CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

BẠN NGỦ NHƯ THẾ NÀO?













  • Apr 9, 2010 7:57 AM
Vậy GAM ngủ như thế nào ???
 
 
Gã Ăn Mày
   Khi ngủ Ăn Mày nhắm mắt và không thèm nhìn đời. :)


BÀI VIẾT CỦA BLOGER LÊ DŨNG VỀ CHUYỆN LÊ ANH HÙNG



NHÌN XEM ĐÂU LÀ KẺ TÂM THẦN 

CHUYỆN THẬT NHƯ BỊA:
By Lê Dũng bloger
Chết cười khi nghe chuyện ở ta: mẹ tám mươi tuổi làm đơn ký gửi công an hay chính quyền đề nghị đưa con trai - là nhà báo tự do, một công dân 40 tuổi đang đi làm cho doanh nghiệp - vào bệnh viện để khám chữa bệnh. Theo các bạn thì bà mẹ này cần được đưa đi chữa bệnh hay anh con trai kia?
Lại chết cười nữa là có tới 6 công an Hưng yên đang giờ làm việc đến cơ quan nơi anh con giai đang làm việc để yêu cầu Giám đốc doanh nghiệp cho gặp anh kia để hỏi về ...thủ tục tạm trú!
Sau đó công an đưa anh kia vào TT bảo trợ xã hội tại quê tôi là xã Viên an, Ứng Hoà, Hà nội.
Chuyện như là trên sao hoả vậy, sao ở ta việc công an quan tâm đến bệnh tình của công dân đến vậy, và ngay lập tức sau khi lúc 15 giờ công an Hưng yên đến gặp anh Hùng thì quận Thanh xuân có quyết định đưa anh Hùng - blogger, nhà báo tự do, một nhân viên của doanh nghiêp tại Hưng yên - vào trung tâm, giao cho ông Vượng, quê Phương tú, Ứng Hoà nhà mềnh làm giám đốc trung tâm này quản lý ...anh Hùng.
Hà hà, nghe có vẻ rối rắm nhưng lại rất lộ liễu. Công an vào doanh nghiệp đòi gặp anh Hùng/đưa đi đâu đó/đưa vào TT bảo trợ xh tận Ứng Hoà/có ngay quyết định của phòng lao động thương binh xh quận Thanh xuân/có đơn của bà mẹ tám chục tuổi (ký vào trưa hôm nay, sau khi anh Hùng được đưa vào TT hơn nửa ngày)/xe biển xanh của công an có mặt tại TT để "đề nghị" mẹ anh Hùng ký vào đơn được đưa con mình vào nhờ TT khám bệnh, chăm sóc/há há, đệch mịa cái vở kịch xứ mình nó dàn dựng sao thô thiển thế? vậy có ai tin nổi không thưa mấy bố luật sư, nhà báo, trí thức trí ngủ?
Thiên hạ đang rầm lên cho rằng phe cánh chơi nhau, phe này bắt tay Hùng vào trại gây ầm dư luận lên để bà con lao vào tìm hiểu tay Blogger kinh dị này là ai, tố cáo ai buôn hê rô in, giết người, gửi đơn 70 lần cho các cơ quan... gửi cả ông Dương Trung quốc nữa để gửi cho Quốc hội nhưng chưa nơi nào trả lời. Đây cũng có thể là kế "quăng lựu đạn" của phe này vào phe kia thật.
Phe nào đánh phe nào thì quan tâm làm đếch gì, từ xưa đến nay nó vẫn chém nhau giành quyền lực là chuyện rau dưa. Vấn đề ở đây là thằng nào đạo diễn dàn dựng vụ này quá ngu, thô thiển và lộ bài quá, sẽ lĩnh hậu quả vỡ đầu do dư luận cả Thế giới ném đá, ném hải sản vào mặt. Ngu lắm!
Các nhà báo và blogger không tin chuyện này thì mai cứ vào cổng trung tâm chỗ đê Viên An mà mai phục, sẽ thấy có nhiều anh em công an, an ninh ở đây chăm sóc "bệnh nhân" cầu thủ bóng đá, nhân viên doanh nghiệp này lắm, đi thì mang theo 3 G để chụp rồi up lên mạng cho bà con xem để tin nhé
Canh chừng từ ngoài đường cái



Copy từ: Bùi Hằng

Nhận định của Âu Châu về nhân quyền Việt Nam


Đăng bởi lúc
VRNs (26.01.2013) – Sài Gòn – Nhân chuyến viếng thăm Âu Châu của ông Nguyễn Phú Trọng, TBT đảng CSVN, nhân sự kiện blogger Lê Anh Hùng bị bắt cách bất hợp pháp đưa và trại tâm thần, và các phiên tòa xử 3 bloggers Sài Gòn, 2 nhạc sĩ, 14 TNCG vừa qua đã diễn ra cách bất công và oan sai, VRNs cho đăng lại Quyết nghị của Liên minh Âu Châu về nhân quyền cho Việt Nam đã được phổ biến từ năm 2009.
————

Quyết Nghị của Quốc Hội Âu Châu ngày 26 tháng 11 năm 2009 về tình hình ở Lào và Việt Nam


Quốc Hội châu Âu,
– Căn cứ vào Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 15 vào ngày 23 đến 25 Tháng 10 năm 2009,
– Căn cứ vào việc thành lập Ủy ban Nhân quyền của khối ASEAN vào ngày 23 Tháng 10 năm 2009,
– Căn cứ vào Báo cáo thường niên về Nhân quyền của khối EU năm 2008,
– Căn cứ vào các cuộc đàm phán đang diễn ra qui định hiệp định mới về đối tác và hợp tác giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam. Đồng thời căn cứ vào đối thoại về nhân quyền giữa khối EU và Việt Nam, cuộc đối thoại này diễn ra hai lần trong một năm giữa Liên minh châu Âu và Chính phủ Việt Nam,
– Căn cứ vào các quyết nghị trước đây về Lào, đặc biệt vào ngày 15 Tháng 11 năm 2001 về các vụ bắt giữ tuỳ tiện và tình hình chính trị tại Lào (1) và vào ngày 1 Tháng 12 năm 2005 về tình trạng nhân quyền tại Campuchia, Lào và Việt Nam (2)
-Căn cứ vào Hiệp định Hợp tác giữa Liên minh châu Âu và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày  01.12.1997 về việc “tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và tôn trọng nhân quyền trên căn bản Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền”
– Dựa trên Điều 122, đoạn 5 của Nội quy thủ tục (QH Âu Châu),
Việt Nam

A. Do Chính quyền Việt Nam đã từ chối nhiều khuyến nghị được nêu ra trong Cuộc Kiểm Tra Chu Kỳ (Universal Periodic Review) của Hội Đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc được diễn ra từ tháng năm đến tháng chín năm 2009, nhằm tô điểm tốt hơn hồ sơ nhân quyền của mình,
B. trong khi hàng trăm người ở Việt Nam đang bị giam giữ  do quan điểm tôn giáo hay chính trị của họ, bao gồm các Kitô hữu “Montagnards”, một linh mục Công giáo, truyền đạo và nhiều thành viên của cộng đồng tôn giáo Mennonite, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo,

C. Do hàng trăm nhà sư Phật giáo trẻ của tu viện Bát Nhã vào ngày 27 Tháng 9 năm 2009 bị tấn công và bị đánh đập đồng thời tu viện của họ bị phá hủy, thì chính quyền và công an làm ngơ trước yêu cầu nhờ giúp đỡ (che chở) của họ. Những nhà sư khác tìm được nơi trú thân trong chùa  Phước Huệ Temple đã chịu nhiều đàn áp về thể chất và sách nhiễu bởi công an và họ phải đương đầu với nguy cơ bị trục xuất của chính quyền vì lý do họ đã chiếm Tu viện Bát Nhã mà không được phép hoặc đăng ký trước.
D. Do nhiều người có quan niệm rằng, cuộc tấn công vào tu viện có liên quan đến mười điểm đề nghị cho một cuộc cải cách tôn giáo mà Thích Nhất Hạnh đã giao cho chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vào năm 2007,
E. Do tất cả các nhóm tôn giáo được giấy phép của chính phủ và phải chịu giám sát bởi uỷ ban quản lý do chính quyền bổ nhiệm. Những tổ chức tôn giáo muốn độc lập với chính quyền bị cấm (hành đạo) hoặc các thành viên của họ bị lùng bắt,
F. Do tất cả các chức sắc của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đều bị giam cầm, bắt đầu với Hoà Thượng Thích Quảng Độ  (81 tuổi), một nhà bất đồng chính kiến có tiếng đã từng bị cầm tù hơn 27 năm, hiện tại Ngài cư ngụ tại tu viện Thanh Minh tại TP HCM,
G. Do bà Trần Khải Thanh Thủy, một nhà văn Việt Nam và là một lãnh tụ của phong trào dân chủ tại Việt Nam, vừa bị bắt lại sau lần bị giam 9 tháng tù vào năm 2007. Mặc dù bà bị bệnh tiểu đường nặng, nhà chức trách Việt Nam từ chối cho bà đóng bảo chứng để tại ngoại hầu tra hoặc cho phép bà nhận thuốc trị bịnh,
H. Do nhiều tù nhân lương tâm, trong đó có LM Nguyễn Văn Lý, Lê Thị Công Nhân và Nguyễn Bình Thành, tất cả bị kết án về tội “tuyên truyền chống đối nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, đã bị từ chối hợp chăm sóc y tế trong nhà tù mặc dù tình trạng sức khoẻ của họ đòi hỏi phải điều trị tức thời trong bệnh viện,

I. Do không có sự tồn tại của các tổ chức nhân quyền độc lập, các Vị lãnh đạo các Tôn Giáo phải đảm nhận trách nhiệm bảo vệ nhân quyền và đấu tranh đòi hỏi nhiều khoan dung hơn và các nguyên tắc dân chủ,
J. Do sẽ đảm nhận chức chủ tịch của khối ASEAN trong năm 2010, Việt Nam nên làm gương  bằng cách cải thiện đường lối nhân quyền của mình; chính quyền có thể bắt đầu bằng cách trả tự do cho hàng trăm người ôn hòa phê bình chính quyền, các nhà hoạt động tôn giáo độc lập, blogger và các luật sư dân chủ, những người này bị giam giữ với tội danh tác hại đến nền an ninh quốc gia mà điều luật này vi phạm công ước quốc tế, bởi vì họ chỉ là những người phát biểu suy nghĩ khác biệt (với chính quyền) một cách ôn hòa,
Lào
từ K đến P
Việt Nam
1. Yêu cầu chính quyền chấm dứt mọi hình thức đàn áp chống lại những người thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tôn giáo và tự do lập hội phù hợp với tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế và Hiến pháp Việt Nam; kêu gọi Chính phủ Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế (mà họ đã cam kết), đòi hỏi sự công nhận tất cả các cộng đồng tôn giáo và tự do thực hành các tôn giáo và trả lại tất cả các tài sản bị tịch thu một cách tùy tiện bởi Nhà nước từ các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo Hội Công Giáo và các cộng đồng tôn giáo khác;
2. Lên án việc dùng bạo lực trục xuất hơn 150 nhà sư và ni cô từ tu viện của họ, theo thông tin cũng như trên thực tế, tình hình ngày càng căng thẳng sau những hành động chống lại các cộng đồng Phật giáo ôn hòa là vi phạm trắng trợn cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về tự do tôn giáo. Đặc biệt những người này đang cố gắng thực hiện các quyền của họ, mà Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và Chủ tịch tương lai của các nước ASEAN có nhiệm vụ phải tôn trọng (các quyền đó);
3.Yêu cầu Ủy ban và Hội đồng, trong khuôn khổ các cuộc đàm phán hiện hành về hiệp định mới về đối tác hợp tác với Việt Nam, bao gồm một điều khoản ràng buộc và rõ ràng về nhân quyền và dân chủ kèm theo một cơ chế cho phép thực hiện các quyền này hầu chấm dứt việc vi phạm có hệ thống các quyền con người và các quyền dân chủ (tại Việt Nam);
4.Yêu cầu chấm dứt mọi cuộc đàn áp và sách nhiễu và yêu cầu các tăng ni được phép hành đạo theo truyền thống của cộng đồng Phật giáo Thích Nhất Hạnh tại Bát Nhã cũng như các nơi khác;
5.Yêu cầu trả tự do vô điều kiện cho Hoà Thượng Thích Quảng Độ và cho tái thiết lập tình trạng pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và các chức sắc của Giáo Hội này;
6.Yêu cầu chính quyền cho thành lập một Ủy ban Nhân quyền Quốc gia độc lập. Ủy ban này có nhiệm vụ tiếp nhận và điều tra các cáo buộc về tra tấn và về lạm dụng quyền lực bởi cán bộ nhà nước trong đó bao gồm các thành viên công an và mật vụ. Đồng thời Ủy Ban này bắt đầu với thủ tục nhằm xóa bỏ hình phạt tử hình;
7.Yêu cầu chính phủ Việt Nam trong vai trò là một thành viên của Hội đồng Bảo an LHQ hãy gửi thư mời các báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc, đặc biệt liên quan đến quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tra tấn, luật sư nhân quyền, bạo lực đối với phụ nữ và hãy mời nhóm làm việc „tự tiện bắt tù“ (đến Việt Nam điều tra).
Lào
từ phần số 8 đến 13
Phần chung
14. Yêu cầu các chính quyền trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho tất cả các luật sư nhân quyền, tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm, bởi vì sự giam tù những người này là một hành vi vi phạm quyền con người; cũng yêu cầu các cơ quan chức năng bảo đảm an sinh của họ về thể chất cũng như về tâm lý trong mọi trường hợp và cung cấp cho họ khi cần thiết những chăm sóc y tế chuyên nghiệp độc lập;
15. Yêu cầu Hội đồng và Ủy ban thực hiện một đánh giá chi tiết về việc thực hiện các chính sách trong lĩnh vực dân chủ và quyền con người tiến hành tại Lào và Việt Nam kể từ khi ký kết Hiệp định Đối tác và Hợp tác đồng thời báo cáo lại cho Quốc hội;

16. Chủ Tịch Quốc Hội được ủy nhiệm chuyển đạt Nghị Quyết này đến Hội đồng, Ủy ban, các Chính phủ và Quốc hội của các nước thành viên, các Chính phủ và Quốc hội của Việt Nam và Lào, Ban Thư ký ASEAN, Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc và Tổng Thư ký Liên hiệp quốc.

(dịch từ: http://www.europarl.europa.eu/sides/getDoc.do?pubRef=-//EP//TEXT+TA+P7-TA-2009-0104+0+DOC+XML+V0//EN&language=EN)



(1)
OJ C 140 E, 13.6.2002, p. 577.
(2)
OJ C 285 E, 22.11.2006, p. 129.





European Parliament resolution of 26 November 2009 on the situation in Laos and Vietnam
The European Parliament ,
–   having regard to the 15th ASEAN Summit Meeting of 23 to 25 October 2009,
–   having regard to the inauguration of the ASEAN Intergovernmental Commission on Human Rights on 23 October 2009,
–   having regard to the EU Annual Report on Human Rights 2008,
–   having regard to the ongoing negotiations on the new Partnership and Cooperation Agreement between the EU and Vietnam and to the EU-Vietnam human rights dialogue held twice a year between the EU and the Government of Vietnam,
–   having regard to its previous resolutions on Laos, in particular those of 15 November 2001 on the arbitrary arrests and the political situation in Laos(1) and 1 December 2005 on the human rights situation in Cambodia, Laos and Vietnam(2) ,
–   having regard to the Cooperation Agreement between the EU and the Lao People’s Democratic Republic of 1 December 1997, based on “respect for democratic principles and fundamental human rights as set out in the Universal Declaration of Human Rights”,
–   having regard to Rule 122(5) of its Rules of Procedure,
Vietnam
A.   whereas the Vietnamese Government has refused to respond to many of the recommendations made during the UN Human Rights Council’s Universal Periodic Review, held from May to September 2009, with a view to improving its human rights record,
B.   whereas hundreds of people are currently imprisoned in Vietnam for their religious or political beliefs, including Montagnard Christians, a Catholic priest, Mennonite pastors, members of the Cao Dai faith and Hoa Hao Buddhists,
C.   whereas on 27 September 2009 hundreds of young Buddhist monks from Bat Nha Monastery were violently attacked and beaten and their monastery vandalised, while the State authorities and police ignored their plea for help; whereas other monks who found refuge in the Phuoc Hue Temple were subjected to physical violence and harassment by the police; whereas the monks are facing the risk of expulsion by the government on the grounds that they have been occupying Bat Nha Monastery without permission or prior registration,
D.   whereas the assault on the monastery is considered by many to be linked to the 10-point proposal for religious reform which Thich Nhat Hanh presented to Vietnam’s President Nguyen Minh Triet in 2007,
E.   whereas all religious groups must be authorised by the government and overseen by government-appointed management committees, and whereas many religious organisations face a ban and persecution of their members if they wish to remain independent of the government,
F.   whereas the dignitaries of the Unified Buddhist Church of Vietnam are virtually all imprisoned, starting with its Patriarch Thich Quang Do (aged 81), the most eminent of the Vietnamese dissidents, who has been detained for more than 27 years, currently in his monastery of Zen Thanh Minh in Ho Chi Minh City,
G.   whereas Ms Tran Khai Thanh Thuy, a Vietnamese writer and a leading figure in the movement for democracy in Vietnam, has been arrested again after serving a nine-month prison sentence in 2007; whereas she suffers from severe diabetes, in spite of which the Vietnamese authorities refuse to release her on bail or allow her to receive any medication,
H.   whereas several prisoners of conscience, including Nguyen Van Ly, Le Thi Cong Nhan, and Nguyen Binh Thanh, all sentenced for “propaganda against the government of the Socialist Republic of Vietnam”, have been denied proper medical care in prison although their medical condition requires their immediate hospitalisation,
I.   whereas in the absence of independent human rights organisations, Church leaders often take on the role of human rights defenders and fight for greater tolerance and more democratic principles,
J.   whereas Vietnam, which will assume the chair of ASEAN in 2010, should set an example by improving its human rights practices; whereas the government could start by releasing the hundreds of peaceful government critics, independent church activists, bloggers and democracy advocates imprisoned on groundless national security charges in violation of international law for expressing peaceful dissent,
Laos
K.   whereas on 25 September 2009 the Lao People’s Democratic Republic ratified the International Covenant on Civil and Political Rights, which guarantees in particular people’s right to freedom of faith, freedom of association, and freedom of speech and of the press, as well as the right to demonstrate and political rights,
L.   whereas almost one month after the 10th anniversary of the “Student Movement of 26 October 1999″ launched by students and teachers in Vientiane, the main leaders of the movement – Thongpaseuth Keuakoun, Seng-Aloun Phengphanh, Bouavanh Chanmanivong and Kèochay – are still being held in secret detention, while according to reports Khamphouvieng Sisa-At has died in prison in uncertain circumstances,
M.   whereas on 2 November 2009 more than 300 people who were preparing for a peaceful demonstration in Vientiane to demand respect for human rights and a multiparty system in memory of the 10th anniversary of the crackdown were apprehended by the secret police of the Lao People’s Democratic Republic, and whereas nine of them – Ms Kingkèo and Ms Somchit, Mr Soubinh, Mr Souane, Mr Sinpasong, Mr Khamsone, Mr Nou, Mr Somkhit and Mr Sourigna – are still being held in custody,
N.   whereas Laos continues to persecute Hmong communities because of a Hmong insurgency that dates back to the 1960s, subjecting Hmong living in areas of Laos suspected to be centres of insurgency to arrest, torture, sexual abuse and extrajudicial killing,
O.   whereas 5 000 Lao Hmong are currently being detained in the Huay Nam Khao camp in Thailand and are subject to deportation as a result of an agreement between the Governments of Thailand and Laos, and whereas another 158, including 85 children, have been detained in inhuman conditions for over three years in Nong Khai,
P.   whereas there is concern about the general political situation in Laos, which has been ruled by a single party since 1975 and whose population continues to be deprived of basic human rights,
Vietnam
1.  Urges the government to cease all forms of repression against those who exercise their rights to freedom of expression, freedom of belief and religion and freedom of assembly, in accordance with international human rights standards and the Vietnamese Constitution; calls on the Vietnamese Government to comply with its international obligations, which entails recognition of all religious communities and the free practice of religion and the restitution of assets arbitrarily seized by the State from the Unified Buddhist Church of Vietnam, the Catholic Church and any other religions communities;
2.  Condemns the reported violent expulsion of more than 150 monks and nuns from monasteries and the fact that the increasingly tense situation following these actions against the peaceful Buddhist community is in clear contradiction of commitments to comply with internationally accepted standards on freedom of religion, especially when it comes to people trying to exercise their rights, which the Government of the Socialist Republic of Vietnam has undertaken to observe as a member of the UN Security Council and future Chair of ASEAN;
3.  Asks the Commission and the Council, within the framework of the current negotiations on the new Partnership and Cooperation Agreement with Vietnam, to include a binding and unambiguous clause on human rights and democracy, together with a mechanism allowing for its implementation, in order to put an end to systematic violations of democracy and human rights;
4.  Calls for the cessation of all persecution and harassment, and for monks and nuns to be allowed to practice Buddhism according to the tradition of the Thich Nhat Hanh Buddhist bonze community in Bat Nha and elsewhere;
5.  Demands the unconditional release of Thich Quang Do and re-establishment of the legal status of the Unified Buddhist Church of Vietnam and of its dignitaries;
6.  Calls on the government to put in place an independent national human rights commission, to receive and investigate allegations of torture or other abuses of power by public officials, including members of the security services, and to initiate proceedings to abolish the death penalty;
7.  Calls on the Government of Vietnam, in view of Vietnam’s role as a member of the UN Security Council, to issue standing invitations to UN special rapporteurs, particularly those on freedom of expression, religious freedom, torture, human rights defenders and violence against women, and to the UN Working Group on Arbitrary Detention;
Laos
8.  Welcomes the ratification of the International Covenant on Civil and Political Rights by the Laotian Government; calls on the Laotian authorities to respect fully the terms of the Covenant, to harmonise Laotian law with its provisions without delay and to practise these provisions to internationally agreed standards, notably when it comes to freedom of speech, assembly and faith;
9.  Reiterates its demand for the immediate release of the leaders of the “Student Movement of 26 October 1999″, as well as of all the prisoners of conscience held in Laos, and entrusts the competent EU delegation in Vientiane with the responsibility for following up this matter;
10.  Calls on the Laotian authorities to release unconditionally all those people arrested during the attempted peaceful demonstration on 2 November 2009;
11.  Calls on the Thai authorities to put an immediate end to the detention of 158 Lao Hmong refugees and to allow them to resettle in Thailand or in the United States, Canada, the Netherlands or Australia, which have already agreed to take them in; calls likewise on the Thai Government to guarantee that all Lao Hmong in the Huay Nam Khao camp have access to screening and status determination procedures if they wish to make an asylum claim;
12.  Calls on the Commission to monitor closely the situation of the Lao Hmong community and the government’s programmes for ethnic minorities;
13.  Reiterates its demand to the Laotian authorities to devise and implement as soon as possible all the reforms needed to bring democracy to the country, to guarantee the right to peaceful expression of political opposition and to ensure that internationally monitored multi-party elections take place soon, with a view to national reconciliation;
General
14.  Urges the authorities to release immediately and unconditionally all human rights defenders, political prisoners and prisoners of conscience, as their detention is a violation of human rights; also requests the authorities to guarantee their physical and psychological wellbeing in all circumstances and to offer those who need it access to good independent professional medical care;
15.  Calls on the Council and the Commission to carry out a detailed assessment of the implementation policies in the field of democracy and human rights conducted in Laos and Vietnam since the signing of the Partnership and Cooperation Agreements and to report back to Parliament;
o
o   o
16.  Instructs its President to forward this resolution to the Council, the Commission, the governments and parliaments of the Member States, the governments and parliaments of Vietnam and Laos, the ASEAN Secretariat, the United Nations High Commissioner for Human Rights and the Secretary-General of the United Nations.

(1)
OJ C 140 E, 13.6.2002, p. 577.
(2)
OJ C 285 E, 22.11.2006, p. 129.




Copy từ: Truyền Thông Chúa Cứu Thế


Dự thảo hiến pháp: Thử thách sự sống còn của chế độ


Sau tuyên bố không có vùng cấm trong việc đóng góp sửa đổi Hiến pháp 1992 đã xuất hiện một bản dự thảo Hiến pháp gần như hoàn chỉnh của hơn 800 trí thức và được báo chí thế giới đánh giá như một cuộc cách mạng mềm trong chính trường Việt Nam.

AFP photo
TBT Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi về phía lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi khai mạc phiên họp hàng năm của Quốc hội hôm 22 tháng 10 năm 2012.

Đề nghị bỏ lời nói đầu của hiến pháp 1992

Có thể nói sự chờ đợi sửa đổi bản hiến pháp năm 1992 lần này khác hẳn như sự thay đổi Hiến pháp năm 1946 vào năm 1992. Nhà nước chứng tỏ đã chuẩn bị dư luận rất kỹ trong việc kêu gọi người dân tham gia vào tiến trình đóng góp ý kiến của mình vào bản hiến pháp này. Tuyên bố mạnh mẽ của ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã tăng thêm sự mạnh dạn của quần chúng khi biết rằng không có vùng cấm nào trong các ý kiến tham gia.
Trong khi báo chí quốc doanh loan tải một vài bài viết lác đác trên hệ thống thông tin nhà nuớc không được ai chú ý thì tại nhiều trang blog như trang Bauxitvn, Basàm lại nóng lên với bản dự thảo hiến pháp được ký tên bởi hơn 700 chữ ký của các nhân vật trí thức. Bản dự thảo này ngay lập tức lan truyền rộng rãi trên mạng và các cơ quan thông tấn của Đức, Pháp, Hoa kỳ loan tin lại với những nhận xét khá tích cực về một cuộc đổi thay lớn trong mặt bằng chính trị tại Việt Nam.
Điều khiến dư luận chú ý trước tiên của bản dự thảo là đề nghị bỏ lời nói đầu của bản hiến pháp năm 1992. Đề nghị này hợp lý và hấp dẫn người theo dõi bởi tính chất bản hiến pháp của một nước không thề viện dẫn tính cao cả của bạn bè quốc tế hay sự những chiến thắng có tính giai đoạn lịch sử không thể kéo dài để biện minh cho lý lẽ cai trị của chế độ. Lời nói đầu bản hiến pháp năm 92 đã viết:
"Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc."
Vì trước mắt chưa có Chủ nghĩa xã hội cho nên trở lại với cái tên của nó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chứ không có gì mới, chỉ là tên cũ đặt lại cho chuẩn thôi.
Ông Nguyễn Đình Lộc
Tính chất vi hiến lộ ra rất rõ khi Mác-Lê Nin và Hồ Chí Minh chỉ đạo toàn bộ hiến pháp của nước Cộng hòa Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam. Lời nói đầu này đã khiến Hiến pháp không còn do nhân dân Việt Nam quyết định mà rõ ràng do một chủ thuyết đã tỏ ra lạc hậu, một nhân vật không còn tinh khôi như thời cầm quyền đã ngang nhiên chiếm lĩnh đời sống chính trị cũng như toàn bộ nền tảng của một bản hiến pháp của đất nước.
Phủ nhận lời nói đầu này là phủ nhận toàn bộ tính chất áp đặt của Đảng cầm quyền hiện nay lên hiến pháp để từ đó gợi ý một nội dung khác, một tính chất khác, một hiến định khác nhằm giải tỏa những áp đặt đè nặng lên dân tộc trong nhiều chục năm qua.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học một trong những người vận động chữ ký cũng như soạn thảo bản hiến pháp cho biết:
Trong số những người có ý tưởng đề xuất bản kiến nghị này tất nhiên có những người hiểu biết luật pháp, có luật sư nên bản kiến nghị đưa ra chặt chẽ. Chúng tôi không ở trong một tổ chức nào hết mà chỉ là những con người, cá nhân, những công dân quan tâm đến vận mệnh đất nước và nhân việc nhà nước tuyên bố cần sự góp ý cho hiến pháp và không có giới hạn ngăn cấm nên chúng tôi thấy cần phải đề xuất cho đến cùng. Đến cái chỗ mà dân tộc Việt Nam hiện nay đang mong muốn, quan tâm nhất. Bản kiến nghị này hình thành là như vậy.
GS-TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cũng là người ký tên trong bản kiến nghị cho biết lý do khiến bản dự thảo hiến pháp này ra đời. Với ông không gì khác hơn là tạo cơ hội để chính quyền có tính chính danh trong khi vận hành đất nước, đặc biệt là những người Đảng viên Đảng Cộng sản có cơ hội nhìn lại mình và Đảng của mình:
Theo như ông chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý đã nói thì khi góp ý xây dựng hiến pháp sẽ không có vùng cấm nào cả. Bản thân tôi là một Đảng viên Đảng Cộng sản tôi cũng không muốn Đảng mình đóng vai trò lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội do áp đặt. Mà chúng tôi muốn lãnh đạo xã hội, lãnh đạo chính quyền một cách danh chính ngôn thuận, dựa trên uy tín, phẩm chất, năng lực thật sự của mình. Thứ hai nữa nếu bây giờ mà đặt ra trong hiến pháp điều cố định là tổ chức nào đó như Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ vĩnh viễn lãnh đạo xã hội thì đó là cách làm hư Đảng. Nó sẽ làm cho Đảng viên không còn phấn đấu, không còn phải rèn luyện, chinh phục cái tâm của người dân nữa mà dần dần sẽ hư hỏng đi, mà như thế thì làm Đảng yếu đi.

Đề nghị đổi tên nước

000_Hkg7748046-250.jpg
Công nhân kết hoa cho lá cờ Đảng và lá cờ nước chuẩn bị cho lễ Quốc Khánh 02/9/2012 tại Hà Nội. AFP photo
Bản dự thảo thay đổi Hiến pháp bác bỏ tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với nguyên nhân chính là thời kỳ xã hội chủ nghĩa vẫn chưa xuất hiện tại Việt Nam thì việc lấy cái đuôi này áp vào tên nước cho thấy tính mơ hồ của một bản Hiến pháp có giá trị của một quốc gia. Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh cho biết:
Trong cuộc họp của “Hội đồng dân chủ pháp luật” do Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Hà Nội vừa rồi mà tôi có tham dự thì một số ý của vài vị đưa ra là chúng ta phải xác định thời kỳ này có phải là thời kỳ xã hội chủ nghĩa hay chưa? Hay là đang trong quá trình xây dựng một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa? Bởi vì thật ra khi có hiến pháp năm 1946 thì sau đó là chiến tranh rồi chia hai đất nước, thành ra thể chế cộng hòa đó nó chưa thể hiện một cách rõ ràng trong thực tế bằng một tổ chức nhà nước của chúng ta. Do đó tính chất vẫn là thời kỳ nối tiếp của năm 1946 chứ chưa phải là chủ nghĩa xã hội hay quá độ. Vả lại sau tất cả các bản hiến pháp từ năm 1946 là một hiến pháp rất tiến bộ có tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Độc lập, Tự do, Hạnh phúc - Ba chữ Độc lập Tự do Hạnh phúc nó rất bao quát. Một đất nước độc lập rồi phải dân chủ tự do và đem lại hạnh phúc cho người dân.
Nguyên Bộ trưởng Bộ tư Pháp Nguyễn Đình Lộc cũng nhận xét việc đổi tên nước là cần thiết nhưng không có gì mới so với bản hiến pháp năm 1946 khi Đảng Cộng sản chưa nhúng tay vào thực hiện việc thay đổi hiến pháp mà nhiều người vẫn cho là dân chủ nhiều lần hơn bản năm 1992.
Thật ra bây giờ gọi là nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhưng xã hội chủ nghĩa chỉ là một định hướng lâu dài mà thôi vì trước mắt chưa có Chủ nghĩa xã hội cho nên trở lại với cái tên của nó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chứ không có gì mới, chỉ là tên cũ đặt lại cho chuẩn thôi.
Một nét mới của bản dự thảo hiến pháp này là mạnh dạn thay đổi hệ thống chính quyền từ Chủ tịch nước theo hệ thống cộng sản sang Tổng thống chế như của nhiều nước tư bản Tây phương. Nói về thay đổi này luật gia Lê Hiếu Đằng cho biết:
Dự thảo này cũng chỉ là gợi ý thôi chứ không có tính chính thức. Nó theo tổng thống chế, mô hình của các nước có chế độ lưỡng viện tức là Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Nó làm cho chức năng của từng viện rõ ràng và bao quát hơn, có tính chất đại diện rộng rãi hơn.
Hai viện này đại diện cho cả nước và đồng thời đại diện cho địa phương nên có tính chất tiêu biểu. Thượng viện chẳng hạn, rất quan trọng. Thật ra mô hình này đã có một số nước người ta áp dụng và có hiệu quả vì vậy mình nên theo. Điều gì mà con người tiến bộ đã áp dụng thì mình theo chứ không nên sáng tạo một con đường nào khác, rất mù mờ không có hiệu quả, vì nó không đặt lợi ích đất nước, dân tộc lên trên.
Những thay đổi cốt lõi của bản dự thảo hiến pháp còn nằm ở chỗ giải phóng quyền tham gia chính trị một cách thật sự của các Đảng phái đối lập, điều mà cả hai bản hiến pháp năm 1946 và 1992 hoàn toàn không nêu ra.
Câu nói nổi tiếng của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết mà nhiều người vẫn nhớ đó là: “bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát”.
Nội hàm quan trọng của điều 4 hiến pháp là gì khiến chủ tịch một nước phải xác định với ngôn ngữ không cần bóng gió như vậy? Câu trả lời nhanh nhất: Điều 4 hiến pháp cho phép quyền lực Đảng Cộng sản Việt Nam bao trùm lên cả ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp theo hiến pháp quy định.
Những quyền lực tuyệt đối của điều 4 vô hiệu hóa mọi quy định mà hiến pháp đưa ra. Từ quyền tối thiểu của người dân như sự đi lại cho đến cao hơn là quyền phát biểu chính kiến. Riêng trong lĩnh vực tòa án sự tha hóa và bất công lộ ra rõ hơn khi Đảng toàn quyền đưa ra những bản án bỏ túi cho từng phạm nhân, những ai phạm tới quyền lực của Đảng cầm quyền.
Điều 4 hiến pháp cho phép Đảng làm bất cứ thứ gì có lợi cho Đảng và hệ thống, trong đó có toàn quyền quyết định về chủ quyền đất nước thông qua các cuộc đàm phán không công khai. Đảng cũng đuợc quyền chấp thuận trong bóng tối ai là người được phép khai thác tài nguyên quốc gia và cứ mỗi lần đại hội Đảng là việc sắp xếp nhân sự lại diễn ra, người dân không một chút quyền hạn gì trong việc bỏ phiếu cho ai là người lãnh đạo đất nước.

Đề nghị bỏ điều 4 hiến pháp

000_Hkg4913882-200.jpg
Pano tuyên truyền cho kỳ bầu cử quốc hội lần thứ 13 năm 2011. AFP photo
Điều 4 hiến pháp năm 1992 xuất hiện khi hiến pháp 1946 thay đổi. Trong bối cảnh Liên xô lúc ấy, điều 4 hiến pháp của Việt Nam rập khuôn điều 6 hiến pháp của Liên xô. Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM cho biết tại sao có điều 4 hiến pháp của Việt Nam:
Trước đây ở hiến pháp năm 46 thực chất lúc bấy giờ Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng lãnh đạo và đương nhiên việc đó cũng thể hiện vào trong việc soạn thảo hiến pháp 1946 nhưng lúc bấy giờ có đưa vào đâu? Vả lại muốn đưa cũng không đưa được.
Nhưng rồi sau đó vận dụng vào điều 6 của hiến pháp Xô viết để đưa điều 6 của Xô viết vào vì nghĩ rằng sẽ tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng nhưng trên thực tế thì ngược lại. Thứ nhất, với đìêu 6 đó thì Đảng Cộng sản Liên xô vẫn không tránh khỏi sự sụp đổ. Với điều 4 trong hiến pháp của năm 92 mà bây giờ đang đưa ra lấy ý kiến thì không tránh đuợc sự thoái hóa biến chất của một bộ phận rất lớn và nó càng ngày càng làm cho uy tín của Đảng suy sút nghiêm trọng trong dân. Điều này thì chính Đảng nói chứ không phải ai nói cả.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, nguyên cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc cho rằng không thể áp đặt lên nhân dân những gì mà Đảng muốn, ông nói:
Bởi vì Đảng lãnh đạo thì Đảng sinh ra vì dân vì nước chứ không phải sinh ra vì quyền lợi của Đảng cho nên không cần ghi là Đảng lãnh đạo bởi vì quyền lãnh đạo do dân tín nhiệm trao cho chứ không thể áp đặt được.
Chính điều 4 hiến pháp giao cho Đảng mọi chiếc chìa khóa quan trọng trong việc điều hành đất nước nên Đảng đã dùng nó để khóa trái những cánh cửa tự do mà người dân được quyền hưởng vì muốn bảo vệ sự độc đảng của mình. Chiếc chìa khóa mở cánh cửa dùng quyền biểu tình mà hiến pháp quy định để chống lại xâm lược cũng bị Đảng khống chế do đó Đảng quyết định luôn vận mệnh đất nước trong các cuộc đi đêm nếu có lợi cho Đảng.
Ông Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM người ký tên vào bản kiến nghị dự thảo hiến pháp nghi ngờ sự mong manh của bản hiến pháp lần này:
Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu nhưng nếu điều 4 còn thì nó sẽ phủ định hết tất cả. Vì họ độc quyền lãnh đạo mà nếu họ ghi những điều đó đồng thời với điều 4 thì điều 4 nó sẽ phủ định hết tất cả những cái cải lương, thay đổi đó.
Cũng từ điều 4 hiến pháp này Đảng đã tận dụng nó như một quyền năng tuyệt đối để quay lại ra lệnh cho chính hiến pháp quy định lực lượng vũ trang phải hết lòng bảo vệ cho Đảng. Đìêu này làm cho nhân sĩ trí thức nổi giận, trong đó có thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, ông nói:
Tôi đứng trên quan điểm chung của mọi nước và như tôi đã phân tích quân đội phải bảo vệ tổ quốc chứ không phải bảo vệ một tổ chức, cá nhân nào. Bởi vì nếu bảo vệ tổ quốc thì trong đó có cả Đảng Cộng sản rồi, cũng trong tổ quốc Việt Nam thôi thì có gì mà họ phải phản ứng mà phản ứng là vô lý cho nên tôi tôi cứ nói theo ý của tôi và tôi không sợ gì sự phản ứng cả.
Tôi thấy rằng họ có thể ghi những điều mà dự thảo yêu cầu nhưng nếu điều 4 còn thì nó sẽ phủ định hết tất cả.
Ông Huỳnh Kim Báu
Ông Huỳnh Kim Báu chia sẻ những ý kiến của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và nhìn lại những nỗ lực mà trí thức đang vận động trong dự thảo thay đổi hiến pháp này, ông nói:
Thực tế ra nói là vì tương lai của đất nước, lo cho dân thôi chứ còn chúng tôi không tin dù một chút. Thường thường tất cả đều đã được chuẩn bị hết chẳng qua nếu mà hỏi ý kiến dân thì người ta chỉ chọn những gì phù hợp với người ta mà thôi chứ còn dứt khoát như điều 4 họ không giải quyết đâu, hay là luật đất đai điều 86 sẽ không giải quyết được đâu nhưng mà nói thì vẫn phải nói. Tôi không tin nhưng về lương tâm phải nói để bảo vệ đất nước.
Quân đội là của nhân dân. Quân đội được nuôi bởi tiền thuế của nhân dân thì phải phục vụ nhân dân, làm sao chỉ một nhóm người? Đây là quyền lợi cả một dân tộc mà lại vĩnh viễn luôn thì không bao giờ có chuyện đó.
Giáo sư Hoàng Xuân Phú, tác giả của các bài viết nảy lửa về Hiến pháp trong những lúc gần đây cho rằng “Quy định trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội tưởng để Đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi lòng Dân và khai tử khỏi cuộc sống chính trị.”

Số phận ĐCS sẽ ra sao?

000_Hkg6879719-200.jpg
Một cửa hàng bán các sản phẩm tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác - Lê tại Hà Nội. Ảnh chụp 01/2/2012. AFP photo
Câu  hỏi mà nhiều đảng viên có lòng với vận mệnh đất nước hiện nay quan tâm là nếu bỏ điều 4 hiến pháp thì số phận của Đảng Cộng Sản Việt Nam ra sao? Những đảng viên thuộc nhiều thế hệ sẽ như thế nào và liệu họ có thoát khỏi dòng chảy đào thải của cuộc thay đổi này hay không?
Sự sụp đổ chế độ Cộng sản tại Liên xô và Đông âu cho thấy không có bất cứ cuộc tắm máu nào hay sự rối loạn xã hội bởi thay đổi thể chế cầm quyền. Lý do mà nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đưa ra là các cuộc cách mạng ấy diễn tiến trong nội bộ của Đảng Cộng sản Liên xô và tác động lên các nước còn lại. Nguồn gốc của những cuộc cách mạng này nằm trong tính tất yếu của các cuộc vận động lịch sử, khi sự tha hóa, độc tài đã đến lúc chín rã thì phải bị đào thải bởi các dòng chảy cách mạng của nhân dân. Chân lý này đã xảy ra trong quá khứ và không nghi ngờ gì nó sẽ lập lại khi điều kiện đã chín muồi và không ai, thế lực nào có khả năng năng ngăn lại sự chín muồi đó.
Bản dự thảo hiến pháp rõ ràng là một sự chín muồi có điều kiện. Những nhận thức từ căn bản của một hiến pháp không phù hợp với tiêu chí của các nước văn minh đã và đang trì kéo sức bật của cả dân tộc, vì vậy nếu thay đổi đúng với tinh thần một bản hiến pháp cần có thì đảng cầm quyền hiện tại phải chấp nhận trò chơi công bằng của các đảng phái chính trị ngang hàng nhau trong mọi điều kiện để cạnh tranh một cách công bằng hầu cải thiện đời sống dân chủ của người dân.
Điều kiện cần có ấy sẽ gây ra tổn thất cho nhiều bên, trong đó không thể không nhắc tới Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mất mát tất cả quyền lực hiện nằm trong tay và viễn ảnh về hưu cay đắng không dễ gì thuyết phục người ta chấp nhận như Miến Điện đang thay đổi, mặc dù trước đây ít lâu chính quyền Miến được xem độc tài và bạo chúa gấp nhiều lần Việt Nam. Câu hỏi về niềm tin sẽ thay đổi tư duy của đảng cầm quyền có làm cho những vị vận động bản dự thảo hiến pháp nghĩ đến hay không được Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trả lời:
Chúng tôi từ lâu đã suy nghĩ về những điều ấy nhưng vận động của lịch sử là một cái gì không thể cưỡng được cho nên tôi nghĩ là Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước những thách thức về dân chủ và về quyền con người, quyền công dân. Nếu như mình tranh thủ được sự đồng tình của toàn dân thì Đảng Cộng sản sẽ giữ được vai trò lãnh đạo như trước. Cho nên không có sự gì gọi là xáo trộn, làm cho những người cộng sản tự biến mất vị trí, hoàn toàn không.
Chúng ta chỉ thực hiện quyền bình đẳng dân chủ trước pháp luật của toàn dân và người Cộng sản muốn đóng được vai trò trách nhiệm trước lịch sử thì họ phải làm thế nào cho xứng đáng với tư cách người lãnh đạo của một đất nước có công bằng, dân chủ, văn minh không thoái hóa về nhiều phương diện thì đương nhiên người cộng sản sẽ vẫn được tín nhiệm như thường. Vì thế tôi không nghĩ có một sự xáo trộn gì lớn trong việc này và Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn phải phấn đấu nhiều hơn, đưa hết sức lực ra thì tự nhiên họ sẽ giữ đựơc vị trí của mình thôi.
Giả thuyết về sự mất trắng quyền bính của Đảng Cộng sản cũng như ba triệu đảng viên của nó là lực cản lớn nhất cho dự thảo thay đổi hiến pháp lần này được Giáo sư Tương Lai giải thích:
Không nên khẳng định nếu bản hiến pháp này thông qua thì quyền bính của họ mất trắng vì nói như vậy cũng không sát với kiến nghị của chúng tôi. Kiến nghị của chúng tôi trong đó có những người là Đảng viên như bản thân tôi. Tôi không kiến nghị về việc bác bỏ sự lãnh đạo của một Đảng nếu Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn được nhân dân tin phục thông qua trưng cầu dân ý và bỏ phiếu tín nhiệm. Việc Đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử. Là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân kể cả các Đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Khi được hỏi ảnh hưởng tích cực sau khi bản dự thảo hiến pháp thành hình là gì Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết người ký tên vào bản dự thảo cho biết:
Tôi nghĩ ảnh hưởng thì chắc chắn là có lợi cho sự phát triển của đất nước, có lợi đối với toàn dân thì rất rõ ràng. Khi chúng ta xây dựng được một bản hiến pháp dân chủ, có một hệ thống pháp luật dân chủ, một xã hội dân chủ thật sự thì không có quyền lợi chính đáng nào của người dân sẽ bị coi nhẹ, tước bỏ.
Tôi lấy ví dụ, hiện nay cũng có những người cứ lo lắng mơ hồ là nếu có sự thay đổi thì mình không đảm bảo được lương hưu chẳng hạn. Sự lo lắng ấy là không có cơ sở trong xã hội dân chủ bởi vì lương hưu nó thuộc hệ thống bảo hiềm xã hội. Có đóng tiền bảo hiểm xã hội thì mình có lương hưu, chuyện ấy không cần bàn cãi.
Việc Đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử. Là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Giáo sư Tương Lai
Hai nữa tôi cũng xin nói lại, kiến nghị này của anh em trí thức là một kiến nghị xây dựng hiến pháp dân chủ chứ đây không phải là mình làm cuộc lật đổ hay “Cách mạng nhung”, “Cách mạng hoa” gì cả. Vấn đề là toàn dân thống nhất xây dựng nguyên tắc dân chủ đưa vào hiến pháp thì chắc chắn dân chủ sẽ tốt hơn.
Giáo sư Tương Lai tin tưởng vào sự hiểu biết của đảng cầm quyền. Trong tình hình khá chín muồi hiện nay sẽ thúc đẩy họ có cái nhìn tỉnh táo hơn về thực trạng mà họ phải đối phó để đi đến quyết định có lợi cho quốc gia dân tộc:
Đành rằng không thể nào những người đang làm công tác soạn thảo sẽ theo tinh thần mà người dân muốn để người ta dễ dàng chấp nhận điều này. Không có đâu. Nói như vậy là hết sức ảo tưởng. Nhưng chân lý chỉ có một, chính nghĩa chỉ có một, công lý chỉ có một, tùy theo điều kiện lịch sử mà nó thể hiện ra. Nếu những người cầm quyền, những người đang soạn thảo dự thảo hiến pháp này họ hiểu ra được việc thì họ phải có những hành động cần thiết.
Đương nhiên giữa hiểu biết, nhận thức và lợi ích thực tế, lợi ích phe nhóm, lợi ích của nhóm cầm quyền nó có một cuộc đấu tranh gay gắt. Nhưng tôi tin rằng trong lương tâm mỗi một người đều có một đốm sáng, và chính cái đốm sáng ấy là cái mà chúng tôi thức tỉnh để nó bùng lên, để họ cùng với nhân dân thực hiện sứ mệnh lịch sử của họ.
GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng cái lợi lớn nhất cho người dân là họ sẽ thực sự làm chủ vận mệnh của mình nếu hiến phảp thay đổi theo bản dự thảo này:
Hiến pháp là một khế ước xã hội, trong đó người dân giao ước với nhau về thể chế mà mình muốn thành lập để giới hạn quyền lực của bộ máy chính quyền ấy. Và cao hơn hết là về quyền con người trong xã hội được hưởng những quyền gì. Cái gì ảnh hưởng tới người khác tới cộng đồng thì không được làm, cụ thể nó như thế nào.
Theo tôi nếu chúng ta sửa hiến pháp như thế và có bản thảo hiến pháp kèm theo để cho người dân tham khảo thì tôi chắc chắn là người dân sẽ có quyền tự do dân chủ rộng rãi và xứng đáng là người chủ của xã hội, của đất nước chứ không phải chỉ là người chủ trên danh nghĩa.
Một cán bộ cao cấp ký tên trong bản kiến nghị dự thảo cho chúng tôi biết góc nhìn của ông:
Kết quả về kiến nghị thì hiện nay chưa thấy gì cả nhưng tôi hy vọng trong thời đại hiện nay thì phải tìm ra cái lợi ích hài hòa giữa lực lượng và lợi ích của toàn dân không thể tôn trọng lợi ích của một bên nào cả. Hiện nay cái không khí dân chủ nó đang mở rộng, việc đòi hỏi dân chủ của người dân nó đang lên cao thì tôi hy vọng Đảng sẽ chấp nhận ở mức độ nào đó, từng bước dần dần hai bên sẽ gặp nhau.
Gác lại những hy vọng nếu những kịch bản từng xảy ra trong nhiều năm nay được lập lại, đó là sự im lặng đối với những gì mà trí thức lên tiếng. Khả năng các cuộc truy lùng trong bóng tối cũng không phải là hiếm hoi khi đảng cầm quyền cho rằng bản dự thảo này là một thách thức có thể bùng lên thành dòng chảy cách mạng như từng xảy ra trên nhiều nước. Ông Huỳnh Kim Báu khẳng định sự quyết tâm của mình:
Tất nhiên họ còn như vậy thì vẫn còn tranh đấu tới hơi thở cuối cùng chứ không nhân nhượng chuyện đó. Hai nữa thì hy vọng trong những người lãnh đạo cộng sản cũng có thể có những người họ thức tỉnh, thì cũng chỉ hy vọng vậy thôi. Tôi nghĩ đây là chuyện lâu dài chứ không phải một ngày nhưng mà làm cái gì cũng phải lâu dài chuẩn bị cho việc trả giá cũng như tình hình trước đây ở Đông âu vậy cho nên chúng tôi sẳn sàng trả giá.
Báo chí quốc tế có cái nhìn tích cực đối với cuộc vận động này không phải là không có nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân ấy là nền chính trị độc đảng của Việt Nam đã chạm đáy, nó cần nổi lên để thở, và nhất là để tránh một cuộc thay đổi dưới hình thức bạo động qua gợi mở một cuộc rút lui trong danh dự từ bản dự thảo hiến pháp này.

Theo dòng thời sự:



Copy từ: RFA

 

“Quà” cho nữ Bộ trưởng


benhvienBảo tàng siêu khủng sẽ là nơi triển lãm những bức ảnh cơ cực với chủ đề “Chợ cóc bệnh viện”. Nhà hát hoành tráng sẽ là nơi những diễn viên mặc pijama hát lên khúc “bệnh viện bi ca”?

Hôm qua, ở Thủ đô, một triển lãm “bá đạo” được tổ chức dưới cái tên “Chợ sức khỏe”. Ôi giời, tràn lan là ảnh ngủ gậm giường hoặc màn trời chiếu đất bên hành lang, vỉa hè bệnh viện. Những cảnh cá hộp “xưa như trái đất, thật như hiện tại, đúng như tương lai”. Muốn có sức khỏe phải ra chợ. Đã ra chợ, phải mất tiền mua. Và đã mua bán, thế nào cũng gặp phường gian dối. Gặp thực phẩm ôi thiu. Cái chữ “Chợ” càng nghĩ càng thấy “bá đạo”. Nhưng triển lãm này cũng sai đúng ở chữ “chợ”. Bởi chưng “luật chợ” là người ta có quyền mặc cả. Có quyền chê đắt. Có quyền làm thượng đế. Và có quyền lắc đầu. Trong khi đến “chợ” mua sức khỏe thì kể cả có tiền, xin mời xếp hàng, cứ hẵng “nu pa ga zi” đã.
Hôm qua cũng là ngày nữ Bộ trưởng xinh như búp bê, chắc là cay đắng thừa nhận “tình trạng cá hộp”, ngôn ngữ ngành y là “quá tải” ở hầu hết những cái “chợ lớn”. Chắc bà cũng chẳng vui vẻ gì với thường niên hình ảnh “Bệnh nhân bò từ gậm giường ra chào Bộ trưởng”. Đây là câu chuyện cần sự cảm thông của bà con, bởi giảm hay không giảm phụ thuộc vào vấn đề đầu tiên. Chuyện những “cái chợ” không đơn giản là việc vẽ trên giấy là được. Huống chi, ngân sách đang hụt thu. Huống chi, tiền còn phải để xây dựng bảo tàng 11 ngàn tỷ, để lập kế hoạch nhà hát nửa triệu đô, để xây “sân vận động massage”.
Hôm qua, trên VietNamNet, người phát ngôn của Bộ VH-TT-DL một mặt thừa nhận tình trạng “vừa thừa – vừa thiếu” đang xảy ra đối với nhiều công trình văn hóa, mặt khác lại chê “Nửa tỉ đô chưa chắc đã đủ” để xây một nhà hát lớn và “nổi tiếng trên thế giới”.
Giời ạ. Cơ bản là nhà hát đó trình diễn cái gì. Cơ bản ai sẽ đến nhà hát đó chứ không phải cứ cầu chữ to là được.
Chuyện nhà hát và những cái bệnh viện giờ giống y sì như chuyện “no con mắt và đói cái bụng” khi huyện nghèo miền núi Krông Nô vốn “chỉ có” 34,16% hộ nghèo, học đòi định tổ chức bắn pháo hoa.
Ừ thì “Không có một đất nước nào lại dừng lại và không hoạt động gì trong lúc khó khăn cả”. Cũng đúng khi “Bên cạnh đời sống vật chất thì còn nhu cầu đến hưởng thụ đời sống tinh thần”. Nhưng những người bụng sôi ùng ục, đang phải nằm chen như cá hộp trong gầm giường những cái “chợ bệnh viện” xin đặt một câu hỏi nhỏ: Những cái nhà hát hoành tráng, những Viện bảo tàng siêu khủng sẽ trình diễn những gì về cuộc sống đương đại? Bảo tàng lịch sử sẽ là nơi triển lãm những bức ảnh cơ cực với chủ đề “Chợ cóc bệnh viện”. Nhà hát sẽ là nơi những diễn viên mặc áo pijama hát lên khúc “bệnh viện bi ca”?
Hẳn nhiên việc no cái bụng chính đáng hơn sướng con mắt. Hẳn nhiên nỗi cơ cực ngoài da nhiêu khê, khốn khổ hơn nhiều so với thú vui tao nhã là “quần là áo lượt tai không trâu” đến nhà hát nghe nhạc giao hưởng.
Tin mừng là Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án giảm quá tải bệnh viện. Theo đó, đến 2020, mỗi bác sĩ chỉ còn phải khám 35 bệnh nhân/ngày và tại các bệnh viện sẽ không còn tình trạng quá tải. Cụ thể hơn, đến 2015 phải “cơ bản khắc phục tình trạng nằm ghép”.
Tin không mừng là một quan chức ngành thể thao khẳng định kinh phí tổ chức Asiad 2019 “chỉ 150 triệu USD” là “vừa sức”.
Nếu được một điều ước, giản dị thì đó là 34,16% hộ nghèo Krông Nô bỗng nhiên thoát nghèo để được hưởng một đêm pháo hoa thỏa thích. Hay thực tiễn hơn, Sân vận động Mỹ Đình trị giá 53 triệu USD sẽ trở thành Viện Châm cứu, thay vì massage đá nóng.
Nhưng ước mơ lãng mạn nhất của dân chúng thì dứt khoát phải là việc Bộ trưởng Hoàng Anh Tuấn sang tận Giảng Võ “ngỏ lời” với nữ Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến với món tặng phẩm là 10.800 tỷ giải cứu cho những con cá hộp đang rúc gậm giường trong những cái chợ vẫn được gọi là bệnh viện!



Copy từ: Đào Tuấn

 

Từ chiếc máy bán BCS tự động ở WC quán bia

BCStiền xu, trong một chiến dịch lãng phí lịch sử được đưa vào lưu thông. Nói lãng phí là bởi những đồng xu, với chi phí không ít hơn mấy so với mệnh giá, giờ đã tiệt chủng.

Năm 2002, Thống đốc đương nhiệm Lê Đức Thúy trong một bài trả lời phỏng báo chí đã thừa nhận ông “không có tài khoản”, “không dùng thẻ tín dụng”. Với lương “chỉ đủ đưa vợ đi chợ và giữ lại một ít trong túi để tiêu vặt”. “Tôi hoàn toàn không có nhu cầu, nếu bắt tôi làm động tác đến ngân hàng để gửi và rút tiền thì thật là hình thức”- Thống đốc nói.
Chỉ ngay sau đó, tiền xu và những chiếc máy bán hàng, trong một chiến dịch lãng phí lịch sử được đưa vào lưu thông. Nói lãng phí là bởi những đồng xu, với chi phí không ít hơn mấy so với mệnh giá, giờ đã tiệt chủng. Còn máy bán hàng (nhận xu), nó còn sót lại duy nhất một chiếc: Máy bán bao cao su, trong toa lét của một quán bia, để thi thoảng, hứng những trận “mưa rào” của một vị khách chót say nào đó.
Chẳng chút mỉa mai. Nói thế là để thấy ý nghĩa của hành động dù tốt đẹp đến mấy cũng không thể không tính đến tập quán, dù nông nghiệp, đến thói quen, dù tiểu nông, và đến tình trạng thanh toán, vốn vô cùng lẹt đẹt về hạ tầng. Không vô cớ mà những người được trả lương vào tài khoản phải thật nhanh chóng ra ngay ATM rút tiền nếu muốn… đi chợ.
Hôm qua, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, tạm tính là với một mục tiêu tốt đẹp, đã công bố dự thảo một nghị định, dư luận gọi là “nghị định cấm tiệt”. Cấm tiệt giao dịch tiền mặt khi mua nhà, mua xe hơi, khi mua chứng khoán, thậm chí cả xe máy, xe đạp điện trong trường hợp vượt hạn mức.
Kèm theo đó là đề xuất: Có chứng từ ngân hàng mới có thể coi là “chi phí hợp lệ”. Phải thanh toán qua ngân hàng mới có thể đăng ký xe,làm sổ đỏ. Người đủ 18 tuổi sẽ buộc phải có tài khoản. Chưa hết: “Năm 2013 yêu cầu các cá nhân phải có tài khoản NH, giao dịch lớn hơn 200 triệu đồng phải thanh toán không dùng tiền mặt; đến năm 2015 mọi công dân trên 18 tuổi phải có tài khoản NH”. Không cần nói cũng biết tác giả của các đề xuất trên là cơ quan nào.
Nhìn nhận một cách công bằng, nền kinh tế tiền mặt khiến cho những vị quan chức luôn kêu gào “lương không đủ sống” vẫn có thể xây vườn thượng uyển, mua biệt thự ở Hà Nội, bất động sản ở Sài Gòn, rồi cho con đi du học Anh, Mỹ…Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp Đinh Xuân Thảo có lần ngậm ngùi: “Tiền bẩn” của bọn buôn lậu, buôn ma túy (và nhất là của bọn tham nhũng nữa) trở thành “tiền sạch” quá dễ. Bởi chỉ cần mang bao tiền bẩn đó đi mua nhà, mua đất rồi bán lấy tiền là thành tiền sạch, không cần phải “rửa” qua các ngân hàng”. Nói cho nhanh là không thể chống tham nhũng nếu cứ “tồn tại miên man tràn thế kỷ” một nền kinh tế tiền mặt như ở Việt Nam.
Nhưng, như đã nói, mục tiêu có tốt đẹp đến mấy cũng không thể không tính đến dân chúng, và tính khả thi của một dự thảo đụng chạm đến nhường đó. Bởi ngay và luôn, một câu hỏi không thể không đặt ra. Vậy thì người dân phải thanh toán bằng gì nếu cấm tiệt thanh toán bằng tiền mặt, khi mà vàng không được coi là phương tiện thanh toán và ngoại tệ, đương nhiên, “bất hợp pháp tra tay vào còng”.
Câu trả lời ở một nghĩa khác. Muốn được coi là hợp pháp thì xin mời bà con về lục tủ, mở ống bơ, đào vàng cột nhà gửi hết vào ngân hàng.
Cái này có vẻ khó.
Có lần, Ủy viên Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội, Trần Hoàng Ngân phát biểu nghị trường công khai rằng rất nhiều người dân Việt Nam vẫn đang ngộ nhận gửi tiền vào ngân hàng là tuyệt đối an toàn, ngay cả khi phá sản Nhà nước cũng có trách nhiệm. Tuy nhiên, thực tế quy định khi gửi tiền mà ngân hàng phá sản, người VN chỉ được bảo hiểm chi trả tối đa 50 triệu đồng”. Liệu có ai chơi trò đánh bạc khi mang gửi ngân hàng 100 tỷ mà chỉ được “bảo hiểm” 50 triệu đồng?
Câu trả lời có vẻ đã rất rõ ràng: Người dân mong muốn chống tham nhũng, vì họ chính là nạn nhân của tham nhũng. Nhưng tại sao quy định này không bắt đầu bằng việc quy định đối tượng trước hết là cán bộ công chức nhà nước?
Không ai muốn một nền kinh tế phi tiền mặt khi muốn mua gì phải “vác bao tải tiền” nhông nhông ngoài đường trong bối cảnh bọn đạo tặc bẻ gương xe dừng đèn đỏ giữa ngã tư hay chém cụt tay đàn bà để cướp giữa lòng thành phố. Nhưng thưa Nhà nước, các vị phải bắt đầu bằng việc đặt những chiếc máy thanh toán ngoài chợ rồi muốn cấm gì thì cấm.



Copy từ: Đào Tuấn

DANH SÁCH NGƯỜI KÝ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992

DANH SÁCH NGƯỜI KÝ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 (TỪ ĐỢT 1 ĐẾN ĐỢT 5)

Để ký tên vào Lời kêu gọi này, xin đồng bào trong và ngoài nước gửi e-mail về địa chỉ kiennghisuadoihienphap2013@gmail.com , ghi rõ họ tên, nghề nghiệp, chức danh (nếu có) và địa chỉ.
Danh sách dưới đây đã được rà soát để loại bỏ trùng tên.
Bauxite Việt Nam

  Đọc Kiến nghị sửa đổi Hiến Pháp 1992 

Đợt 1:
1. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
3. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
4. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
5. Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
6. Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
7. Phạm Vĩnh Cư, nhà nghiên cứu, Hà Nội
8. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
9. Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
10. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
11. Nguyễn Văn Dũng, nhà văn, võ sư, Huế
12. Hồ Ngọc Đại, GS TS, nhà giáo, Hà Nội
13. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
14. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
15. Lê Hiền Đức, Giải thưởng Liêm chính 2007, Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Hà Nội
16. Phan Hồng Giang, TSKH, Hà Nội
17. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
18. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
19. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
20. Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
21. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
22. Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
23. Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP Hồ Chí Minh, TP HCM
24. Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên - Huế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế
25. Nguyễn Văn Hồng (tức Cung Văn), nguyên Tổng Thư ký Ban chấp hành Sinh viên đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn 1964-1965, Đà Nẵng
26. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
27. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
28. Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
29. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
30. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
31. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
32. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
33. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội
34. Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
35. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
36. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
37. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
38. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
39. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
40. Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
41. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
42. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn, Hà Nội
43. Phạm Đức Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp Đại học, Hà Nội
44. Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
45. Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
46. Hoàng Xuân Phú, GS Viện Toán học, Hà Nội
47. Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
48. Nguyễn Đăng Quang, nguyên Đại tá Công an, Hà Nội
49. Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
50. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
51. Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
52. Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn, Hà Nội
53. Lê Văn Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản, Nhật Bản
54. Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
55. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
56. Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
57. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
58. Đào Tiến Thi, thạc sĩ, Hà Nội
59. Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
60. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
61. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
62. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
63. Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
64. Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
65. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
66. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
67. Nguyễn Viện, nhà văn, TP HCM
68. Nguyễn Hữu Vinh, nhà báo, Hà Nội
69. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
70. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, Huế
71. Nguyễn Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
72. Nguyễn Phú Yên, nhạc sĩ, TP HCM
Đợt 2:
73. Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên thiếu tướng, nguyên ủy viên Trung ương đảng, nguyên cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc
74. Phan Văn Thuận, giám đốc doanh nghiệp, TP HCM
75. Nguyễn Hữu Quý, kỹ sư, Đăk Lăk
76. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TP HCM
77. Trần Định, nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh, Hà Nội
78. Bùi Hữu Hùng, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội
79. Nguyễn Lân Thắng, kỹ sư, Hà Nội
80. Nguyễn Chí Đức, kỹ sư, Hà Nội
81. Nguyễn Đức Nhã, nghề nghiệp tự do, TP HCM
82. Hoàng Cường, kỹ sư, Hà Nội
83. Nguyễn Hồng Kiên, TS, Hà Nội
84. Trương Văn Khiêm, công nhân, CHLB Đức
85. Nguyễn Tường Long, Hoa Kỳ
86. J.B Nguyễn Hữu Vinh, kỹ sư, blogger, Hà Nội
87. Nguyễn Công Huân, Phó Giáo sư trường Đại học Aalborg, Đan Mạch
88. Nguyễn Văn Dũng, lao động tự do, Việt Trì, Phú Thọ
89. Nguyễn Việt Hưng, lập trình viên CNTT, Hà Nội
90. Nguyễn Nam Việt, linh mục Công giáo thuộc Giáo phận Vinh, Hoa Kỳ
91. Nguyen Huu Chanh, Hoa Kỳ
92. Phạm Xuân Yêm, nguyên Giám đốc Nghiên cứu Vật lý, CNRS và Đại học Paris VI, Pháp
93. Dạ Thảo Phương, Hà Nội
94. Tran Thi Thanh Tam, Ba Lan
95. Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư, CHLB Đức
96. Vũ Tuấn, TS, freelancer, CHLB Đức
97. Phan Văn Song, nguyên Quyền Hiệu trưởng trường THPT Chuyên Bến Tre, Australia
98. Nguyễn Xuân Hoài, cán bộ hưu trí, TP HCM
99. Hà Dương Tường, nguyên giáo sư đại học công nghệ Compiègne, Pháp
100. Trần Ngọc Tuấn, nhà văn, nhà báo, Cộng hòa Czech
101. Lê Hà Nam, quản lý sản xuất, Bình Dương
102. Trần Kim Thập, giáo chức, Australia
103. Pham Tuan Anh, công dân Việt Nam, Cộng hòa Czech
104. Nguyễn Đức Việt, chuyên viên lập trình, Australia
105. Nguyễn Trung Thành, kỹ sư, Phú Thọ
106. Trinh Hồng Trang, giáo viên, Hà Nội
107. André Menras - Hồ Cương Quyết, cựu tù chính trị, Chủ tịch Hiệp hội trao đổi sư phạm Pháp - Việt (ADEP), Pháp
108. Sa Huỳnh, kỹ sư, Berlin, CHLB Đức
109. Phạm Tư Thanh Thiện, nguyên Phó Trưởng ban Việt ngữ đài phát thanh RFI, Pháp
110. Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo, nguyên Phó Tổng thư kí Hội người Việt Nam tại Pháp, phiên dịch Phái đoàn VNDCCH tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1968-1973), Pháp
111. Ðỗ Ðăng Giu, nguyên Giám đốc Nghiên cứu CNRS, Ðại học Paris-Sud, Pháp
112. Nguyễn Mạnh Cường, kinh doanh, Praha, Cộng hòa Czech
113. Nguyễn Hoàng, kĩ sư, đã nghỉ hưu, Hoa Kỳ
114. Nguyễn Đức Hiệp, chuyên gia Khoa học khí quyển, Australia
115. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, nguyên chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt
116. Hiền Thục, nghệ nhân mỹ thuật ứng dụng, nhà báo, nguyên phóng viên, biên tập viên Đài Phát thanh Truyền hình Lâm Đồng, Đà Lạt
117. Huỳnh Tấn, cựu học sinh Quốc gia Nghĩa tử, TP HCM
118. Vũ Cao Đàm, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội
119. Vũ Tiến Nga, kỹ sư cơ khí, TP HCM
120. Bùi Xuân Trường, kỹ sư cơ khí, Phú Thọ
121. Trần Quang Thành, nhà báo, Slovakia
122. Hoàng Thị Hà, hưu trí, Hà Nội
123. Lê Thăng Long, TP HCM
124. Hồ Sỹ Lâm, kỹ sư, Nghệ An
125. Phạm Lê Duy Anh, sinh viên, Hà Nội
126. Phạm Văn Ngữ, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hà Nội
127. Nguyễn Thanh Hải, kỹ sư, Quảng Ninh
128. Phạm Hữu Trí, cán bộ hưu trí TP HCM
129. Hoàng Gia Cương, nhà thơ, Hà Nội
130. Vũ Ngọc Thắng, hướng dẫn viên, Hải Phòng
131. Trần Công Khánh, Hải Phòng
132. Đặng Đăng Phước, giáo viên, Buôn Ma Thuột
133. Khải Nguyên, nhà giáo, nhà văn, Hải Phòng
134. Nguyễn Phạm Kim Sơn, công dân Việt Nam, Đà Nẵng
135. Duong Van Vinh, nguyên sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, TP HCM
136. Nguyễn Võ Toàn Quyền, xây dựng, Ninh Thuận
137. Giang Thanh Tung, Quảng Ninh
138. Nguyễn Văn Pháp, kỹ sư, Đồng Nai
139. Nguyễn Hoài Bắc, nguyên chiến sĩ Trung đoàn 223 từng tham gia chiến đấu 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không, nguyên kỹ sư, Hà Nội
140. Đặng Văn Tân, công dân Việt Nam, TP HCM
141. Vũ Văn Thế, giáo viên, Nam Định
142. Nguyễn Quốc Minh, nhà thơ, Hà Nội
143. Nguyễn Ngọc Cúc, kỹ sư điện, Bình Dương
144. Nguyễn Quang Hải, sinh viên, Hà Nội
145. Nguyễn Chí Tuyến, Hà Nội
146. Trương Minh Tam, quản lý thương mại, Hà Nam
147. Nguyễn Đức Quỳ, công dân Việt nam, Hà Nội
148. Nguyễn Đức Phổ, nông dân, TP HCM
149. Nguyễn Trọng Thể, kỹ sư, Hà Tĩnh
150. Đồng Quang Vinh, hưu trí, Khánh Hòa
151. Minh Thọ, luật gia, nhà báo, nguyên Trưởng đại diện Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, TP HCM
152. Lê Văn Sinh, cựu giảng viên, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội
153. Ngô Đức Thọ, PGS TS, Hà Nội
154. Nguyễn Thị Dương Hà, luật sư, Hà Nội
155. Dương Văn Minh, nghiên cứu viên, TP HCM
156. Nguyễn Văn Tường, kỹ sư, Hà Nam
157. Nguyen Thuong Kinh, bác sĩ, Hà Nội
158. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM
159. Trần Minh Thảo, viết văn, Lâm Đồng
160. Phạm Khiêm Ích, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội
161. Trần Hữu Khánh, nguyên biên tập viên Nhà xuất bản Trẻ, TP HCM
162. Lê Văn, TS, hưu trí, Tân Bình, TP HCM
163. Phùng Hoài Ngọc, cựu giảng viên đại học, hội viên Hội nhà báo Việt Nam, An Giang
164. Nguyễn Đăng Hưng, TSKH, Giáo sư Danh dự trường Đại học Liège, Bỉ
165. Vũ Đức Lộc, công dân nước Việt Nam, Hàn Quốc
166. Vu Cong Giao, TS, giảng viên đại học, Ha Noi
167. Nguyen Thi Hoai Phuong, làm nghề tự do, Hà Nội
168. Hoàng Sơn, nông dân, Thái Bình
169. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, TP HCM
170. Vũ Hải Long, TSKH, nghỉ hưu, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, TP HCM
171. Nguyễn Hồng Khoái, chuyên viên Tư vấn Tài chính, hội viên CLB Kế toán trưởng toàn quốc, hội viên hội Tư vấn Thuế Việt Nam, Hà Nội
172. Tran Thi Quyen, Hội An
173. Nguyễn Duy, nhà thơ, TP HCM
174. Đặng Xuân Thắng, TP HCM
175. Trần Hải, kỹ sư, TP HCM
176. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên văn hóa, TP HCM
177. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM
178. Phero Tran Duc Cuong, linh mục Giáo phận Đà Nẵng
179. Tô Oanh, giáo viên nghỉ hưu, Bắc Giang
180. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, TP HCM
181. Lê Trung Hà, CHLB Đức
182. Trần Xuân Nam, TS , Hà Nội
183. Lê Thanh Trường, cử nhân, Đà Nẵng
184. Nguyễn Xuân Liên, Giám đốc Bảo tàng Chiến tranh Ngoài trời Vực Quành, Quảng Bình
185. Hoàng Thế Trung, kỹ sư, Gia Lai
186. Vũ Minh Trí, kĩ sư, Hà Nội
187. Đào Minh Châu, TS, Cơ quan Hợp tác Phát triển Thuỵ Sĩ, Hà Nội
188. Nguyễn Tâm Thiện, công nhân kỹ thuật, Strasbourg, Pháp
189. Vũ Quốc Ngữ, thạc sĩ, nhà báo, Hà Nội
190. Lê Khánh Hùng, TS, Hà Nội
191. Phạm Thị Lâm, cán bộ hưu trí, Hà Nội
192. Nguyễn Đạt, kiến trúc sư, công chức, Hoa Kỳ
193. Nguyễn Duy Phúc, thạc sĩ, kiến trúc sư, Hà Hội
194. Huy Đức, nhà báo, đang du học tại Mỹ
195. Nguyễn Minh Tiến, Hải Phòng
196. Đào Hà Anh, sinh viên cao học, Hàn Quốc
197. Thái Văn Cầu, chuyên gia Khoa học Không gian, Hoa Kỳ
198. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TP HCM
199. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội
200. Phạm Hữu Lê Quốc Phục, quản lý, Đà Nẵng
201. Nguyễn Ngọc Châu, PGS TS, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội
202. Phạm Văn Đỉnh, TSKH, Pháp
203. Nguyễn Văn Lịch, kỹ sư, Hà Nội
204. Lê Hùng, hưu trí, Hà Nội
205. Le Van Phuc, hưu trí, Hà Nội
206. Đoàn Phú Huyên, kỹ sư, Hà Nội
207. Lưu Hà Sĩ Tâm, kỹ sư, Thái Bình
208. Phạm Anh Tuấn, TS, Hà Nội
209. Hồ Thị Sinh Nhật, giáo viên, Hà Nội
210. Lương Sơn Bạc, kỹ sư, Kon Tum
211. Đoàn Xuân Cao, công nghệ thông tin, Hải Phòng
212. Trịnh Phúc Tuấn, thạc sĩ, nguyên Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Huế
213. Phạm Văn Mầu, cử nhân, cán bộ hưu trí, Hà Nội
214. Phan Thế Vấn, bác sĩ, TP HCM
215. Lê Ngọc Thanh, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, TP HCM
216. Nguyễn Phương Minh, công dân, Hà Nội
217. Cấn Văn Tuất, PGS TS, nguyên giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội
218. Ông Việt, kinh doanh, TP HCM
219. Nguyễn Ngọc Diễm Phượng, công nhân viên, TP HCM
220. Hoàng Hưng, cây bút tự do, TP HCM
221. Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học Kỹ thuật và Kinh tế Biển TP Hồ Chí Minh, TP HCM
222. Nguyễn Vi Khải, nguyên Viện trưởng Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội
223. Trần Tố Nga, cựu tù chính trị trước 1975, Pháp
224. Trần Văn Vinh, hướng dẫn du lịch, Hà Nội
225. Phạm Văn Lễ, kỹ sư, TP HCM
226. Trần Quốc Tuấn, kinh doanh, Hà Nội
227. Phạm Tuấn Trung, kỹ sư tin học, Hà Nội
228. Trịnh Hồng Chương, lập trình viên, Thanh Hóa
229. Phan Trọng Khang, thương binh hạng A loại 2/4, Hà Nội
230. Phạm Trung Dũng, TS, Hà Nội
231. Vũ Ngọc Thọ, cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa của miền Nam trước 1975, Australia
232. Đào Tấn Phần, giáo viên, cựu ứng cử viên (tự ứng cử) Quốc hội Việt Nam khóa 13, Phú Yên
233. Hoàng Đức Vương, kỹ sư, TP HCM
234. Trần Tư Bình, giáo viên, Australia
235. Vũ Ngoc Anh, cử nhân luật, Hà Nội
236. Nguyen Huu Loc, công nhân, TP HCM
237. Chu Sơn, nhà thơ, TP HCM
238. Nguyễn Thị Kim Thoa, bác sĩ, TP HCM
239. Nguyễn Hồng Quang, thạc sĩ, Viện Cơ học, Hà Nội
240. Đinh Nguyễn, họa sĩ, Canada
241. Đỗ Xuân Thọ, TS, Hà Nội
242. Hoàng Lan, nguyên Trưởng Khoa Vật Lý trường Đaịhọc Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
243. Lê Đoàn Thể, kỹ sư, Hà Nội
244. Võ Trường Thiện, nghề tự do, Khánh Hòa
245. Nguyễn Công Chính, blogger, TP HCM
246. Nguyễn Quốc Sơn, nhiếp ảnh gia, Hà Nội
247. Vũ Thị Nhuận, Nhật Bản
248. Lê Hoàng Lan, cán bộ về hưu, Hà Nội
249. Bùi Ngọc Mai, thợ sửa xe, TP HCM
250. Đặng Bá Mạnh Tri, buôn bán, Thừa Thiên Huế
251. Đặng Văn Lập, kiến trúc sư, Hà Nội
252. Võ Văn Tạo, nhà báo, cựu chiến binh Sư 304 Quảng Trị 1972, Nha Trang
253. Doãn Kiều Anh, kỹ sư, TP HCM
254. Đặng Bích Phượng, Hà Nội
255. Đào Thanh Thủy, hưu trí, Hà Nội
256. Lê Anh Hùng, blogger, Hà Nội
257. Nguyễn Đức Toàn, TP HCM
258. Nguyễn Hữu Trường, công dân, Bình Dương
259. Nguyễn Hải Đăng, doanh nhân, Hà Nội
260. Nguyễn Thu Nguyệt, giảng viên hưu trí, TP HCM
261. Hà Thúc Huy, PGS TS, Đại học Khoa học Tự nhiên, TP HCM
262. Quảng Trọng Nhân, công nhân, TP HCM
263. Trần Lương Sơn, Phó Tiến sĩ, Hà Nội
264. Trần Rạng, giáo viên, TP HCM
265. Phạm Văn Hiền, nguyên giảng viên, trường Chính trị Tô Hiệu, Hải Phòng
266. Ngô Kim Hoa, nhà báo, TP HCM
267. Ngô Thanh Hà, cán bộ hưu trí, TP HCM
268. Nguyễn Phương Anh, doanh nhân, Hà Nội
269. Phạm Phước Vinh, TP HCM
270. Hoàng Minh Tuấn, TP HCM
271. Bùi Thái Sơn, kỹ sư, CHLB Đức
272. Nguễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội
273. Bùi Văn Mạnh, Hà Nội
274. Nguyễn Vĩnh Nguyên, cựu chiến binh, kỹ sư, Hà Nội
275. Lê Kim-Song, PhD, Australia
276. Phạm Duy Hiển, Vũng Tàu
277. Lê văn Thanh, kỹ sư, quản lý, Hải Phòng
278. Hoàng Văn Vương, giảng viên trường Đại học Bách khoa, Hà Nội
279. Dao Nguyen Ngoc, cựu chiến binh tham gia bảo vệ biên giới phía Bắc 1982-1985, CHLB Đức
280. Vũ Trí Thức, cử nhân, TP HCM
281. Tran Tri Dung, kỹ sư, Hà Nội
282. Bùi Quang Thắng, thạc sĩ, Hà Nội
283. Nguyễn Thành Nhân, kỹ sư, TP HCM
284. Nguyễn Thế Anh, sinh viên, Hà Nội
285. Thái Văn Tự, kỹ sư, Nghệ An
286. Hoàng Văn Đán, học sinh, Hà Tĩnh
287. Trịnh Ngọc Tiến, bác sĩ, Hà Nội
288. Phạm Vương Ánh, kỹ sư, cựu sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, Nghệ An
289. Trần Xuân Quang, Nghệ An
290. Nguyễn Vũ Hiệp, sinh viên, Hà Nội
291. Nguyễn Trí Dũng, dịch thuật tự do, Hà Nội
292. Lã Việt Dũng, kỹ sư, Hà Nội
293. Phạm Anh Tuấn, nhân viên văn phòng, Gia Lai
294. Nguyễn Chương, nhà báo, TP HCM
295. Tạ Duy Anh, nhà văn, Hà Nội
296. Lê Doãn Cường, kỹ sư, TP HCM
297. Đỗ Toàn Quyền, Giám đốc Quản lý dự án, TP HCM
298. Nguyễn Đăng Ninh, kiến trúc sư, TP HCM
299. Trương Văn Minh, Phó Giám đốc, TP HCM
300. Nguyễn Hùng Duy, kiến trúc sư, TP HCM
301. Nguyễn Văn Dương, dân kinh doanh, Hà Giang
302. Nguyễn Công Hệ, thuyền trưởng viễn dương, đã nghỉ hưu, TP HCM
303. Phan Cự Cường, architech, Hà Nội
304. Nguyễn Minh Khang, nhân viên vi tính, TP HCM
305. Nguyễn Đức Tường, GS TS, cựu giáo sư Đại học Ottawa, Canada, Canada
306. Nguyen Quoc Lan, giáo viên, nghỉ hưu, Ha Noi
307. Phạm Văn Chính, kỹ sư, Hà Nội
308. Hoàng Đức Doanh, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nam
309. Khuất Mạnh Hải, Bộ phận thiết kế, Hà Nội
310. Lê Công Vinh, IT, Vũng Tàu
311. Phạm Minh Khang, sinh viên, TP HCM
312. Đinh Văn Lưu, TP HCM
313. Nguyễn Việt Anh, TS, Đại học Kyoto, Nhật Bản
314. Trịnh Toàn, bảo vệ, Nam Định
315. Bùi Trần Đăng Khoa, luật sư, TP HCM
316. Nguyễn Lương Thịnh, tư vấn đầu tư, TP HCM
317. Trần Công Thắng, bác sỹ, Na Uy
318. Trần Minh Trường, CHLB Đức
319. Bùi Phi Hùng, cán bộ, Hà Nội
320. Chu Trọng Thu, cựu giáo chức, TP HCM
321. Hồ Văn Tích, kỹ sư, TP HCM
322. Nguyễn Thanh Xuân, kỹ sư, TP HCM
323. Toan Ha Tran, Hà Lan
324. Đặng Lợi Minh, giáo viên hưu trí, Hải Phòng
325. Đàm Minh, cựu chiến binh, Hải Phòng
326. Trương Chí Tâm, cử nhân, TP HCM
327. Nguyễn Tiến Đức, kỹ sư, đang nghỉ hưu, TP HCM
328. Trần Thị Hồng Lợt, kế toán, TP HCM
329. Đoàn Văn Ngãi, Hải Phòng
330. Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia Công nghệ Thông tin, Pháp
331. Đặng Nguyệt Ánh, hưu trí, Hà Nội
332. Lê Kim Duy, kỹ sư, Huế
333. Đỗ Như Phương, từng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hungary
334. Bùi Tín, nhà báo tự do, Pháp
335. Thái Nguyễn Hoàng Tuấn, sinh viên, TP HCM
336. Bùi Hoài Mai, họa sĩ, Hà Nội
337. Trần Văn Bang, kỹ sư, TP HCM
338. Vũ Ngọc Sơn, kế toán, Hà Nội
339. Lê Hữu Nghị, kỹ sư, Hà Nội
340. Trần Thị Hường, CHLB Đức
341. Vũ Thị Phương Anh, công dân Việt Nam, TP HCM
342. Trần Ngọc Thành, Ba Lan
343. Nhật Tuấn, nhà văn, TP HCM
344. Nguyễn Huy Dũng, dân thường, Vũng Tàu
345. Hoàng Liên, giảng viên đại học, Hà Nội
346. Nguyễn Phúc Khanh, Đà Nẵng
347. Dương Sanh, cựu giáo viên, Khánh Hòa
348. Nguyễn Việt Hùng, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội
349. Phan Minh Quân, cử nhân, TP HCM
350. Đặng Văn Nam, TP HCM
351. Bùi Việt Hà, Hà Nội
352. Nguyễn Ngọc Đức, kỹ sư, Pháp
Đợt 3:
353. Ngô Văn Phương, huynh trưởng hướng đạo, Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP HCM khóa 4, TP HCM
354. Nguyễn Hữu Phước, nhà báo, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam, TP HCM
355. Trần Văn Long, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn TP HCM, nguyên Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty du lịch Sài Gòn (Saigontourist), TP HCM
356. Nguyễn Thị Kim Chi, nghệ sĩ ưu tú, Hà Nội
357. Nguyễn Thiện Nhân, nhân viên, Bình Dương
358. Nguyễn Thành Tiến, sinh viên, Hải Phòng
359. Dương Văn Tú, dược sĩ, giảng viên Trường Đại học Dược, Hà Nội
360. Trương Thị Lan Yến, dược sĩ, TP HCM
361. Đỗ Anh Tuấn, kinh doanh, Vĩnh Phúc
362. Phạm Ngọc Cảnh Nam, nhà văn, Đà Nẵng
363. Trương Quốc Dũng, kỹ sư, TP HCM
364. Nguyễn Quốc Lập, kỹ sư, Hà Nội
365. Võ Thanh Hà, giáo viên, Hà Nội
366. Giuse Nguyễn Công Bắc, linh mục Giáo phận Vinh
367. Hà Văn Thùy, nhà văn, TP HCM
368. Nguyễn Quốc Bình, kỹ sư, TP HCM
369. Nguyễn Xuân Phúc, lao động tự do, Hà Nội
370. Nguyễn Mộng Nhưng, cán bộ nghỉ mất sức lao động, người viết văn không chuyên, Nam Định
371. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư, Thụy Sĩ
372. Nguyễn Khắc Vỹ, cán bộ hưu trí, TP HCM
373. Đặng Danh Ánh, PGS TS, nguyên Trưởng ban Đào tạo, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
374. Nguyễn Văn Đài, luật sư, Hà Nội
375. Đỗ Như Ly, kỹ sư, hưu trí, TP HCM
376. Nguyễn Văn Thuận, sinh viên, Nam Định
377. Lê Quỳnh Mai, kỹ sư, Hà Nội
378. Nguyễn Tiến Lực, nông dân, Hà Nội
379. Ngô Minh Tín, sinh viên, TP HCM
380. Nguyễn Đình Vinh, thạc sĩ, TP HCM
381. Vũ Xuân Tửu, nhà văn, Tuyên Quang
382. Phạm Thanh Sơn, kinh doanh, Hà Nội
383. Nguyễn Đắc Kiên, nhà báo, Hà Nội
384. Tran Duc Cung, TS hưu trí, TP HCM
385. Nguyễn Ngọc (bloggger Nguyễn Ngọc Già), TP HCM
386. Đào Duy Chữ, TSKH, TP HCM
387. Phạm Lê Vương Các, sinh viên, TP HCM
388. Lê Thị Hồng Hạnh, hưu trí, Hà Nội
389. Vũ Linh, nguyên là giảng viên Đại học Bách khoa, Hà Nội
390. Đinh Trí Nhật Huy, học sinh, TP HCM
391. Nguyễn Đức Vinh, kỹ sư, Hải Phòng
392. Hồ Đức Thanh, nghề tự do, Hà Nội
393. Nguyễn Đức Nhân, công nhân, Hải Phòng
394. Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ công đoàn, đã hưu trí, Đà Lạt
395. Lê Văn Tuynh, Bình Thuận
396. Phạm Minh Cường, quân nhân, Quảng Ninh
397. Trần Thị Hoa, sinh viên, TP HCM
398. Phạm Hùng, hưu trí, Canada
399. Văn Hiền Hạ Sỹ, Hà Nội
400. Văn Phú Mai, cựu giáo viên, Quảng Nam
401. Vũ Văn Lâm, sinh viên, Bạc Liêu
402. Nguyễn Trang Nhung, kỹ sư, TP HCM
403. Nguyễn Hà Trung, Hà Nội
404. Trần Trọng Khánh, sinh viên, Hà Nội
405. Nguyễn Đình Hòa, nhân viên, Quảng Bình
406. Phan Thị Thùy Linh, giáo viên, Cần Thơ
407. Võ hữu Quyền, Khánh Hòa
408. Đỗ Trọng Dương, sinh viên, TP HCM
409. Trần Xuân Huyền, Nghệ An
410. Phạm Việt Hùng, TS, Hàn Quốc
411. Mai Văn Tuất (blogger Văn Ngọc Trà), TP HCM
412. Lê Thanh Tùng, cử nhân, TP HCM
413. Nguyễn Đức Hùng, kỹ sư, cựu chiến binh, Hà Nội
414. Dao Xuan Tuan, Hà Nam
415. Trần Quốc Túy, kỹ sư, đã hưu, Hà Nội
416. Phan Bảo Châu, kỹ sư, đã hưu, Hà Nội
417. Lê Quang Hải, sinh viên, Scotland
418. Nguyễn Việt Triều, kiến trúc sư, Quảng Ngãi
419. Tư Đồ Tuệ, Canada
420. Phạm Quỳnh Hương, Hà Nội
421. Nguyễn Văn Vương, nhân viên, TP HCM
422. Vũ Nhật Khải, PGS TS, nguyên Vụ trưởng Vụ Đào tạo Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
423. Bùi Thị Hội, chuyên viên cao cấp Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
424. Nguyễn Minh, kỹ sư, TP HCM
425. Đặng Đình Cung, kỹ sư, TS, Pháp
426. Pham Xuan Phuong, Đại tá, cựu chiến binh, Hà Nội
427. Vũ Văn Bách, sinh viên, Hà Nội
428. Vũ Văn An, học sinh, Bạc Liêu
429. Trần Việt Thắng, thạc sĩ, Hà Nội
430. Ngô Văn Hải, thợ nguội, cử nhân kế toán, Yên Bái
431. Trương Xuân Trường, lao động tự do, Thái Bình
432. Trinh Hung CPA, thạc sĩ, Australia
433. Đặng Hoàng Hiếu, kỹ sư, Hà Nội
434. Nguyễn Kiều Diễm, Long Biên, Hà Nội
435. Nguyễn Hùng Cường, sinh viên, TP HCM
436. Phạm Thu Thủy, Hà Nội
437. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Chủ tịch Lực lượng Phụng sự lao động (trước 1975), TP HCM
438. Lê Văn Linh, kỹ sư, Nam Định
439. Trần Hưng Thịnh, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hà Nội
440. Nguyễn Thị Chung, hưu trí, TP HCM
441. Lưu Hồng Thắng, Hoa Kỳ
442. Phan Kim Khánh, sinh viên, Thái Nguyên
443. Trần Thị Tuyết Cơ, nội trợ, Hoa Kỳ
444. Nguyễn Đức Dân, GS TS, nguyên Phó Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, TP HCM
445. Mai Phan Việt Hùng, luật sư, TS, TP HCM
446. Đặng Vũ Giang, TS, cán bộ nghiên cứu Viện Toán học, Hà Nội
447. Chí Vĩnh Nguyên, Bình Dương
448. Phạm Văn Lễ, kỹ sư, TP HCM
449. Nguyễn Thị Yến Trang, sinh viên, TP HCM
450. Vũ Văn Hiền, nhà giáo, Hà Nội
451. Nguyễn Hòa, Cao học Hành chánh Sài Gòn, đã nghỉ hưu, Hoa Kỳ
452. Nguyễn Thái Hùng, kỹ sư, Nghệ An
453. Lê Thị Phú, TS, TP HCM
454. Thái Thăng Long, nhà thơ, TP HCM
455. Đinh Minh Hân, nghề nghiệp IT, Bà Rịa Vũng Tàu
456. Phạm Ngọc Minh, Hà Nội
457. Nguyễn Văn Thạnh, chủ nhiệm CLB máu khó đông, Đà Nẵng
458. Lê Hồng Phú, kỹ sư, Hà Nội
459. Lê Tuấn Huy, TS, TP HCM
460. Võ Quê, nhà thơ, Huế
461. Nguyễn Hữu Việt Hưng, GS TSKH, Đại học Quốc gia Hà Nội
462. Nguyễn Đức Độ, kinh doanh tự do, Bắc Ninh
463. Tạ Dzu, Hoa Kỳ
464. Vương Đức Hòa, kĩ sư điện, Hải Dương
465. Lê Thái Dương, nhà báo, TP HCM
466. Thomas Cong, IT Consultant, Hoa Kỳ
467. Lê Xuân Thiêm, kinh doanh, TP HCM
468. Nguyễn Thái Minh, doanh nghiệp, Thái Nguyên
469. Lê Mai, hưu trí, Australia
470. Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, dịch thuật, CHLB Đức
471. Trần Đình Thanh Lam, cựu nhà giáo, cựu nhà báo, TP HCM
472. Lưu Anh Tuấn, Ba Lan
473. Nguyễn Hùng Sơn, họa sĩ, Hà Nội
474. Pham Hoang Nam, cử nhân, Bình Phước
475. Lê Văn Điền, TS, Ba Lan
476. Trương Lợi, kỹ sư, TP HCM
477. Đặng Đình Tấn Trương, sinh viên, TP HCM
478. Phùng Liên Đoàn, TS, Chủ tịch Hội nhân đạo Vietnamese American Scholarship Fund (VASF) và Fund for the Encouragement of Self-Reliance (FESR), Hoa Kỳ
479. Hoàng Hồng Sơn, TS, kỹ sư, Pháp
480. Nguyễn Kim Thảo, giảng viên, TP HCM
481. Trần Đức Thạch, Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An
482. Cao Văn Khánh, sinh viên, Lai Châu
483. Vũ Bùi, kỹ thuật viên, Hoa Kỳ
484. Vũ Văn Quyết, kỹ sư, Vĩnh Phúc
485. Trần Hải Hạc, nguyên PGS trường Đại học Paris 13, Pháp
486. Nguyễn Trung Dân, Giám đốc Chi nhánh Nhà xuất bản Hội Nhà văn tại Miền Nam, TP HCM
487. Nguyễn Ngọc Hùng, sinh viên, Pháp
488. Phạm Đức Long, Hà Nội
489. Lê Minh Hằng, kỹ sư, Hà Nội
490. Nguyễn Thanh Bình, kỹ sư, Huế
491. Nguyễn Chí Linh, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giám mục Giáo phận Thanh Hóa
492. Phạm Hữu Anh Huy, cử nhân, TP HCM
493. Le Dinh Hong, kế toán, Canada
494. Le Thi Nhan, nội trợ, Canada
495. Hoàng Văn Minh, kỹ sư, Hà Nội
496. Hồ Vĩnh Trực, kỹ thuật viên, TP HCM
497. Nguyễn Văn Hùng, hưu trí, TP HCM
498. Võ Quang Luân, công dân, Hà Nội
499. Nguyễn Tiến Dũng, kinh doanh, Nghệ An
500. Hà Văn Thịnh, Đại học Khoa học Huế
501. Võ Tá Luân, kỹ thuật IT, TP HCM
502. Nguyễn Đức Quyết, kỹ sư, Bắc Ninh
503. Nguyễn Thị Hường, nghiên cứu sinh, Đại học Indiana, Hoa Kỳ
504. Nguyễn Tường Thụy, cựu chiến binh, cử nhân, Hà Nội
505. Nguyễn Ngọc Sơn, cựu chiến binh, kinh doanh, TP HCM
506. Khai Tâm, Nhật Bản
507. Nguyễn Huy Đức, buôn bán nhỏ, Hà Tĩnh
508. Cao Xuân Hưng, TP HCM
509. Phạm Quang Hiếu, họa sĩ, Hà Nội
510. Nguyễn Xuân Thịnh, giáo viên, TP HCM
511. Trần Kiều Hưng, kỹ sư, TP HCM
512. Trần Ngọc Tùng, IT, TP HCM
513. Mai Xuân An, sinh viên, Khánh Hòa
514. Trần Tiến Đức, kỹ sư, nhà báo, đạo diễn truyền hình, đã nghỉ hưu, Hà Nội
515. Trần Minh Thiện, sinh viên, Hà Nội
516. Nguyễn Duy Tư, cử nhân, TP HCM
517. Nguyễn Đình Hà, cử nhân, Hà Nội
518. Hiệp-Hoà T. Nguyễn, TS, Giám đốc, Hoa Kỳ
519. Nguyễn Thế Phương, TS,  Canada
520. Nguyễn Văn Phúc, kỹ sư, Bình Định
521. Trần Tuấn Lộc, công dân Việt Nam, TP HCM
522. Nguyễn Trọng Đại, giảng viên, Pháp
523. Hồ Quang Huy, kỹ sư, Nha Trang
524. Đinh Nhật Uy, kỹ sư, Long An
525. Nguyễn Thị Kim Liên, nội trợ, Long An
526. Đinh Văn Chuộn, thợ điện 7/7, Long An
527. Trần Trung Vĩnh, nhân viên, Long An
528. Hà Sĩ Phú, tài xế, Long An
529. Đinh Quân, thợ chụp ảnh, Long An
530. Nguyễn Thế Hiệp, bảo vệ siêu thị, Long An
531. Đỗ Văn Thái, kỹ thuật viên, Long An
532. Trịnh Đình Thuận, cử nhân, Hà Nội
533. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ, Pháp
534. Nguyễn Xuân Anh, kỹ sư, Hoa Kỳ
535. Bạch Long Giang, Hà Nội
536. Nguyễn Trọng Nhân, nhiếp ảnh, Tiền Giang
537. Thùy Linh, nhà văn, Hà Nội
538. Lương Hữu Minh, giáo viên, TP HCM
539. Le Van Hiep, sinh viên, TP HCM
540. Thích Nguyên Hùng, nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy Phật pháp, Pháp
541. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư, Khánh Hòa
542. Nguyễn Anh Tuấn, kỹ sư, Hà Nội
543. Đặng Hoàng Hậu, chuyên viên, Cần Thơ
544. Nguyễn Ngọc Hưng, IT, Nam Định
545. Võ Công Tường, công dân, Hà Tĩnh
546. Nguyễn Ngọc Sơn, nhà giáo, nhà báo, Hà Nội
547. Tran Van Thuan, CHLB Đức
548. Trần Anh Đức, kỹ sư, Hà Nội
549. Lê Vạn Tùng, Đăk Lăk
550. Nghiêm Phong, hưu trí, Hà Nội
551. Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
552. Nguyễn Đức Quỳnh, kinh doanh, TP HCM
553. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, TP HCM
554. Lê Phụng, cán bộ Quân đội, TP HCM
555. Trần Hữu Đức, bác sĩ thú y, kinh doanh, Hà Tĩnh
556. Pham Mai Ly, student, Thụy Điển
557. Tô Hoài Nam, công nhân, Nha Trang
558. Nguyễn Bảo Lâm, kiến trúc sư, Đại học Kiến trúc Hà Nội
559. Tran Phuc Thong, cán bộ nghiên cứu Viện Khoa học Kỹ thuật Bưu điện, đã nghỉ hưu, thương binh 3/4 thời chống Pháp, Hà Nội
560. Trần Hưng Bình, chuyên gia hệ thống, Singapore
561. Nguyễn Đức Nam, kỹ thuật viên IT, Thanh Hóa
562. Ngô Mạnh Hùng, kỹ sư, Hưng Yên
563. Đặng Quốc Trọng, sinh viên, Bình Dương
564. Lê Đình Thôi, kỹ sư, Thừa Thiên Huế
565. Lê Chí Thành, sinh viên, Hà Nội
566. Tinh Phan MSc, BEng, CEng, MIET Senior Design Engineer, Anh
567. Đỗ Vân Anh, giáo viên, Hà Nội
568. Trịnh Quốc Việt, Hà Nội
569. Tống Văn Linh, kỹ sư, Thái Bình
570. Truong Bich Phuong, nhân viên, TP HCM
571. Ngô Minh, nhà thơ, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Huế
572. Trí Tài, nhân viên, TP HCM
573. Lương Đức Hùng, kỹ sư, TP HCM
Đợt 4:
574. Trần Hữu Tá, PGS TS, TP HCM
575. Vũ Quang Việt, TS, nguyên chuyên gia kinh tế Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ
576. Nguyễn Tuấn Long, kinh doanh, Hà Nam
577. Đào Hữu Nghĩa Nhân, kỹ sư, TP HCM
578. Lương Đức Hùng, kỹ sư, TP HCM
579. Nguyễn Bá Dũng, kỹ sư, Hà Nội
580. Cao Thanh, du học sinh, Đài Loan
581. Đặng Hữu Tuấn, giáo viên, Bắc Giang
582. Lê Văn Quảng, Ba Lan
583. Hồ Thanh, họa sĩ, TP HCM
584. Nguyễn Văn Vinh, hưu trí, Hà Nội
585. Nguyễn Thị Ngọc Hà, giáo viên, Lào Cai
586. Van Dinh Nguyen, huu trí, CHLB Đức
587. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
588. Nguyễn Thị Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
589. Nguyễn Đình Trị, bác sĩ, TP HCM
590. Lê Đức Quang, TS, giảng viên, Đại học Huế
591. Nguyễn Đăng Nghiệp, giáo viên, TP HCM
592. Nguyen Viet, CHLB Đức
593. Huỳnh Thái Học, kỹ sư, Nha Trang
594. Phan Tấn Huy, kế toán, TP HCM
595. Hoàng Minh Tường, nhà văn, Hà Nội
596. Nguyễn Duy Việt, Hải Phòng
597. Đinh Xuân Duyệt, kỹ sư đã hưu trí, Hà Nội
598. Nguyễn Văn Duyên, kỹ sư, Hà Nam
599. Nguyễn Văn Diện, Đại úy về hưu, 40 năm tuổi đảng, Hà Nam
600. Lê Thị Là, nông dân, Hà Nam
601. Nguyễn Thị Luyến, nông dân, Hà Nam
602. Nguyễn Văn Duy, công nhân, Hà Nam
603. Kim Ngọc Cương, chuyên viên chính, đã nghỉ hưu, Hà Nội
604. Nguyễn Trọng Phú, nhân viên Hyundai Heavy Industries, Hàn Quốc
605. Nguyen Van Nghiem, nguyên giảng viên Đại học Giao thông Vận tải, Hà Nội
606. Nguyễn Hữu Thao, cựu quân nhân F289, Bộ Tư lệnh Công binh, Bulgaria
607. Ngô Cao Chi, kỹ sư điện tử, Hoa Kỳ
608. Đức Nhân, Đà Nẵng
609. Đặng Ngọc Quang, Đống Đa, Hà Nội
610. Hoàng Quý Thân, PGS TS, Hà nội
611. Nguyễn Văn Viễn, Hà Nội
612. Nguyễn Văn Hải, Hải Phòng
613. Trương Tấn Hồng Phúc, du học sinh tại Australia
614. Nguyễn Văn Kinh (Sơn Hà), cựu chiến binh chống Nhật, Pháp, Mỹ, lão thành Cách mạng, Hà Nội
615. Nguyễn Minh Hùng, công nhân, CHLB Đức
616. Nguyễn Văn Dũng, kỹ sư xây dựng, Đồng Nai
617. Trần Thị Xuân, bác sĩ, Hà Nội
618. Phạm Quang Nam, tư vấn tự do, Hà Nội
619. Nguyễn Thị Liên, Nghệ An
620. Từ Anh Tú, thợ sơn, Bắc Giang
621. Trần Thanh Trúc, Bà Rịa - Vũng Tàu
622. Nguyễn Minh Quân, kỹ sư, Quảng Ninh
623. Hoàng Thúc Tấn, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội
624. Hồ Văn Khuynh, nông dân, Đắk Nông
625. Trần Nam, sinh viên, Hà Nội
626. Lê Hồng Quang, cựu sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, TP HCM
627. Nguyễn Văn Tâm, công dân, TP HCM
628. Trần Quý Huy, cán bộ hưu trí, Hà Nội
629. Ypen Bing, dân tộc Mnông Rlam, tỉnh Dăk Lăk
630. Thanh-Nhan Le, hành nghề tự do, CHLB Đức
631. Bùi Thị Minh Hằng, dân oan, Vũng Tàu
632. Nguyễn Cảnh Hoàn, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt vùng Mansfeld - Südharz, Bang Sachsen Anhalt, Lutherstadt Eisleben, CHLB Đức
633. Bùi Đình Giáp, kỹ sư, Hải Phòng
634. Đỗ Thành Long, giáo viên, TP HCM
635. Bùi Văn Bồng, Đại tá, nhà báo, Hà Nội
636. Lê Huy Hải, kỹ sư, Vũng Tàu
637. Trịnh Minh Hiếu, sĩ quan quân đội, đảng viên, Thanh Hóa
638. Nguyễn Phú Hải, Hà Nội
639. Nguyễn Văn Tòng, nhà giáo về hưu, Đà Lạt
640. Nguyễn Thanh Phong, giảng viên, An Giang
641. Nguyễn Thị Thanh Mai, Giám đốc công ty tư nhân, Hà Nội
642. Phạm Văn Hải, kỹ sư, Software Developer, Nha Trang
643. Nguyễn Viết Lầu, giảng viên đại học, hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam, đã nghỉ hưu, Hà Nội
644. Hoàng Hoàng Mai, Hà Lan
645. Lương Bảo Duy, sinh viên, TP HCM
646. Trần Tấn Thiện, sinh viên, Đà Nẵng
647. Trần Tú Phương, lập trình viên, cử nhân, TP HCM
648. Nguyen Manh Hung, công nhân, Hoa Kỳ
649. Huynh Vince, công nghệ thông tin, Hoa Kỳ
650. Phan Bùi Anh Tài, kĩ sư, Hà Nội
651. Mai Phúc Anh, nhạc công, Cần Thơ
652. Trần Liễu Châu, doanh nhân, CHLB Đức
653. Ngô Đắc Lợi, nhạc sĩ, Cần Thơ
654. Lê Thị Hoàng Lan, nội trợ, Cần Thơ
655. Vu Quang, PGS TS, nhà nghiên cứu sư phạm, đã nghỉ hưu, Hà Nội
656. Nguyễn Kim Thái, công dân Việt Nam, Vũng Tàu
657. Nguyễn Quang Phái, TS, đã nghỉ hưu, Hà Nội
658. Lê Tấn Đức, phụ trách Thương mại, Văn phòng Đại diện Johs, Rieckermann tại Việt Nam, TP HCM
659. Lê Bảo, chứng khoán, TP HCM
660. Lê Viết Bình, TS, hưu trí, TP HCM
661. Nguyen Van Binh, kỹ sư, TP HCM
662. Phạm Minh Châu, GS TS, Đại học Paris 7, Pháp
663. Phạm Xuân Huyên, GS TS, Đại học Paris 7, Pháp
664. Phạm Hạc Yên-Thư, TS, Trưởng phòng Dược, Bệnh viện Orsay, Pháp
665. Nguyễn Quốc Vũ, IT, Cộng hòa Czech
666. Theresa Lê Hằng, sinh viên, Hà Nội
667. Nguyễn Trường Việt Linh, sinh viên, Hà Nội
668. Phạm Sơn Toàn, sinh viên, Hà Nội
669. Nguyễn Tiến Nam, kinh doanh tự do, Hà Nội
670. Nguyễn Minh Mẫn, kĩ sư, về hưu, Canada
671. Nguyễn Thị Nguyệt Nga, hưu trí, Canada
672. Nguyễn Quang Bình Tuy, bác sĩ, TP HCM
673. Lý Tiến Đạt, sinh viên, TP HCM
674. Nguyễn Hữu Úy, TS, kỹ sư, Hoa Kỳ
675. Sỹ Nguyễn, Hoa Kỳ
676. Hoàng Trung Mạnh, nguyên cán bộ khoa Triết học trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nguyên bí thư Chi bộ trường Đại học tổng hợp Humboldt 1992-1993, Pháp
677. Lương Đình Cường, Tổng Biên tập Báo điện tử NguoiViet.de, CHLB Đức
678. Lưu Thùy Linh, luật sư, Hà Nội
679. Nguyễn-Khoa Thái Anh, nhà giáo, Hoa Kỳ
680. Trịnh Xuân Tài, kỹ sư, Hà Nội
681. Nguyen Ngoan, kỹ sư, Thụy Sĩ
682. Nguyễn Sỹ Phương, Dr, CHLB Đức
683. Chu Văn Keng, Cử nhân, CHLB Đức
684. Pham Chan, Phần Lan
685. Nguyen Quang Tuyen, nghệ sĩ thị giác, Hoa Kỳ
686. Đỗ Quyên, du học sinh, Canada
687. Nguyễn Thị Phượng, nhân viên ngân hàng, CHLB Đức
688. Vũ Manh Hùng, cựu giảng viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - Thương mại, Hà Nội
689. Vũ Văn Hùng,  cựu giáo viên, Hà Nội
690. Phan Văn Hùng, cựu giáo viên, Hà Nội
691. Phạm Văn Tiến, kỹ sư, Hải Phòng
692. Hoàng Dương Tuấn, giáo sư Đại học Công nghệ Sydney, Australia
693. Nguyễn Hữu Việt, nghề nghiệp tự do, Hà Nội
694. Lê Diễn Đức, nhà báo, Hoa Kỳ
695. Trịnh Anh Hùng, kinh doanh, CHLB Đức
696. Đào Quang Huy, doanh nhân, Cộng hòa Czech
697. Le Gia Phong, CHLB Đức
698. Nguyễn Mạnh Đạt, sinh viên, Cộng hòa Czech
699. Bùi Đức Hào, TS, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Người Việt Nam tại Pháp, Pháp
700. Ngô Anh Văn, TS, Đại học Nam California, Hoa Kỳ
701. Nguyễn Việt Bách (bút danh Phan Thành Đạt), hướng dẫn viên du lịch, sinh viên, Pháp
702. Kiệt Nguyễn, Hoa Kỳ
703. Lê Thị Phương Hoa, Đà Nẵng
704. Nguyễn Quyền, công dân Việt Nam, CHLB Đức
705. Trần Ngọc Châu, kinh doanh, Anh Quốc
706. Ngụy Hữu Tâm, TS, cán bộ nghiên cứu vật lý tại Viện Khoa học Việt Nam, đã về hưu, Hà Nội
707. Le Huu Chinh, cư sĩ Phật giáo Hòa Hảo, Canada
708. Đỗ Ngọc Quỳnh, TS, nhà giáo Đại học Cần Thơ, đã nghỉ hưu, TP HCM
709. Phạm Tiến Quốc, TP HCM
710. Le Anh Phong, công nhân, Canada
711. Hoàng Đức, nhà báo, Quảng Trị
712. Đỗ Tiến Trung, Hải Phòng
713. Lưu Gia Lạc, thợ tiện, TP HCM
714. Thế Dũng, nhà văn, nhà thơ, CHLB Đức
715. Chu Văn, cử nhân, CHLB Đức
716. Phan Đăng Khoa, nhà báo, Hà Nội
717. Nguyễn Ngọc Trân, nhân viên thiết kế game, TP HCM
718. Nhanh Van Truong, Trung úy, cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa của miền Nam trước 1975, Hoa Kỳ
719. Ngô Thanh Tú, hướng dẫn viên và viết báo tự do, Khánh Hòa
720. Nguyễn Ngọc Biên, kỹ sư, Hà Nội
721. Hung Huynh, Hoa Kỳ
722. Phạm Tuyên, bác sĩ, TP HCM
723. Tran Hang Nga, GS, Hoa Kỳ
724. Mai Nhật Đăng, học sinh, Nhật Bản
725. Đàm Huy Hoàng, nông dân, Hưng Yên
726. Hoàng Nghĩa Thắng, kỹ sư, Nghệ An
727. Đặng Chương Ngạn, viết văn, TP HCM
728. Nguyễn Nữ Phương Dung, sinh viên, TP HCM
729. Hoàng Huyền Trang, sinh viên, Hà Nội
730. Hồ Thị Hòa, thạc sĩ, TP HCM
731. Nguyễn Sỹ Vinh, kỹ sư, Nghệ An
732. Nguyễn Chinh, Hà Nội
733. Hoàng Văn Lạc, cử nhân, Bình Thuận
734. Trần Thị Hoa, giáo viên, TP HCM
735. Nguyen Quang Tan, giáo viên, TP HCM
736. Trần Tiễn Cao Đăng, nhà văn, dịch giả, trí thức tự do, Hà Nội
737. Nguyễn Văn Thanh, cử nhân, TP HCM
738. Đỗ Minh Tuấn, nhà thơ, đạo diễn, Hà Nội
739. Bùi Phan Thiên Giang, chuyên viên, TP HCM
740. Nguyên Văn Hùng, công chức, Bắc Giang
741. Nguyễn Thị Phương Thảo, kế toán, Hà Nội
742. Nguyễn Đức Nam, du học sinh, Hàn Quốc
743. Đỗ Khắc Chiến, hưu trí, Hà Nội
744. Nguyễn Thị Ánh Hiền, biên phiên dịch, TP HCM
745. Nguyễn Trần Quyên Quyên, Senior Account Officer, TP HCM
746. Nguyễn Việt Cường, kỹ sư, Bà Rịa - Vũng Tàu
747. Nguyen Ha Tinh, hành nghề tự do, Hoa Kỳ
748. Lê Mạnh Hà, bất động sản, Hải Phòng
749. Trịnh Xuân Dũng, thạc sĩ, kỹ sư điện, Đồng Nai
750. Nguyễn Xuân Mạnh, kỹ sư, TP HCM
751. Nguyễn Thị Mai Phượng, Hà Nội
752. Nguyễn Thị Quỳnh Như, sinh viên, Đồng Nai
753. Phan Văn Hiến, PGS TS, nhà giáo, Hà Nội
754. Trần Thị Anh, cán bộ, Hà Nội
755. Đỗ Hoàng Điệp, kỹ sư, Hà Nội
756. Trần Thị Thu Hương, kế toán, Hà Nội
757. Hoàng Thị Ngọc, kiến trúc sư, Hà Nội
758. Phạm Đức Chính, nhân viên văn phòng, TP HCM
759. Trần Thanh Bình, kỹ sư, Hà Nội
760. Nguyễn Thạch Cương, TS, Hà Nội
761. Hà Chí Hải, buôn bán, Hà Nội
762. Trần Đình Quân, cử nhân, Quảng Trị
763. Jo - Trần, kinh doanh, Hà Nội
764. Lê Thành Tài, kỹ sư, Vũng Tàu
765. Vu Khac Luong, Đại học Y Hà Nội
766. Phạm Văn Giang, cử nhân, Hà Nội
767. Lê Huỳnh Hữu Hạnh, sinh viên, TP HCM
768. Nguyễn Thanh Hiền, công nhân, Đồng Tháp
769. Phạm Hải Hồ, TS, biên soạn sách, dịch thuật, CHLB Đức
770. Lê Xuân Mười, chuyên viên kinh doanh xuất nhập khẩu, TP HCM
771. Lê Văn Hiệu, kỹ sư, TP HCM
772. Trần Trọng Khánh, kỹ thuật viên, Hà Nội
773. Trương Minh Tịnh, Giám đốc Công ty TithacoPty LTD, Australia
774. Nguyễn Quốc Khánh, kỹ sư, TP HCM
775. Trần Nguyễn Bảo Châu, sinh viên, Hoa Kỳ
776. Hồ Xuân Anh, Nghệ An
777. Đỗ Quý, thạc sĩ, Australia
778. Trần Tâm Thương, Quảng Ninh
779. Doãn Hữu Phồn, Bà Rịa - Vũng Tàu
780. Bùi Văn Bông, cán bộ về hưu, Đà Nẵng
781. Đinh Anh Tú, học sinh, TP HCM
782. Dinh Van Hien, bác sĩ, Dong Nai
783. Trần Xuân Sơn, đồ họa, Hà Nội
784. Phạm Anh Chiến, kỹ sư, Hà Nội
785. Nguyễn Ngọc Lưu, nhà giáo ưu tú, hưu trí, TP HCM
786. Trương Quang Chế, nguyên Phó Chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Cần Thơ
787. Đinh Nguyễn Thanh Hùng, TP HCM
788. Tran Ngoc Thanh, Hà Nội
789. Nguyễn Quý Kiên, kỹ thuật viên, Hà Nội
790. Nguyễn Ngọc Hiếu, kinh doanh tự do, Hà Nội
791. Nguyễn Văn Báu, kỹ sư, Hà Nội
792. Phan Phước Toàn, cử nhân, TP HCM
793. Huỳnh Thục Vy, blogger, Đaklak
794. Lê Khánh Duy, Đaklak
795. Nguyễn Tiến Tài, nhà giáo hưu trí, Hà Nội
796. Trịnh Duy, nhân viên hỗ trợ kỹ thuật, Philippines
797. Phạm Thanh Lâm, kỹ sư, Đan Mạch
798. Nguyễn Minh Chính, Hà Nội
799. Nguyễn Hữu Tuyến, kỹ sư hưu trí, TP CHM
800. Hoan Bùi, cựu sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa của miền Nam trước 1975, Hoa Kỳ
801. Nguyễn Văn Bảo, học sinh, TP HCM
802. Nguyễn Hồng Điệp, TP HCM
803. Nguyễn Kỳ Hưng, Curtin University, Australia
804. Hoàng Thúc Cảnh, nguyên cố vấn Văn phòng chính phủ, Hà Nội
805. Huỳnh Thúc Cẩn, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, hưu trí, cựu cố vấn quân sự chính phủ cách mạng Lào, Hà Nội
806. Nguyễn Thị Xuân Mai, hưu trí, Hà Nội
807. Lê Đăng Tuấn, lao động tự do, Đồng Nai
808. Đỗ Thịnh, TS, hưu trí, Hà Nội
809. Nguyễn Duy Linh, doanh nhân, Huế
810. Hồ Thanh Hùng, kỹ sư, TP HCM
811. Nguyễn An Liên, công nhân, Đà Nẵng
812. Nguyễn Duy Thịnh, cử nhân, TP HCM
813. Lê Đ. Quang, kinh doanh, Hoa Kỳ
814. Nguyễn Hữu Minh, dược sĩ, TP HCM
815. Đoàn Nguyên Hồng, kỹ sư hồi hưu, Australia
816. Xà Quế Châu, đầu bếp, TP HCM
817. Trần Thị Vân Lương, nội trợ, Hà Nội
818. Phạm Thùy Linh, sinh viên, Hà Nội
819. Phạm Văn Nhiên, công nhân, Hà Nội
820. Nguyễn Sơn Phong, Vũng Tàu
821. Diệp Bảo Tuấn, Nha Trang
822. Trần Quốc Hiệp, công dân, Hà Nội
823. Ngô Hoàng Hưng, kinh doanh, TP HCM
824. Huynh Van Que, nguyen Hiệu trưởng trường cấp 2, 3 Phú Lộc, Thừa Thiên Huế
825. Nguyễn Tiến Đạt, Chủ tịch Liên đoàn Sinh viên Công giáo Việt Nam, Hà Nội
826. Phan Xuan Trinh, công nhân hưu trí, Hoa Kỳ
827. Đạt Nguyễn, TS, La Trobe University, Australia
828. Hồ Sĩ Hải, kỹ sư, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội
829. Nguyễn Thanh Xuân, công nghệ thông tin, TP HCM
830. Nguyễn Đức Quyết, kỹ sư, CHLB Đức
831. Đào Quang Khải, Viện Toán học, Hà Nội
832. Đoàn Văn Chung, thạc sĩ, Hà Nội
833. Nguyễn Hoài Nam, kinh doanh, Thanh Hóa
834. Trần Văn Thọ, GS, Đại học Waseda, Nhật Bản
835. Nguyễn Thanh Tùng, chuyên viên văn phòng, TP HCM
836. Lê Tự Bình, công dân Việt Nam, Hà Nội
837. Mai Phương Tú, người dân, Hà Nội
838. Hoàng Thị Thiên Nga, TP HCM
839. Lê Minh Hiếu, cử nhân, TP HCM
840. Nguyễn Hoàng Bá, nhà báo, Nha Trang
841. Đỗ Lê Hoàng, kỹ sư, Hải Phòng
842. Lê Bá Diễm Chi (tức Song Chi), đạo diễn phim, nhà báo độc lập, Na Uy
843. Nguyễn Nhụy, TS, Đại học Quốc gia Hà Nội
844. Ngô Thế Hiền, hưu trí, Hà Nội
845. Nguyễn Hồng Phi, họa sĩ, Thái Lan
846. Huỳnh Thị Minh Bài, thương binh, đã nghỉ hưu, Bình Định
847. Nguyễn Thanh Lịch, công dân Việt Nam, Khánh Hòa
848. Trịnh Hiệp, kỹ sư, Hà Nội
Đợt 5:
849. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên thành viên Viện IDS, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Tuổi trẻ, TP HCM
850. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên cán bộ phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ Thành phố Đà Lạt, TP HCM
851. Nguyễn Văn Chương, đã về hưu, Bỉ
852. Thạch Quang Hải, Hà Nội
853. Trương Long Điền, công chức hưu trí, An Giang
854. Lê Thúy, Ba Lan
855. Nguyễn Đức Nhuận, GS TSKH, nguyên Giám đốc Trung tâm phát triển SEDET (Université Paris 7/CNRS) hưu trí, Pháp
856. Phan Thị Phi Phi, GS TSKH, bác sĩ, hưu trí, trường Đại học Y Hà Nội
857. Phạm Quang Long, linh mục Giáo phận Vinh, Nghệ An
858. Hoang Hoa, hành nghề tự do, hưu trí, CHLB Đức
859. Trần Bích Thủy, hưu trí, Pháp
860. Nguyễn Thịnh, cử nhân, TP HCM
861. Bùi Bình Thuận, cán bộ hưu trí, Hà Nội
862. Trịnh Hồng Kỳ, nghề nghiệp tự do, TP HCM
863. Lương Linh Hoạt, cựu chiến binh, TP HCM
864. Phạm Hữu Nghệ, cựu chiến binh, thương binh, TP HCM
865. Vũ Công Hưng, giáo viên, Thái Bình
866. Nguyễn Hữu Chuyên, giáo viên, Thái Bình
867. Nguyễn Văn Hiền, công nhân, Quảng Ngãi
868. Phạm Đức Tuấn, công nhân, TP HCM
869. Mai Phương Bắc, kỹ sư, Hà Nội
870. Nguyễn Đăng Bảy, kỹ sư, Đà Lạt
871. Nguyễn Vũ, kỹ sư, hành nghề tự do, TP HCM
872. Nguyễn Văn Dương, người làm công, Hà Nội
873. Lê Thị Lam Quỳnh, học sinh, Bình Phước
874. Nguyền Tấn Lộc, kỹ sư, Khánh Hòa
875. Vi Nhân Nghĩa, kỹ sư, Quảng Ninh
876. Nguyễn Thành Trung, sinh viên, Hà Nội
877. Trần Tiến Nam, giáo viên, Phú Thọ
878. Đặng Trường Lưu, họa sĩ, nhà phê bình Mỹ thuật, Hà Nội
879. Nguyễn Phương Tùng, PGS TS, TP HCM
880. Nguyễn Hoàng Phú, nhân viên, Đồng Nai
881. Dương Văn Minh, kỹ sư, Hà Nội
882. Tong Hoang Anh, hưu trí, Nha Trang
883. Huỳnh Thế Nhân, thạc sĩ, Pleiku
884. Nguyễn Xuân Khoa, TS, Nghệ An
885. Lê Văn Kiệt, kinh doanh, Quảng Trị
886. Nguyễn Hồng Quân, kỹ sư, Cần Thơ
887. Vũ Trọng Khải, PGS TS, TP HCM
888. Trần Thạch Linh, họa sĩ, Hà Nội
889. Phạm Đông Hải, kỹ sư, TP HCM
890. Đào Hữu Thuận, kỹ sư, TP HCM
891. Nguyễn Đức Tường, giảng viên đại học, Thái Nguyên
892. Lê Hồng Nhung, sinh viên, Hà Nội
893. Vũ Thuần, lão thành cách mạng, Hà Nội
894. Trần Đức Quế, hưu trí, Hà Nội
895. Phùng Hồ Hải, TS, Viện Toán học, Hà Nội
896. Đặng Tiến Hồng, thạc sĩ, hưu trí, Hà Nội
897. Nguyễn Trọng Huấn, kiến trúc sư, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Kiến trúc và Đời sống, TP HCM
898. Võ Anh Thơ, họa sĩ, TP HCM
899. Trần Anh Chương, kỹ sư, Đài Loan
900. Huỳnh Công Can, sinh viên, TP HCM
901. Bùi Trung Tín, cCử nhân, cán bộ giáo dục, TP HCM
902. Hoàng Văn Minh, Hà Nội
903. Truong Vinh Phuc, cử nhân, cựu chiến binh, Hà Nội
904. Lê Hữu Tuấn, cử nhân, Hưng Yên
905. Nguyễn Đức Sắc, Hà Nội
906. Nguyễn Thúy Hạnh, Hà Nội
907. Nguyễn Quang Ánh, Hà Nội
908. Phạm Minh Hoàng, nguyên giảng viên Đại học Bách Khoa TPHCM
909. Đỗ Văn Đông, Nam Định
910. Nguyễn Bình Phương, cử nhân, Hà Nội
911. Trần Phong Thái, TP HCM
912. Vũ Công Đoàn, kiến trúc sư, Hà Nội
913. Nguyễn Minh Thiên, kỹ sư, Kon Tum
914. Nguyễn Thị Huần, bộ đội chuyển ngành, hiện đang đi đòi lại đất, tài sản, nhà cửa, chế độ bệnh binh và công tác, Vĩnh Phúc
915. Phạm Ngọc Luật, nguyên Phó Giám đốc Nhà xuất bản Văn hoá - thông tin, Hà Nội
916. Vũ Vân Sơn, phiên dịch, biên dịch cho Toà án và công chứng bang, CHLB Đức
917. Nguyễn Thị Thái Hiền, họa sĩ, TP HCM
918. Lưu Trần Đình Tùng, học sinh, Đà Nẵng
919. Võ Việt Nam, Nga
920. Bùi Minh Sơn, hưu trí, hơn 40 năm tuổi Đảng, Hà Nội
921. Mai Sơn, nhà văn, dịch giả, TP HCM
922. Ðặng Văn Ba, TS, nguyên Giám đốc Bộ Tin học, Tổ chức Quốc tế Viễn thông (I.T.U), Geneva, Thụy Sĩ
923. Bui Quang Trung, kỹ sư, Pháp
924. Lê An Vi, Hà Nội
925. Lê Mi, thạc sĩ, Bulgaria
926. Dương Tuấn Anh, Hải Phòng
927. Tran Hong Van, nghiên cứu viên, đã nghỉ hưu, Hà Nội
928. Phạm Bách Việt, đạo Diễn, Thủ Đức
929. Lê Anh Cường, kỹ sư, Hà Nội
930. Nguyễn Văn Tân, kỹ sư, Hoa Kỳ
931. Nguyễn Công Sơn, công nhân, Phần Lan
932. Khoa Vo, kỹ sư, Hoa Kỳ
933. Nguyễn Trần Vũ, TP HCM
934. Nguyen Gia Quoc, cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa của miền Nam trước 1975, Hoa Kỳ
935. Nguyễn Hoàng Minh Đức, sinh viên, TP HCM
936. Vũ Đức Khanh, luật sư, Canada
937. Nguyễn Ngọc Hùng, TS, CHLB Đức
938. Nguyễn Tường Minh, kỹ sư, Hoa Kỳ
939. Nguyễn Ngọc Thạch, hưu trí, TP HCM
940. Tran Thi Ngoc Minh, Lâm Đồng
941. Lê Huy Quang, Ba Lan
942. Nguyễn Xuân Trường, sinh viên MBA, The University of Missouri, Hoa Kỳ
943. Lê Thiết Thành, TSKH, Hoa Kỳ
944. Hoàng Ngọc Bội, hưu trí, Vũng Tàu
945. Lê Thị Cúc Hoa, nhân viên văn phòng, TP HCM
946. Trần Văn Thạnh, thạc sĩ, Hoa Kỳ
947. Phạm Toàn Thắng, doanh nghiệp, Cộng hòa Czech
948. Đỗ Thái Bình, kỹ sư, Ủy viên thường vụ Ban Chấp hành Hội Khoa học Kỹ thuật Biển, TP HCM
949. Lê Hồng Hà, công nhân, Hoa Kỳ
950. Pham Van Thanh, an ninh tư, Pháp
951. Hoa Khuu, Hoa Kỳ
952. Tôn Đức Hải, kỹ sư, Hà Tĩnh
953. Lê Ngọc Anh, kỹ sư, Hà Nội
954. Nguyễn Năng Tĩnh, giảng viên, Vinh
955. Michael Chu, thương gia, Australia
956. Đinh Hoàng Giang, doanh nhân, Hải Phòng
957. Dương Văn Minh, Đồng Nai
958. Phạm Văn Hưng, kỹ sư, Hà Nội
959. Nguyen Anh Tam, kỹ sư, Project manager, Canada
960. Lê Trọng Tính, kinh doanh, Thanh Hóa
961. Vu Nguyen, Programmer Analyst, Hoa Kỳ
962. Đỗ Anh Pháo, cử nhân, cán bộ quản lý doanh nghiệp, đã nghỉ hưu, Hà Nội
963. Nguyễn Văn Viên, Hà Nội
964. Phạm Quốc Trung, TS, giảng viên đại học, TP HCM
965. Nguyễn Cao Phong, nông dân, Hà Nội
966. Nguyễn Ngọc An, sinh viên, Vĩnh Long
967. Trần Hoài Nam, cử nhân, TP HCM
968. Tran Thanh Duc, TS, hưu trí, Hoa Kỳ
969. Hoàng Hiếu Minh, kỹ sư, Hà Nội
970. Văn Nhân Linh, cử nhân, Quảng Trị
971. Giáp Hoàng Long, kỹ sư, Bắc Giang
972. Đỗ Quang Tuyến, kỹ sư, Hoa Kỳ
973. Trần Văn Ninh, giáo viên, Phú Yên
974. Vũ Huyến, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Nhiếp Ảnh, Hà Nội
975. Đỗ Hải Minh, sinh viên, CHLB Đức
976. Đỗ Trường Sơn, học sinh, Hà Nội
977. Đỗ Văn Bình, thương binh, Phú Thọ
978. Đỗ Mạnh Chương, kỹ sư, Hà Nội
979. Hà Văn Cường, giáo viên, Phú Thọ
980. Đỗ Văn Tụng, công nhân, Hà Nội
981. Cao Xuân Tùng, kỹ sư, Hà Nội
982. Nguyễn Văn Sơn, cử nhân, Hà Nội
983. Nguyễn Đỗ Quyên, kỹ sư, Đà Nẵng
984. Trịnh Minh Quang, cử nhân, Đà Nẵng
985. Đỗ Văn Thành, công nhân, Hà Nội
986. Nguyễn Chí Dũng, kỹ sư, TP HCM
987. Hàn Quang Vinh, kỹ sư, Hà Nội
988. Trần Văn Thiện, kỹ sư, Hà Nội
989. Nguyễn Đức Thành, nông dân, Hà Nội
990. Nguyễn Hồng Quy, sinh viên, TP HCM
991. Nguyen Minh Hong, Pháp
992. Nguyễn Văn Lịch, TP HCM
993. Trần Đỗ Vũ, sinh viên, TP HCM
994. Nguyễn Hoàng Anh, Bắc Giang
995. Lê Văn Oánh, kỹ sư, Hà Nội
996. Nghiêm Sĩ Cường, kinh doanh, Hà Nội
997. Trần Cảnh, TS, nguyên cán bộ giảng dạy Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, đã nghỉ hưu, Hà Nội
998. Nguyễn Thành Tuân, giáo viên, Quảng Bình
999. Võ Duy Quân, sinh viên, TP HCM
1000. Đặng Thị Hoàng Hà, thạc sĩ, Hà Nội
1001. Vũ Tuấn Minh, thạc sĩ, Hà Nội
1002. Nguyễn Hoàng Long, công dân Việt Nam, TP HCM
1003. Bùi Kim Nhung, cán bộ hưu trí, TP HCM
1004. Nguyen Duc Truong Giang, giáo viên, Hà Nam
1005. Lê Bích Nhu, kỹ sư, Hà Nội
1006. Nguyễn Hữu Thanh, công nhân, TP HCM
1007. Võ Văn Tịnh, doanh nhân, Bình Thuận
1008. Quách Đăng Triều, nguyên Đại biểu Quốc hội khóa X, nguyên Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội
1009. Nguyễn Huy Thành, giáo viên, Phú Thọ
1010. Trần Hoàn, kỹ sư, Đà Nẵng
1011. Nguyễn Thúy, Hà Nội
1012. Vũ Ngọc Duy, kỹ sư hàng hải, TP HCM
1013. Trần Quốc Thịnh, sinh viên, TP HCM 
1014. Nguyễn Xuân Tính, linh mục quản xứ Lập Thạch, Giáo phận Vinh, Nghệ An
1015. Lê Phiến, nông dân, Nghệ An
1016. Nguyen Thanh Danh, TP HCM
1017. Nguyễn Đức Lân, thạc sĩ, Hà Nội
1018. Nguyễn Ngọc Hải, nhân viên ngân hàng, Hải Dương
1019. Nguyễn Văn Thuận, chủ doanh nghiệp, Hoa Kỳ
1020. Cao Chi, GS, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, hưu trí, Hà Nội
1021. Hà Văn Trọng, nguyên là đạo diến điện ảnh Hãng Phim truyện 1 Việt Nam, nghệ sĩ ưu tú sân khấu Nhà hát Kịch Việt Nam, Hà Nội
1022. Văn Ngọc Tâm, cán bộ nghỉ hưu, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, huy hiệu 30 năm tuổi Đảng, đã từ bỏ sinh hoạt Đảng, TP HCM
1023. Đinh Quang Tuyến,hướng dân viên du lịch, TP HCM
1024. Hồ Trọng Đễ, kỹ sư, TP HCM
1025. Nguyễn Ly Kha, kinh doanh, TP HCM
1026. Nguyễn Quang Trung, thợ tiện, IT, Nghệ An
1027. Trần Đắc Lộc, cựu giảng viên Đại học Khoa học Huế, CH Czech
1028. Nguyen Ngoc, hưu trí, TP HCM
1029. Nguyễn Ngọc Anh, công nghệ thông tin, Quảng Nam
1030. Mai Xuân Tín, sinh viên, Nha Trang
1031. Nguyễn Hùng, nhân viên IT, Quảng Nam
1032. Lê Thu Quỳnh, sinh viên, Hà Nội
1033. Nguyễn Tấn Lạc, Hoa Kỳ
1034. Uông Minh Phương, kỹ sư, Australia
1035. Nguyễn Đức Duy, TP HCM




Copy từ: Bauxite Việt Nam