quốc trị, thiên hạ mới bình”
Câu“Quốc trị,
thiên hạ mới bình” anh dẫn của Cụ Hồ, mà Cụ Hồ lại dẫn của Khổng Tử, với
lời giải thích của anh – “Mỗi quốc gia hãy thật yên ổn đã, thì tự
nhiên thế giới sẽ hòa bình”, tôi chưa có điều kiện kiểm tra lại có đúng không,
nhưng nếu đúng thì anh phải đem “dạy” cho nhà cầm quyền Trung Cộng chứ? Bởi cứ
khi nội tình họ không yên là họ tìm cách bành trướng ra bên ngoài mạnh hơn. Và
cũng có khi họ giải quyết được vấn đề. Ví dụ cuộc “Dạy cho Việt Nam một bài
học” năm 1979 đã giúp Đặng Tiểu Bình lấy lại được tinh thần Trung Quốc sau cơn
đại khủng hoảng do Cách mạng văn hoá đem lại.
Đoạn tiếp sau anh viết: “Bản chất xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động là không bao giờ thay đổi.
Muốn vậy chúng sẽ tìm mọi cách gây mất ổn định chính trị để từ đó tạo cớ can
thiệp hoặc làm suy yếu để dễ bề xâm lấn, tiến đến thôn tính. Do vậy đối với
tình hình cách mạng nước ta hiện nay mục tiêu cơ bản, bao trùm là giữ vững ổn
định chính trị để phát triển đất nước”.
Điều đó thì đúng quá rồi. Có điều phải
xác định đâu là đế quốc và không phải đế quốc nào cũng là kẻ thù. Trong lịch
sử, Đảng CSVN đã từng xác định rất đúng kẻ thù. Ví dụ giai đoạn 1941 – 1945, nước
ta bị cả Pháp và Nhật đô hộ, Đảng kêu gọi người Pháp đứng về phía Việt minh để
chống Nhật. Hồi chống Mỹ, Đảng tranh thủ sự ủng hộ của người Pháp để chống Mỹ. Hồi
1978 – 1988, Đảng xác định kẻ thù nguy hiểm trực tiếp là Trung Cộng. Còn hiện
nay, kẻ thù nguy hiểm trực tiếp (và có lẽ là duy nhất), vẫn là đế quốc Trung Cộng.
Thế nhưng Đảng lại coi là bạn, thậm chí bạn thân nhất, thế là xác định sai. Nhà
cầm quyền Trung Cộng được cái thế “ông anh”, cứ lấy dần chủ quyền và lãnh thổ
của ta. Cho nên điều trên lẽ ra anh phải đem “dạy” cho Đảng CSVN chứ không phải
chúng tôi.
Anh viết tiếp: “Chỉ có Đảng ta chứ không thể có bất kỳ một lực lượng chính trị nào
khác gánh vác thay, làm thay sứ mệnh cực kỳ hệ trọng này. Và cũng không thể có
bất kỳ một lực lượng chính trị nào khác có đủ uy tín, đủ năng lực, đủ vai trò
để làm công việc lớn lao đó”.
Anh nêu điều này như một tiên đề, mà
lẽ ra anh phải chứng minh mới đúng. Nhưng chắc đây không phải “sơ xuất kỹ
thuật” mà vì anh không thể nào chứng minh nổi. Vì đến đứa trẻ con cũng biết, nước
Mỹ, nước Anh, nước Pháp, nước Đức, nước Nhật,... không có Đảng mà vẫn là cường
quốc; ngay nước Thái, nước Singapore,... chưa lâu trước đây lạc hậu hơn ta nay lại gấp
ta hàng chục lần. Còn nước ta, Bắc Triều, Cu Ba, Lào có Đảng mà sao vẫn là
“nhược tiểu”. Trung Quốc mạnh nhưng nhân dân cũng khổ.
Về
nội dung thứ 3 – Đảng lãnh đạo thực hiện
mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"
Mục tiêu "Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" thì đẹp quá rồi, có ai phản đối gì đâu. Vấn đề
là làm thế nào để đạt mục tiêu đó. Và chính điều này liên quan đến hiến pháp.
Hiến pháp hiện giờ cản trở mục tiêu trên và một trong những điều cản trở lớn
nhất là điều 4. Điều 4 làm cho đất nước không có dân chủ và chính nó làm tha
hoá Đảng CSVN. Vấn đề này nhiều người đã phân tích nên tôi không nói lại hoặc
là sẽ nói vào một dịp khác. Nhưng tôi phải phân tích cách hiểu sai của anh khi
anh viết:
“Có những kẻ cơ hội dựa vào một số sai lầm
của Đảng ta để kêu gọi sửa đổi Điều 4 Hiến pháp đòi thay đổi vị trí lãnh đạo
cách mạng của Đảng. Phải thấy một chân lý giản đơn rằng, con người ta ai cũng
có sai lầm, có làm việc là có sai lầm, có cái sai mới dẫn đến có cái đúng. Với
quan niệm rộng lượng mà triết lý, cụ thể mà phổ quát, người Việt ta có câu
“ngọc còn có vết” là vì thế”.
Trước hết, anh Tú đã hiểu sai 2 điều
sau đây:
1.
Bỏ điều 4, anh nghĩ là chúng tôi “đòi thay đổi vị trí lãnh đạo cách mạng của
Đảng”. Chúng tôi đâu có bảo Đảng không được lãnh đạo mà chỉ muốn sự lãnh đạo
của Đảng CSVN (hay bất cứ đảng nào) phải chính danh.
Cho nên Kiến nghị 72 ghi rất rõ, anh
Tú nếu chưa đọc xin đọc lại đoạn này:
“Nếu
hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định thì việc định trước vai trò lãnh đạo
nhà nước và xã hội thuộc về một tổ chức chính trị hay một tầng lớp là trái với
quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và ngược với bản
chất của một nhà nước pháp quyền”.
Nghĩa là đảng nào được nhân dân lựa chọn
thì chính danh, thì trở thành đảng cầm quyền, chứ không thể mặc định
một cách bất bất biến, đó là nguyên tắc của một nhà nước dân chủ. Một đảng hôm
qua tiến bộ, hôm nay có thể lạc hậu, nhưng ngày mai có thể lại tiến bộ. Tuỳ mỗi
lúc như thế nào mà nhân dân lựa chọn hay không lựa chọn.
2.
Tính chính danh sẽ làm cho Đảng CSVN mạnh lên, giúp Đảng luôn luôn đào thải
những phần tử thoái hoá. Cho nên Kiến nghị 72 viết tiếp:
“Chủ
thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân bầu chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do,
dân chủ, định kỳ. Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của
nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy. Hiến pháp của
Liên Xô năm 1977 quy định ở Điều 6 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
nhà nước và xã hội đã không tránh được sự sụp đổ của chế độ Xô-viết khi không
còn lòng tin của dân.
Việc
đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là
điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả
các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của
đất nước.
Ý
kiến nêu trên được tiếp thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại
niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị
được xã hội chấp nhận”.
Tôi là một đảng viên, cũng như hầu hết
các vị nhân sỹ trí thức ký Kiến nghị 72 (đợt 1) là đảng viên, lẽ nào không mong
đảng mình giành được quyền lãnh đạo? Nhưng muốn thế phải giành được quần chúng
bằng sự chính danh, bằng sự tín nhiệm chứ không thể ép buộc.
Sau nữa, anh phải đem đạo lý ra để bảo
vệ sai lầm của Đảng thì quả là bi hài và cũng không đúng đạo lý! Nếu đã chấp
nhận Đảng cầm quyền một cách mặc định bất biến như anh thì phải chấp nhận mọi
sai lầm của Đảng thôi, kể cả Đảng có đưa dân tộc này đến chỗ diệt vong. Nếu
nhân dân đã giao phó sinh mệnh của mình cho Đảng một cách vĩnh viễn thì “lượng
cả bao dong” của nhân dân cũng là vô nghĩa!
Anh Tú lấy công lao của
Đảng trong quá khứ để Đảng cầm quyền vĩnh viễn lại càng hớ. Anh viết: “Việc đòi bỏ điều 4 Hiến pháp vừa phi lý, vừa chẳng hợp tình. Phi lý ở
chỗ với vai trò lịch sử của mình không một ai có thể làm thay Đảng ta công cuộc
đưa đất nước phát triển, lớn mạnh; chẳng hợp tình ở chỗ cố tình quên lịch sử,
cố tình quên những hy sinh xương máu của Đảng ta...”
Anh Tú ạ, thứ nhất, không
ai quên Đảng CSVN đã từng “hy sinh xương máu” nhưng cũng phải thấy đấy là xương
máu của cả dân tộc mà Đảng chỉ là một bộ phận. Hàng vạn quần chúng vô danh đã
chết, đã bị tù đày trong các cao trào do Đảng phát động hay trong chiến tranh
vệ quốc, suốt từ Xô viết Nghệ Tĩnh, qua khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam
Kỳ, Đô Lương, qua kháng Nhật, kháng Pháp, kháng Mỹ, kháng Pôn-pốt, kháng Tàu
Cộng, số quần chúng vô danh này chắc chắn nhiều hơn đảng viên của Đảng hàng
ngàn lần. Không có nhân dân thì Đảng không làm nên cái gì cả. Mà trớ trêu là nhân
dân hy sinh như thế mà đến nay lại không có tự do, hạnh phúc. Nhiều người đã ủng hộ
Đảng, ủng hộ kháng chiến hết lòng nhưng nay lại là nạn nhân của chính những
quan chức mà họ đã tận tình chở che, đùm bọc. Và xương máu nhân dân đổ ra trước
khi có Đảng cũng gián tiếp góp phần cho Đảng về sau. Từ các cuộc giữ bán
đảo Sơn Trà (1858), giữ thành Gia Định (1859 – 1862), giữ thành Hà Nội (1873,
1882), cuộc phản công ở kinh thành Huế (1885), rồi cả một phong trào Cần vương rộng
lớn với hàng chục cuộc khởi nghĩa (1885 – 1900), rồi các cuộc vận động cứu nước
của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học,... Những phong trào ấy đã nuôi
dưỡng tinh thần yêu nước, nuôi dưỡng dòng máu quật cường của dân tộc Việt Nam,
tạo điều kiện để Đảng CSVN, người lãnh đạo cuộc
chạy tiếp sức cuối cùng, giành thắng lợi. Không có các phong trào trước đó
để dân tộc trưởng thành thì cũng không có sự thành công về sau. Giai đoạn 1900
– 1945, cái giai đoạn mà anh Tú cho là đất nước trong cảnh tối tăm mù mịt ấy,
thực ra đó chỉ là một mặt của đời sống, một mặt khác, nhờ cuộc chạy tiếp sức
của các thế hệ các nhà cách mạng và trí thức, dân tộc ta đã trưởng thành vượt
bậc, từ ý thức dân tộc, ý thức cá nhân đến văn hoá, văn học, nghệ thuật. Là người
nghiên cứu văn học Việt Nam,
chắc anh Tú thừa hiểu điều đó.
Thứ hai, theo cách lý luận
của anh thì hàng loạt dòng tộc ở nước ta đều có quyền đòi hỏi cái quyền lãnh
đạo đất nước, bởi vì cha ông họ cũng đã từng “hy sinh xương
máu”, cũng đã từng đưa “đất nước phát triển, lớn mạnh”. Có lẽ chỉ có thời các
vua Hùng, thời An Dương Vương, Hai Bà Trưng do sự ghi chép còn mù mịt, nên nay
ta khong biết con cháu các cụ ấy là ai, chứ từ Lý Bí là chúng ta có thể tìm
được hậu duệ của những vị tiền nhân có công lập quốc. Các triều đại Ngô, Đinh, Tiền
Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn đều có thể tìm được “người thừa
kế” ngai vàng hôm nay dễ dàng. Và nếu như thế lịch sử không thể nào kết tội
được những Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống,... vì họ đều là con
cháu của các triều đại có công.
Thay lời kết
Nếu anh Nguyễn Thanh Tú
viết bài mắng mỏ, dạy dỗ chúng tôi theo lý thuyết cái “sổ hưu” của PGS.TS. Đại
tá Trần Đăng Thanh, thì chúng tôi bó tay. Còn nếu quả thật anh Tú nhận thức
đúng như những điều anh viết thì có lẽ chỉ vì anh không chịu tìm hiểu, không
chịu suy nghĩ, thì có thể trao đổi tiếp được. Thời đại thông tin tạo cơ hội cho
mọi người nhìn rộng ra năm châu bốn biển, cho nên mỗi người đều có thể tự tìm
ra chân lý. Cho nên ngay cả nhiều vị lãnh đạo cao cấp hoàn toàn ở trong “lề
Đảng” mà cũng có cái nhìn rất tiến bộ, rất thực tế. Cách đây 3 năm, ông Nguyễn
Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội đã từng đề nghị nhân dân phải có quyền phúc quyết hiến pháp, cũng có
nghĩa quyền lập hiến thuộc về nhân dân. Cũng có nghĩa không thể áp đặt Điều 4.
Và mới đây, TS. Nguyễn Sỹ Dũng, đương kim Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, đã nêu
rõ “hiến
pháp là một bản khế ước xã hội” và “Một
bản Hiến pháp chỉ thực sự hiệu năng khi nó trở thành một thứ “kinh thánh”
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Muốn được như vậy thì nó không thể bị áp đặt”.
Còn TS. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, như anh biết, là một
thành viên quan trọng của nhóm Kiến nghị 72, Trưởng đoàn của Đoàn đại biểu nhân
sỹ trí thức, đến trao tận tay Kiến nghị 72 cho Quốc hội.
Cho nên tôi hy vọng
anh sẽ tìm hiểu các nguồn thông tin, tìm hiểu thực tế, để chúng ta có thể biện
bác bằng lý lẽ, chứ không phải cậy thế “lề Đảng”, chỉ cần vung đao với ai khác
mình bằng lời kết tội “bọn cơ hội”, “bọn phản động”.
Thân
chào anh.
Đào
Tiến Thi
[1] Cứ như
cách xử của các toà án Việt Nam bây giờ thì riêng tội “tuyên truyền chống nhà
nước, cụ Phan cũng không tránh được mức án cao nhất: 20 năm tù.
Copy từ: TS Nguyễn Xuân Diện