Sợ bóng sợ vía, sợ đủ mọi phía, sợ Đảng "quy vào"... tội! |
*
BÙI VĂN BỒNG
BVB - Sau thắng cuộc 1975, Việt Nam nổi tiếng trên thế giới là dân tộc anh
hùng, một dân tộc kiên cường gan góc chống giặc ngoại xâm, một dân tộc có lòng
yêu nước nồng nàn, đã mấy nghìn năm không bao giờ chịu khuất phục trước mọi thế
lực ngoại bang xâm lược, thôn tính.
Thế nhưng, hiện nay cả dân tộc đang đặt trước nhiều
nỗi sợ, thậm chí bạn bè quốc tế còn đánh giá là hèn kém. Trước hết, người dân
cả nước đã thấm đậm hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, nay rất
yêu chuộng hòa bình, và dĩ nhiên sợ chiến tranh. Chiến tranh đối với dân tộc
Việt Nam
là nỗi đau, dày đắp hy sinh xương máu hết đời này sang đời khác. Nay tuy đã 24
năm lặng tiếng súng kể từ sau hải chiến Trường Sa (1988), nhưng đất nước vẫn
chưa có hòa bình. Nguy cơ chiến tranh vẫn rình rập cận kề. Rõ nhất là những ẩn
chứa tiềm tàng những nguy cơ bùng phát chiến tranh biển-đảo, biên giới. Vì thế,
nối sợ chiến tranh, nỗi sợ mất đi cuộc sống hòa bình cứ thường trực ngày đêm,
canh cánh không yên lòng dân Việt.
Đó là nỗi sợ lớn nhất.
Về giới lãnh đạo, đảng cầm quyền
đang rất sợ Đảng Cộng
sản bị tiêu vong, và đã rõ những nguy cơ tiêu vong cận kề. Nguy cơ này,
gần đây
đã liên tục được báo động trong các nghị quyết, các hội nghị của Đảng.
Đảng
càng sợ mất Đảng, lại càng ra sức cảnh giác, đề phòng với những gì bị
coi là
nguy cơ làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, từ Ủy viên Bộ
Chính trị,
các Ủy viên Trung ương, đến đảng viên thường đều sợ mất Đảng, nhiều
người đã
tin là khó giữ được sự “tồn”, mà hiện trạng thế này rồi thì tình huống
“vong”
của Đảng xảy ra bất cứ lúc nào. Một đảng mà "một bộ phận không nhỏ lãnh
đạo có chức có quyền suy thoái, biến chất" thì còn đâu sức sống? Tồn tại
càng lâu thì tác hại đến xã hội càng lớn, chưa nói đến sức chiến đấu,
vai trò lãnh đạo xã hội!
Suy cho cùng, nhất là sau Hội nghị Thành Đô 1990, Đảng
ta cứ liên tục đưa ra, có khi hô toáng lên nào là “diễn biến hòa bình”, nào là
“thế lực thù địch”, nào là “ý chí phục thù bên thua cuộc”, nào là mầm mống phản
động”, nào là phong trào dân chủ tự phát, đòi “đa nguyên đa đảng”…Nghĩa là,
Đảng ta không yên tâm, toàn ý cầm quyền, mà lúc nào cũng sợ kẻ nào đó giật mất
quyền của mình. Nhưng, gần đây, những
tiếng nói trung thực đã ít bị ruồng ép, khó bịt mồm, không dễ ngăn chặn, buộc
phải công nhận. Đó là những đánh giá, nhận định, kết luận: Không ai phá, không
có ‘diễn biến hòa bình”, “thế lực thù địch” nào khác, mà nguyên nhân chính là
Đảng ta đã tự pha sbanh chính mình, từ trong nội bộ đã “tự diễn biến”, nghĩa là
người cộng sản tự đào hố chôn mình! Phân tích cho rõ: “Diễn biến hòa bình” là
sự mắc mưu Trung Quốc, họ muốn độc tôn với Việt Nam, muốn chính phục, chi phối
Việt Nam từ chính trị đến đối ngoại, từ kinh tế đến van hóa-xã hội. Nghĩa là sự
thôn tính thông qua cái gọi là “trỗi dậy hòa bình”, là thủ đoạn thâm độc của
“xâm lược mềm”, chinh phục, thôn tính không cần chiến tranh.
Vì thế, cái đích cần đạt tới của Trung Quốc trong chiêu bài ‘diễn biến hòa bình” là Việt Nam không được (tùy tiện) hòa hợp dân tộc, phải ghi hận thù với Mỹ và các nước phương Tây, cấm được “Âu hóa”, phương Đông ta chỉ nên tin và ‘chơi’ với phương Đông thôi; rằng tư bản là xấu, phương Tây là xấu và ác, chỉ có Trung Quốc là tin cậy, phải dựa vào Trung Quốc, phải nghe lời Trung Quốc, khi “ông anh” nói gì đều phải nghe…Rằng: Việt Nam phải hết sức cảnh giác, Mỹ, phương tây, cả Nga và các nước Đông Âu cũng không tốt, họ đang “diễn biến hòa bình” thâm độc, nguy hiểm, phải luôn luôn cảnh giác với họ. Nhất là số Việt kiểu ở Mỹ, thế lực hải ngoại thua cuộc từ 1975 đang rắp tâm đấy, Việt Nam cần cảnh giác…
Vì thế, cái đích cần đạt tới của Trung Quốc trong chiêu bài ‘diễn biến hòa bình” là Việt Nam không được (tùy tiện) hòa hợp dân tộc, phải ghi hận thù với Mỹ và các nước phương Tây, cấm được “Âu hóa”, phương Đông ta chỉ nên tin và ‘chơi’ với phương Đông thôi; rằng tư bản là xấu, phương Tây là xấu và ác, chỉ có Trung Quốc là tin cậy, phải dựa vào Trung Quốc, phải nghe lời Trung Quốc, khi “ông anh” nói gì đều phải nghe…Rằng: Việt Nam phải hết sức cảnh giác, Mỹ, phương tây, cả Nga và các nước Đông Âu cũng không tốt, họ đang “diễn biến hòa bình” thâm độc, nguy hiểm, phải luôn luôn cảnh giác với họ. Nhất là số Việt kiểu ở Mỹ, thế lực hải ngoại thua cuộc từ 1975 đang rắp tâm đấy, Việt Nam cần cảnh giác…
Đó là nỗi sợ mà Đảng ta
đã gói chặt ôm về “gối đầu
giường” từ sau Hội nghị Thành Đô, như một thứ bùa mê thuốc lú đã ngấm
sâu vào
thần kinh và nội tạng. Rồi sau đó lại sang tàu “ẵm về” 16 chữ vàng, 4
tốt, để
mê muội, lú lẩn thêm, để bám Trung Quốc chặt hơn, chẳng khác nào Bạch
Cốt Tinh
hóa cô nằng xinh đẹp hút hồn thấy trò Đường Tăng vậy. Như thế, các vị,
các cấp lãnh đạo và hơn 3,6 triệu đảng viên phải biết sợ chính mình
trước khi sợ mất Đảng!
Đối với người dân: Nỗi sợ thường trực, do sự chuyển
hóa rất siêu nghệ của “chuyên chính vô sản”, từ chỗ (theo lý luận cách mạng
Mác-xít) là chuyên chính với kẻ thù, dân
chủ với nhân dân, bỗng quay sang “chuyên chính với nhân dân”, chuyên chính vơi
sngay nền dân chủ mà Đảng vẫn tự khoe là “ưu việt”, là “dân chủ gấp vạn lần dân
chủ tư sản”…Đã có quyền trong tay, thế lực đầy mình, lực lượng bảo vệ Đảngngày
càng đông đảo, được chính quy hóa, nhất là công an, thanh bảo kiếm trung thành
bảo vệ Đảng, ai mà không ngán? Dù bài hát ca ngợi chiến sĩ công an có đủ bộ 3: “Vì an ninh Tổ quốc ta đi / được mang danh thanh bảo kiếm trung thành
/ bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
chế độ tươi đẹp…”. Nhưng rồi lãnh đạo, chỉ huy, huấn luyện, giáo dục lực
lượng công an rất tài. Chỉ thấy bảo vệ Đảng, không thấy bảo vệ nhân dân, và
cũng qua đó mất đi ý nghĩa “chế độ tươi đẹp”. Chế độ cho ai, ai được hưởng, khi
người dân thấy bóng, hoặc mới nghe nói đến công an là mỗi người đều có “phản xạ
thường trực” phải cảnh giác, được yên thân là hơn hết?
Một xã hội thời văn minh, hiện đại, thời toàn cầu hóa mà như bị co lại trong vỏ ốc, nhiều biểu hiện lạc hậu hơn cả thời phong kiến: Lãnh đạo sợ giặc thù, sợ "mất ổn định"; sợ không qua "nhiệm kỳ"; người dân sợ chính quyền, công an, sợ kẻ cướp, sợ côn đồ, xã hộ đen. Xem ra, từ lãnh đạo đến người dân, sợ quá hóa yếu, sinh hèn, bất cần, nhu nhược, không còn đâu chí khí, bản lĩnh, truyền thống Việt. Và do vậy, khối đại đoàn kết dân tộc bị vữa ra, tan loãng vô hiệu hóa. Đó là nguy cơ mất nước!
Một xã hội thời văn minh, hiện đại, thời toàn cầu hóa mà như bị co lại trong vỏ ốc, nhiều biểu hiện lạc hậu hơn cả thời phong kiến: Lãnh đạo sợ giặc thù, sợ "mất ổn định"; sợ không qua "nhiệm kỳ"; người dân sợ chính quyền, công an, sợ kẻ cướp, sợ côn đồ, xã hộ đen. Xem ra, từ lãnh đạo đến người dân, sợ quá hóa yếu, sinh hèn, bất cần, nhu nhược, không còn đâu chí khí, bản lĩnh, truyền thống Việt. Và do vậy, khối đại đoàn kết dân tộc bị vữa ra, tan loãng vô hiệu hóa. Đó là nguy cơ mất nước!
Trong kháng chiến, Đảng
kêu gọi lòng yêu nước, thi đua yêu nước, toàn dân đánh giặc, nuôi chí
anh hùng; nhưng trong hòa bình, Đảng lại xem nhẹ, coi thường lòng yêu
nước, làm nhụt chí anh hùng, xóa nhòa niềm tự hào dân tộc. Mọi nỗ lực
dân chủ đều bị khoanh hẹp, thậm chí triệt tiêu, quyền lực của dân bị
chặt hết, đồng tiền có quyền lực tối cao, chức quyền ra sức thống trị;
cả bộ máy quyền hành trở thành nỗi ngán ngại, sợ sệt đối với người dân.
Trong kháng chiến, cán bộ được người dân hy sinh cả tính mạng, của cải
để bảo vệ; nhưng hòa bình rồi thì đảng không bảo vệ dân, còn ức hiếp
dân, thậm chí nặng về quan liêu, mệnh lênh: "bảo cái gì dân cũng phải
nghe". Nếu sợ nguy cơ tồn vong của Đảng, của chế độ cần nhận diện và
thấu suốt thực trạng đáng lo ngại ấy!
Người dân trong một nước được mang danh rất kêu là “nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân”, một nước đã “tự do, độc lập” mà người dân không được hưởng quyền lợi gì, đụng đến một chút gì làm chính quyền phật ý là bị ghi sổ đen, bị theo dõi, bị bắt giam, bị quy chụp thành tội rồi tống giam, bất cần công ký, bỏ qua mọi thứ pháp luật.
Người dân trong một nước được mang danh rất kêu là “nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân”, một nước đã “tự do, độc lập” mà người dân không được hưởng quyền lợi gì, đụng đến một chút gì làm chính quyền phật ý là bị ghi sổ đen, bị theo dõi, bị bắt giam, bị quy chụp thành tội rồi tống giam, bất cần công ký, bỏ qua mọi thứ pháp luật.
Dân chủ ở đâu, khi nghe đài, đọc báo, mở mạng Internet,
thậm chí cả khi chuyện vui, chuyện phiếm bàn trà, quán nhậu, bất kỳ nơi đâu đều
bị theo dõi, bị cấm đoán, bị “quy vào” hết chuyện này đến tội danh tội trạng khác?
Nói cái gì cũng phải nhìn trước ngó sau, tự biết canh chừng, sợ “ếch chết vì ộp
ộp” thì đó là quyền gì? Nỗi sợ thường trực ngày đêm của mọi công dân, kể cả trí
thức, nhà báo, đảng viên đến mức mát hẳn quyền con người, ăn không ngon, ngủ
không yên là do ai gây nên? Do quan điểm
của Đảng bị đánh tráo, tư tưởng bị lọi dụng, bẻ cong?
Lại nữa, dù rất phi lý:
Nhà báo sợ viết sự thật, người nghèo sợ kẻ sẵn tiền,
chính quyền sợ đại gia, người già sợ con nít, người dân sợ công an, công
an sợ
côn đồ, dân lành sợ lưu manh; kinh doanh sợ đánh thuế cao; trồng trọt,
chăn nuôi sợ không bán được sản phẩm; gửi tiền ngân hàng sợ bị 'nhóm lợi
ích' giật; mua hàng sợ hàng gian hàng
giả, ăn uống sợ độc hại, sợ nắc bệnh ung thư. Rồi nữa: Đảng viên sợ 19
điều
cấm; Đảng sợ dân phê bình, 'nói xấu', 'bôi nhọ'; dân sợ đảng trù úm, hằn thù; đi
bộ đội sợ hy sinh không được công nhận liệt sĩ, mộ chí không ai thắp
hương đặt hoa tưởng niệm; người lao động sợ mất việc, học nghề sợ thất
nghiệp, ra chợ sợ giá cả, ốm
đau sợ không đủ tiền mua thuốc...
Những cái tưởng như “chuyện vặt” sinh hoạt thường ngày mà cũng khiến người ta sợ đến phát điên: Có của sợ mất cắp, ra đường sợ tai nạn, sợ đóng phí này kia, sợ không phải “xe chính chủ”, đi học sợ đóng tiền, không biết lót tay thầy thì ở lại lớp, đi viện sợ bác sĩ bỏ chết, xác chết sợ cấm đoán không cho con cháu nhìn mặt… Cứ như thế, nỗi sợ này kéo theo, dính chùm cùng nhiều nỗi sợ ập đến, mọi nỗi sợ nối tiếp nhau như những con cờ đô-mi-nô. Vậy thì tất cả do chế độ chính trị, do đường lối, chính sách, cách thức quản lý, điều hành nào gây nên?...? Dấu chân Việt Nam chẳng lẽ (vì thế) nhạt nhòa dần: ... Tình chưa yên vui, bên sóng đời cuồng nộ / Chợt đêm chia phôi, ngăn cách một đại dương / Từng dài âu lo, từng quen đợi chờ. / Mộng thật cam go / Miễn là mai niềm đau thành nụ cười (Trầm Tử Thiêng). Tình người, tình đời, sao cứ làm cho nhau sợ,… "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" (Trịnh Công Sơn).
Những cái tưởng như “chuyện vặt” sinh hoạt thường ngày mà cũng khiến người ta sợ đến phát điên: Có của sợ mất cắp, ra đường sợ tai nạn, sợ đóng phí này kia, sợ không phải “xe chính chủ”, đi học sợ đóng tiền, không biết lót tay thầy thì ở lại lớp, đi viện sợ bác sĩ bỏ chết, xác chết sợ cấm đoán không cho con cháu nhìn mặt… Cứ như thế, nỗi sợ này kéo theo, dính chùm cùng nhiều nỗi sợ ập đến, mọi nỗi sợ nối tiếp nhau như những con cờ đô-mi-nô. Vậy thì tất cả do chế độ chính trị, do đường lối, chính sách, cách thức quản lý, điều hành nào gây nên?...? Dấu chân Việt Nam chẳng lẽ (vì thế) nhạt nhòa dần: ... Tình chưa yên vui, bên sóng đời cuồng nộ / Chợt đêm chia phôi, ngăn cách một đại dương / Từng dài âu lo, từng quen đợi chờ. / Mộng thật cam go / Miễn là mai niềm đau thành nụ cười (Trầm Tử Thiêng). Tình người, tình đời, sao cứ làm cho nhau sợ,… "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" (Trịnh Công Sơn).
Ôi, một xã hội mà từ vị
lãnh đạo, từ ‘vua” đến dân, ai
cũng canh cánh nỗi sợ, thì sao có thể gọi là tốt đẹp, là "ưu việt"? Làm
sao mà phát triển
được đất nước sánh vai với các nước? Cho nên, với hiện trạng này, câu
kết trong các Nghị quyết Đại hội Đảng mà nhiệm kỳ nào cũng 'bổ cũ soạn
lai' đọc đến phát ngán: “Phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” nay đã chứng minh chỉ là khẩu hiệu cửa miệng nhàm
chán, vô nghĩa mà thôi.
BVB
Copy từ: Bùi Văn Bồng