CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

Liệu sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị ở Việt Nam?

Phạm Chí Dũng gửi RFA 2013-08-11

Nhóm nhân sĩ trí thức khởi xướng kiến nghị 72 và dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013
Nhóm nhân sĩ trí thức khởi xướng kiến nghị 72 và dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013
RFA files
Bài tham luận "Liệu sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị ở Việt Nam?" của Tiến Sĩ Kinh tế Phạm Chí Dũng, một cây bút thường xuyên của RFA, dưới đây được đọc trong Cuộc hội thảo Hè năm 2013 tại Singapore với chủ đề "Cải cách ở Việt Nam đang đi về đâu?" trong hai ngày Thứ Hai 12 và Thứ Ba 13 tháng 8 2013..


Những người cùng thời

Cùng với bối cảnh suy thoái kinh tế trầm kha và nhiều tiền đề cho khủng hoảng xã hội ở Việt Nam từ năm 2011 đến nay, vấn đề chủ quyền biển đảo và những đòi hỏi về dân chủ, nhân quyền đang được những người trong phong trào dân chủ ở Việt Nam áp sát hơn hẳn so với những năm trước.

Một sự kiện chưa từng có trong lịch sử thể chế đương đại là vào đầu năm 2013, một nhóm nhân sĩ, trí thức mang tinh thần phản biện yêu nước, còn gọi là nhóm “Kiến nghị 72”, đã nêu ra các khuyến nghị và khuyến cáo đối với đảng và chính quyền về các quyền lập hội, biểu tình, trưng cầu dân ý và cả về sự thay đổi phải có của điều 4 trong hiến pháp.

Hoạt động không chỉ mang tính lời nói như thế đang phản ánh bầu tâm tư rất nặng lòng của không chỉ công dân đối với chế độ, mà còn là tình cảm mong muốn một sự thay đổi tốt đẹp hơn, hoặc ít ra cũng đỡ xấu hơn, xuất phát từ chính những cán bộ lão thành, đảng viên và cả một bộ phận công chức, viên chức đương nhiệm.

Như một quy luật, phản biện không thể thiếu đất sống ở những nơi mà mầm non bị vùi dập. 

Xuất phát chỉ với một hành trang hạn hẹp, nhưng đến đầu năm 2012, cùng với hành động nổi dậy của người nông dân Đoàn Văn Vươn, giới blogger lề dân đã tạo cho mình được một tài sản đáng giá là truyền thông xã hội. Trong suốt năm 2012, bất chấp nhiều áp lực chính trị, một số blogger vẫn làm được những việc có ích cho xã hội, đặc biệt hỗ trợ quyền lợi chính đáng của dân oan đòi đất và dấy lên không khí về chủ quyền biển đảo. Cho đến đầu năm 2013, sau chuyến đi Roma của người đứng đầu đảng Nguyễn Phú Trọng, điều có vẻ ngẫu nhiên là một số cơ quan quản lý nhà nước về thông tin và cả một số lãnh đạo cao cấp của đảng đã phải thừa nhận thế đứng của giới truyền thông xã hội, về độ thông tin nhanh nhạy mà hoàn toàn có thể cạnh tranh và còn vượt hơn cả báo chí nhà nước.
Như một quy luật, phản biện không thể thiếu đất sống ở những nơi mà mầm non bị vùi dập. Xuất phát chỉ với một hành trang hạn hẹp, nhưng đến đầu năm 2012, cùng với hành động nổi dậy của người nông dân Đoàn Văn Vươn, giới blogger lề dân đã tạo cho mình được một tài sản đáng giá là truyền thông xã hội
Với những gì mà giới truyền thông xã hội đã gây ấn tượng và tích tụ cho đến ngày hôm nay, đó là cái gì, nếu không phải là một tiền đề đầu tiên và cực kỳ quan trọng cho một mẫu hình nào đó cho xã hội dân sự trong tương lai ở Việt Nam?

Sự tự do tương đối cho tới nay của giới truyền thông xã hội đã tạo nên một chân đứng đầu tiên về thông tin cho xã hội dân sự ở Việt Nam. Quan trọng hơn, chân đứng này còn đang được nối kết ngày càng mật thiết với giới truyền thông quốc tế. Nhiều vấn đề về an ninh biển Đông, an sinh xã hội, mâu thuẫn và xung đột mang tính xã hội, những chủ đề chính trị như sửa đổi hiến pháp và điều 4 độc đảng, dân chủ và nhân quyền, tự do tôn giáo… đã được nhiều báo nước ngoài trích dẫn và bình luận từ tin tức của giới truyền thông xã hội trong nước.

Ba giai đoạn trong trung hạn

Một cách thông thường và diễn ra theo kịch bản trì trệ mà không xảy ra một biến động đủ mạnh và đủ lớn ứng với một cuộc suy thoái nặng nề hoặc khủng hoảng kinh tế, nền chính trị vẫn kéo dài sự tồn tại của nó, còn những nguyện vọng đòi hỏi dân chủ hơn của các nhóm phản biện xã hội vẫn chỉ có thể đạt được một tầm mức không đủ cao. Sự phản ánh chân thực của báo chí nhà nước cũng vì thế sẽ chưa thể hiện được đúng với khả năng còn tiền ẩn và bầu tâm huyết của nó.

Nhưng nếu nền kinh tế bị sói mòn trầm trọng và kéo theo những biến động xã hội đủ mạnh, đó lại là điều kiện và sự gieo mầm cho các ý tưởng và hành động phản biện. Mức độ thăng trầm của xã hội và chính trị càng lớn, quy luật tất yếu là phản biện sẽ càng gia tăng sức ép của nó đối với thể chế.
Anh Đoàn Văn Vươn tại phiên xử ở Tòa án Hải Phòng hôm 2 tháng 4 năm 2013. RFA screen capture
Anh Đoàn Văn Vươn tại phiên xử ở Tòa án Hải Phòng hôm 2 tháng 4 năm 2013. RFA screen capture

Cũng có một quy luật chính trị - xã hội khác: trong bối cảnh nội bộ thể chế không thuận hòa và phát sinh nhiều mâu thuẫn - có thể là mâu thuẫn giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm lợi ích, nhóm thân hữu với nhau, đó là một điều kiện quan trọng để hoạt động phản biện phát triển, không chỉ bằng hoạt động thông tin và bình luận trên mạng, mà còn có thể hình thành những tổ chức sinh hoạt công khai theo đường lối ôn hòa. Nhóm “Kiến nghị 72” với nhiều nhân sĩ, trí thức đầu đàn là một minh chứng và một phương pháp luận như thế.
Hiện thời và trong thời gian tới, một lực lượng trí thức có tính độc lập, hay nói khác hơn là mang tính trung lập, có thể là cần thiết, với mục đích tạo nên một độ mở dân chủ nào đó cho khuôn mặt của chế độ, cũng là nhân tố có thể mang lại thiện cảm với các tổ chức và quốc gia trên thế giới
Trong cách nhìn của một bộ phận lãnh đạo đảng và chính quyền, hiện thời và trong thời gian tới, một lực lượng trí thức có tính độc lập, hay nói khác hơn là mang tính trung lập, có thể là cần thiết, với mục đích tạo nên một độ mở dân chủ nào đó cho khuôn mặt của chế độ, cũng là nhân tố có thể mang lại thiện cảm với các tổ chức và quốc gia trên thế giới quan tâm đến vấn đề dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự ở Việt Nam.

Phản biện xã hội và phong trào phản biện của giới nhân sĩ, trí thức cũng có thể tương tác và tương ứng với những ưu thế mới trong tình hình mới. Và đó cũng là một điều kiện nữa để hoạt động phản biện có thể tiến xa hơn một bước: hình thành các nhóm công khai với sinh hoạt theo phương châm ôn hòa, bất bạo động.

Nếu cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra vào những năm 2016-2017, thời gian từ nay đến đó sẽ có thể được xem là quãng đường trung hạn trong 3-4 năm. Quãng đường đó có thể phải trải qua 3 giai đoạn:

1/ Giai đoạn thứ nhất: giải quyết những vấn đề gay cấn trong nội bộ và tạm kết thúc với thế cục chính trị nghiêng hẳn về một quan điểm và một nhóm chính khách nào đó. Trong giai đoạn này, nền kinh tế tạm phục hồi, chưa lộ ra những xung đột khủng hoảng và những phản ứng xã hội mang tính đối kháng. Hoạt động phản biện xã hội cũng có điều kiện để phát triển về lượng và chất, về mối liên kết chiều rộng và cả chiều sâu. Giai đoạn này có thể kéo dài từ giữa năm 2013 đến giữa năm 2015.

2/ Giai đoạn thứ hai: hành xử mang tính “hồi tố” của chính thể và nhóm chính khách chiếm ưu thế đối với những tiếng nói và hành động bị xem là đối lập, đối kháng và đi quá xa. Phong trao phản biện tạm lắng. Giai đoạn này có thể trùng với một cuộc suy thoái kép hoặc khủng hoảng kinh tế nổ ra trên thế giới, bắt nguồn từ Trung Quốc. Kinh tế Việt Nam cũng chìm sâu vào vòng xoáy khủng hoảng và bùng nổ nhiều xung đột về kinh tế và xã hội. Giai đoạn này có thể diễn ra từ giữa năm 2015 đến giữa hoặc cuối năm 2017.

3/ Giai đoạn thứ ba: khi tất cả cùng cộng hưởng ở một điểm: kinh tế, xã hội và cả chính trị mất kiểm soát, không phải bởi các lực lượng phản biện của trí thức, mà do phản ứng sống còn của chính người dân trước làn sóng suy thoái kinh tế kinh niên hoặc khủng hoảng kinh tế, tước đoạt những nỗ lực tồn tại cuối cùng của đời sống dân sinh. Khủng hoảng kinh tế càng trầm trọng, tính chất và quy mô phản ứng xã hội càng ghê gớm, có thể dẫn đến một sự thay đổi về chân đứng, thậm chí về bản chất nền chính trị của chế độ. Đây là giai đoạn mà phong trào phản biện xã hội mang tính ôn hòa sẽ thăng hoa. Giai đoạn này sẽ diễn ra nhanh chóng hơn hai giai đoạn trước, có thể vào nửa cuối năm 2017 và kéo sang năm 2018.

Dù không có nhiều kỳ vọng từ kết quả của cuộc gặp Obama – Sang, nhưng tình thế đã có một chuyển biến nhỏ và có thể hy vọng sẽ dẫn tới những chuyển biến lớn hơn. Nhà nước VN sau một thời gian dài im lặng, đang dần chấp nhận quan điểm phản biện về nhân quyền và dân chủ của người Mỹ và các tổ chức quốc tế

Giai đoạn thứ ba lại khiến xã hội Việt Nam sẽ phải trải qua một giai đoạn hệ quả tiếp nối, từ năm 2017-2018 trở đi, với quá trình ma sát thô và tương tác giữa các lực lượng chính trị cũ và mới, trước khi tiến tới một sự ổn định mới về chính trị và xã hội, phục hồi kinh tế. Giai đoạn tiếp theo này rất khó xác định về thời gian diễn biến, nhưng ít nhất phải mất 4-5 năm.

Tổng thống Hoa Kỳ Barak Obama tiếp Chủ tịch Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng hôm 25/07/2013.
Tổng thống Hoa Kỳ Barak Obama tiếp Chủ tịch Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng hôm 25/07/2013. AFP

Với mỗi giai đoạn trên, xã hội dân sự ở Việt Nam đều có thể đạt được những bước tiến triển mong muốn, nếu những người thực hiện nó đủ chuyên cần, đoàn kết và sáng tạo.

Phản biện xã hội những năm tháng cận cảnh

Ngay trước mắt, điều mà đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam gọi là “cơ hội lịch sử” cho chuyến đi của ông Trương Tấn Sang đến Washington vào tháng 7/2013 cũng lại là một cơ hội khác cho hoạt động phản biện độc lập ở Việt Nam.

Dù không có nhiều kỳ vọng từ kết quả của cuộc gặp Obama – Sang, nhưng tình thế đã có một chuyển biến nhỏ và có thể hy vọng sẽ dẫn tới những chuyển biến lớn hơn. Nhà nước Việt Nam sau một thời gian dài im lặng, đang dần chấp nhận quan điểm phản biện về nhân quyền và dân chủ của người Mỹ và các tổ chức quốc tế, nhưng tất nhiên có tính điều kiện.

Nhưng cùng với những điều kiện song hành giữa kinh tế, chính trị và cả quân sự, trong vài năm tới lối mở cho dân chủ, nhân quyền và không khí phản biện ở Việt Nam sẽ rộng đường hơn. Phản biện và những hoạt động có tính tổ chức của nó sẽ có thể được công khai hóa trong một chừng mực và phạm vi nào đó.

Ngay từ bây giờ, đang rất cần đến một sự kết nối có tính thành tâm, hữu dụng và bài bản giữa các nhóm trí thức kiều bào Việt Nam ở nước ngoài với trí thức trong nước, không chỉ dừng ở tính chất đơn lẻ, mà nhằm xây dựng một phong trào phản biện chặt chẽ và có chiều sâu, với hàng loạt chủ đề thiết thân như:

- Bảo vệ chủ quyền biển đảo, hạn chế sự phụ thuộc của nền kinh tế và chính trị Việt Nam vào Trung Quốc.
- Phản biện chống tham nhũng và các nhóm lợi ích, nhóm thân hữu.
- Bảo vệ quyền lợi của nông dân trước hành vi trưng thu đất đai bất hợp pháp và vô lối.
- Phản biện đối với chủ đề sở hữu trong Luật đất đai và cơ chế thu hồi đất đối với các dự án kinh tế - xã hội.
- Bảo vệ quyền lợi của công nhân và thị dân về điều kiện làm việc và an sinh xã hội.
- Đấu tranh chống tác động tiêu cực của một số doanh nghiệp đối với môi trường tự nhiên.
Loạn lạc là đường cùng của nhân dân, và đường cùng của dân chúng lại rất thường là đường cùng của chế độ. Đó cũng là một bài học nhãn tiền cho những chính khách đương thời và những nhà quản lý xã hội trong tương lai
- Phản biện đối với một số vấn đề kinh tế gay gắt như nợ công quốc gia; nợ và nợ xấu; tính độc quyền của kinh tế quốc doanh và một số tập đoàn; ngân hàng; các thị trường đầu cơ như vàng, bất động sản; những ngành có liên quan mật thiết đến người tiêu dùng như điện, xăng dầu, nước…
- Thúc đẩy Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình, Luật lập hội, Luật trưng cầu dân ý.
- Thúc đẩy tiếng nói của trí thức độc lập tại Quốc hội.
- Thúc đẩy tính hợp hiến và hợp pháp hóa của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo.
- Phản biện đối với các điều luật chính trị hóa hành vi phản phản biện như điều 79, 87, 88, 258 trong Bộ luật hình sự.
- Phản biện đối với điều kiện giam giữ phạm nhân trong các trại giam.
- Hỗ trợ tinh thần và vật chất cho các gia đình có người bị giam giữ, liên quan đến yếu tố chính trị.
- Phản biện với chính những tiếng nói phản biện thiếu tinh thần xây dựng và đoàn kết.

Tương lai từ xã hội dân sự

Loạn lạc là đường cùng của nhân dân, và đường cùng của dân chúng lại rất thường là đường cùng của chế độ. Đó cũng là một bài học nhãn tiền cho những chính khách đương thời và những nhà quản lý xã hội trong tương lai.

Một trong những giải pháp tốt đẹp nhất cho xã hội Việt Nam trong tương lai chỉ có thể đến từ xã hội dân sự.

Song song với các mục tiêu ngắn hạn, những nhóm nhân sĩ và trí thức trong nước và ngoài nước cần phối hợp tiến hành nghiên cứu một đề án về xã hội dân sự Việt Nam trong tương lai, cho 15-20 năm tới, nhưng những tiền đề của mô hình xã hội dân sự ấy có thể được ứng dụng ngay trong 4-5 năm tới, nếu các điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội cho phép.

Việc kêu gọi các tổ chức quốc tế về nhân quyền và dân chủ hỗ trợ cho đề án về xã hội dân sự là rất cần thiết.

Cuộc hành trình của phản biện xã hội và xã hội dân sự ở Việt Nam trong ít nhất 20 năm tới không chỉ là một sự thay đổi về tương quan kinh tế - chính trị, mà còn là một cuộc cách mạng về văn hóa và dân trí cho các tầng lớp nhân dân.

Thay đổi của xã hội cũng là hệ quả cho phản biện và cơ hội cho dân chủ. Phong trào phản biện dân chủ và những điều kiện cho một xã hội dân sự ở Việt Nam đang nằm trong xu thế và lộ trình trung hạn có thể trong giai đoạn 2013-2017, và nếu được tổ chức tốt, phong trào này có thể góp sức cho xã hội về những triển vọng lạc quan trong tương lai dài hạn của dân tộc.
Xã hội dân sự có thể làm cái điều mà một chính thể hiện thời không làm được: phục hồi và nâng cấp chất liệu văn hóa và nhân cách cho cả một dân tộc.


TS Phạm Chí Dũng


Copy từ: RFA

Trang Ba Sàm bàn về Nghị định 72 - (Phần 3)

Đọc thêm:

 + Trang Ba Sàm bàn về Nghị định 72 – (Phần 1)

 +  Trang Ba Sàm bàn về Nghị định 72 – (Phần 2) 



Xin bàn tiếp về Nghị định 72:

Điều 5. Các hành vi bị cấm. Khoản 1. Lợi dụng việc cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích: … e) Giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”

So với  NĐ97 mà NĐ72 này thay thế, thì khoản (e) bị cấm nói trên là hoàn toàn mới. Tuy nhiên, dù những hành vi bị cấm được nêu lên có vẻ nghiêm trọng như vậy, nhưng lại chỉ gói gọn trong một đoạn văn được sắp xếp và trình bày khó hiểu, với những khái niệm không được làm rõ trong Điều 3 Giải thích từ ngữ. Vậy xin được đưa ra vài thắc mắc cụ thể, hầu giúp cơ quan soạn thảo có thể làm rõ trong một thông tư hướng dẫn nào đó.
+ Thế nào là “giả mạo tổ chức”, “giả mạo cá nhân”? Có lẽ đó là hành vi lập trang web, blog mang danh một con người, tổ chức khác không phải là mình, là tổ chức của mình? Có điều, nếu chỉ như vậy thì không dễ bị quy cho là “giả mạo”, bởi trên mạng, người ta có thể “ẩn danh” hoặc dùng “bí danh”, tức là đặt cho trang của mình một cái tên, tên này đương nhiên có thể trùng với tên của ai đó, tổ chức nào đó. Như vậy, yếu tố để bị coi là “giả mạo” dường như phải là trùng tên của một nhân vật, một tổ chức cụ thể mà nhiều người đã biết tiếng tăm, ví dụ như các nghệ sĩ có tiếng, các “hot girl”, “hot boy” (như “Bà Tưng”, “Running Man” chẳng hạn), các lãnh đạo nhà nước v.v..

+ Nhưng như vậy vẫn chưa đủ yếu tố để “buộc tội”, mà cần phải có thêm những thông tin về nhân vật, tổ chức bị “mạo danh” trên trang web, blog đó thì người đọc mới có thể bị “lừa”. Có lẽ vấn đề nằm ở câu tiếp theo: “và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”

Thế là lại nảy sinh thêm rắc rối thứ hai cho điều khoản “e”, sau rắc rối về khái niệm “giả mạo tổ chức”, “giả mạo cá nhân”, là “thông tin giả mạo”. Bởi vì “thông tin sai sự thật” thì đã rõ trong rất nhiều văn bản pháp quy, thế nhưng “thông tin giả mạo” thì … hơi bị khó xác định, trong khi tại Điều 3 Giải thích từ ngữ cũng lại không có khái niệm độc đáo này.
+ Vẫn chưa hết sự mù mờ! Đó là liệu việc chỉ “giả mạo tổ chức”, “giả mạo cá nhân” không thôi là đã “cấu thành” một “tội” theo khoản “e” chưa, hay là phải có cả hành vi “phát tán thông tin giả mạo” nữa? Hay là còn phải có cả yếu tố “xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp …” nữa thì mới thành “tội”? Cách hành văn trong khoản “e” không giải đáp được những câu hỏi đó. 

Có lẽ không riêng gì người viết lời bình này thấy mù mờ, mà ngay cả ông Thứ trưởng Bộ 4T Lê Nam Thắng, lẫn tòa báo VietnamNet cũng không hơn gì, khi trong một bài báo có cái tựa rất rõ ràngNghị định 72 sẽ xử nghiêm các trang tin mạo danh”, nhưng rồi cày xới hết cả bài mà chẳng thấy rõ hơn điều gì. Không thấy ông Thứ trưởng giải thích cho những khái niệm được cho là mù mờ ở trên, hay ít ra là lấy ví dụ một vài trang tin nào đó bị cho là “mạo danh”, “giả mạo” (bởi thường là “luật” phải đi từ thực tế cuộc sống mà, tức là có hiện tượng rồi thì đưa ra chế tài để xử lý). Cũng không thấy nhà báo nào đặt những câu hỏi liên quan cho ông Thứ trưởng. 

Vậy thực tế cuộc sống đã từng có các trang tin mạo danh - “giả mạo tổ chức”, “giả mạo cá nhân” hay chưa, để mà NĐ72 đã được mau mắn bổ sung một điều cấm quan trọng đó? Xin được hẹn trong lời bình tiếp theo, cũng đồng thời để tìm giải pháp cho tình trạng dường như sẽ có hàng loạt các vị lãnh đạo cao cấp nhất bị NĐ72 “hỏi thăm” trước tiên, do đang hiện hữu trên mạng mấy năm nay các trang tin cá nhân, các blog “hoành tráng” mang họ tên, chức vụ của mình rành rành, với nội dung rất dễ bị cho là của riêng mình, nhưng lại đang thực hiện hành vi bị NĐ72 không cho phép, đó là “cung cấp thông tin tổng hợp”

Copy từ: Ba Sàm
http://basam.info/2013/08/12/tin-thu-hai-12-08-2013/ 


............

Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh…


Lê Hiếu Đằng
Thời gian vừa qua, có dịp vào Sài Gòn, được tin ông Lê Hiếu Đằng phải cấp cứu ở BV Bình dân, tôi và bạn bè đã đến thăm ông. Chúng tôi nhìn nhau khôn xiết bồi hồi. Sờ bàn chân ông thấy có hiện tượng phù nhẹ, nhưng trông khuôn mặt thì vẫn rất linh lợi, nhất là ánh mắt sáng láng, vẫn ngời lên cái khát vọng tha thiết về tương lai dân chủ hóa cho đất nước. Vài ngày sau tôi nhận được điện của ông, giọng rõ từng tiếng: “Thưa anh HC, tôi đã ra viện, đã trở về với đội ngũ. Sẽ sớm có bài viết tính sổ đời mình gửi đến anh”. Bồi hồi sung sướng, tôi vâng lên một tiếng thật to ở đầu dây bên này, và từ đó cứ chờ đợi bài ông.
Thì hôm nay, bỗng nhận được bài viết dưới đây trong e-mail với lời gửi gắm kèm thêm nói qua điện thoại: “Anh sửa chính tả thật kỹ giúp tôi, bởi đối với một người vừa qua cơn bệnh hiểm nghèo có thể viết còn nhiều lỗi. Nhưng toàn bộ những ý tưởng trong bài là của tôi, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm”.
Tôi xin vâng theo lời ông. Chợt nhớ tới câu châm ngôn mà chính nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã từng nhắc: “Nhân chi tương tử kỳ ngôn dã thiện”. Người bạn của tôi trong những ngày vừa qua cũng coi như đã một lần xáp mặt với cái chết và may mắn giải thoát khỏi nó, nên những lời ông nói ra là tất cả những gì tâm huyết ông muốn gửi gắm cho đồng bạn và cho lớp trẻ đang tiếp bước mình. Những lời vừa có tính chất ôn lại chuyện cũ để chiêm nghiệm sự đời cho sâu chín hơn, đồng thời cũng là sự kết đọng trong nó một lời tuyên ngôn chắc nịch về con đường nhất thiết phải đi để đưa dân tộc thoát khỏi số phận một chàng Sisyphe suốt đời phải đẩy khối đá khổng lồ chồng trên lưng mình như một định mệnh – mà một thời vẫn cứ mê muội ngỡ đó là trách nhiệm và vinh quang do lịch sử giao phó “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa” – nhưng ở thời điểm hiện tại thì sự quá tải trên mọi phương diện của một cái ách cực kỳ phi lý hầu như bất kỳ ai cũng cảm nhận được rõ ràng. Và câu nói âm thầm từ muôn miệng hình như đang cùng muốn thốt lên: Hãy hất nó xuống khe vực để đứng thẳng dậy, sánh bước cùng nhân loại văn minh.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Nguyễn Huệ Chi

Sau hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, với 45 tuổi Đảng, những trải nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa trong phong trào học sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng, thôi thúc tôi phải “thanh toán”, “tính sổ” lại tất cả. Trong lúc nằm bịnh tôi đọc quyển Chuyện nghề của Thủy của đạo diễn Trần Văn Thủy, các truyện của các nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Trần Dần và qua ti vi xem các chuyến đi thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm Hàn Quốc, Myanma (Miến Điện) lại càng giục giã tôi viết những dòng này. Các nhà văn đã cho tôi thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở Miền Bắc, một xã hội không có bóng người. Chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang không có những nghi thức cao nhất của một nguyên thủ quốc gia hay chuyến đi thăm Hàn Quốc, Myanma của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nếu đem so sánh các chuyến đi thăm Trung Quốc của các vị thì không khí hoàn toàn khác nhau. Một bên thì khô cứng, lạnh lùng của một nước lớn đầy tham vọng, một bên là không khí cởi mở, vui vẻ bình đẳng. Không biết các nhà lãnh đạo của ĐCS Việt Nam với lòng tự trọng dân tộc có “mở mắt” thấy điều đó không? Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi vì công bằng mà nói anh không thể “mở lòng” với một nước mà thái độ không rõ ràng, bất nhất.

Tất cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở nước ngoài làm tôi suy nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh càng khẳng định với tôi một điều: con đường mà tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con đường tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công bằng tự do dân chủ. Ở đó con người sống với nhau một cách tử tế, thật sự được giải phóng từ người nô lệ thành người làm chủ của đất nước. Tôi ngày càng hiểu sâu sắc từ “GIẢI PHÓNG” không có nghĩa như ngày nay người ta thường dùng mà là sự thoát xác thật sự làm người tự do dù cho người cai trị là da trắng hay da vàng, thậm chí điều đau khổ, bi thảm nhất là hệ thống cai trị chính là người của dân tộc đó, là Việt Nam, là Trung Quốc, v.v. Nếu hiểu từ giải phóng theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất đồng tình với nhận xét của nhiều nhà báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc, trong đó có nhà báo Huy Đức trong cuốn Bên thắng cuộc mới đây. Thật sự là Miền Nam đã giải phóng Miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực nhất là kinh tế, văn hóa, tư tưởng… Vì những lẽ trên tôi xin “tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới.

1. Vì sao tôi đi kháng chiến, vào ĐCS Việt Nam?

Vào thế kỷ trước, chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS đã làm say mê biết bao trí thức, văn nghệ sĩ ở các nước, nhất là ở nước Pháp, cái nôi của khuynh hướng xã hội, dân chủ mà cả thời kỳ ánh sáng với các tên tuổi như Montesquieux, Voltaire, Jean Jacquess Rousseaux, v.v. với khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình đẳng. Chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS chẳng những lôi cuốn, làm say mê nhiều thế hệ trí thức phương Tây mà ở Việt Nam cũng vậy. Những tri thức văn nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng như Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Thế Lữ, v.v. hay những tri thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM mà đi vào chiến khu chứ họ ít hoặc chưa biết chủ nghĩa Marx là gì, CNXH ra sao, nhưng họ hy vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ xã hội, tự do, hạnh phúc mà trong tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp năm 1946 ông HCM đã trịnh trọng cam kết trước toàn dân trước Ba Đình lịch sử. 

Lòng yêu nước, lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy mọi người tham gia Cách mạng tháng 8 và sau đó đi kháng chiến. Bạn bè tôi và bản thân tôi cũng thôi thúc bởi những tình cảm đó: lòng yêu nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ cho Tổ quốc để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân, nông dân, người lao động, những người hy sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc sống ấm no, hạnh phúc đã thôi thúc chúng tôi lên đường. 

Tôi vào Đảng cũng rất đơn giản: năm 1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) phụ trách đơn tuyến tôi, hẹn tôi gặp nhau ở một chùa trên đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3-2) để sinh hoạt. Anh Nguyễn Ngọc Phương nghiêm mặt tuyên bố: “Đ/c Bắc Sơn (bí danh của tôi lúc đó), đ/c từ nay là Đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng (thực chất là Đảng Lao động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi). Lẽ ra tôi đưa điều lệ để đồng chí nghiên cứu nhưng đ/c là người hoạt động công khai trong Ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn và ĐH Luật Khoa nên tôi bây giờ mới phổ biến một số điều trong điều lệ để đ/c biết”. Một buổi kết nạp chẳng có lời thề thốt, cờ quạt gì cả. Anh Nguyễn Ngọc Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu, là người lớn lên trong một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi tiếng Bảo Quốc. Thật ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết tôi đã từng tham gia phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó nghĩ tôi là thành viên của Đoàn TN nhân dân Cách mạng Miền Nam. Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Hoàng Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzsche của Nguyễn Đồng Thi Hiền còn trai trẻ trước 1945 nên gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều, đậu hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình thứ. Những ngày ba tôi đến đón tôi ra thi ông đã đi qua cánh đồng An Cựu trong giá lạnh. Tôi không thể nào quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ Người đã mất nhưng tôi không bao giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi thành người trưởng thành pha một chút ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở. Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?

Trong thời gian đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm văn nghệ tôi thường hát bài “Tình quê hương” thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan Thọ, lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn. Gia đình của người phụ trách lao Thừa Phủ đứng trên bức tường có đường đi bao quanh nhà tù để xem. Đúng là cái máu lãng mạng của đám Sinh viên học sinh chúng tôi lúc đó ngay trong tù cũng nổi dậy đùng đùng và có cô con gái rất thích bài đó. Lý Thiện Sanh đùa “Nó khoái mày rồi đó”. 

Về anh Nguyễn Ngọc Phương – người phụ trách tôi sau này bị địch bắt, đã hy sinh trong tù năm 1973. Năm ngoái, nhân ngày giỗ anh, tôi có kể lại việc mỗi lần sinh hoạt với tôi xong anh đề nghị tôi hát bài “Trăng mờ bên suối” của Hoàng Nguyên. Hát xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng ủy sinh viên mà sao thích bài hát ướt át quá vậy?”. Anh cười buồn và nói: “Chúng ta chiến đấu xét đến cùng là vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất hay về con người thì sao mình không thích được!”. Nghe anh tôi càng cảm phục người đ/c phụ trách tôi và hôm giỗ anh tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối” để cúng anh. Sau đó, chị Cao Thị Quế Hương có vẻ trách tôi vì cho rằng anh Phương không thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn và im lặng.

Tôi đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…

2. Vấn đề đa nguyên, đa đảng

Có thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học ở trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin mà tôi hiểu được có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó. Sau một thời gian dài Đảng và nhà nước Việt Nam nhận chìm các tầng lớp nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam dưới chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi ngược lại tất cả quy luật tự nhiên, cop-py mô hình kinh tế của Liên bang Xô viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng đói kém rên xiết. Các đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia đình, làm dòng người vượt biên ngày càng nhiều và biết bao gia đình phải chết tức tưởi trên biển. Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu Luật, người đã cùng tôi vào chiến khu và đã hy sinh vào ngày 11.10.1968 tại căn cứ Ban tuyên huấn T.Ư cục Miền Nam cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần Quang Long sau trận bom ác liệt của F105 của Mỹ. Hoặc bị bọn cướp biển hãm hiếp làm nhục trước mặt chồng con. Có thể nói tất cả điều đó là tội ác của Đảng và Nhà nước Việt Nam, không thể nói khác được.

Trước sự rên xiết của người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và suy nghĩ đã chủ trương phải đổi mới kinh tế bằng cách phải chấp nhận kinh tế có nhiều thành phần trong đó có kinh tế cá thể. Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau thì tất yếu họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Đó là quy luật tất yếu vì vậy không thể không đa nguyên đa đảng được và như vậy điều 4 Hiến Pháp hiện nay là vô nghĩa. Trước sau gì các vị lãnh đạo của ĐCS phải chấp nhận thách thức này: các Đảng, tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với ĐCS trong các cuộc bầu cử hợp pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như hiện nay Campuchia đã làm. 

Tôi thách bất cứ ai trong Bộ chính trị, Ban bí thư, trong ban Tuyên huấn của Đảng mà đứng đầu là ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban, vừa là Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương trả lời luôn một cách công khai, minh bạch với chúng tôi trên các diễn đàn mà không chơi trò “bỏ bóng đá người” như đã từng thường sử dụng hiện nay. Thực tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã tập hợp được những khuynh hướng có chủ trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí thức tiêu biểu ở trong Nam ngoài Bắc như nhà văn Nguyên Ngọc, các Giáo sư Hoàng Tụy, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm Duy Hiển, những trợ lý Tổng bí thư, Thủ tướng hoặc Đại sứ nhiều thời kỳ như ông Trần Đức Nguyên, Việt Phương, Nguyễn Trung, v.v. Các nhà kinh tế có uy tín lớn như Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ trí thức kỳ cựu như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Quốc Thái, và các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một thời kỳ lẫy lừng trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975 như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Văn Long (Năm Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập và biết bao con người tâm huyết mặc dầu đời sống kinh tế đã khá giả, có những người là giàu có nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả những tiện nghi của đời sống đã vùng lên sau một giấc ngủ khá dài để chấp nhận mọi rủi ro, nguy hiểm cho bản thân cá nhân mình cũng như gia đình để dấn thân vào cuộc chiến đấu mới để tiếp tục thực hiện lý tưởng thời trai trẻ mà hiện nay đã bị phản bội, chà đạp những lời hứa năm nào trong kháng chiến. Ngoài ra còn cả một lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình bao gồm những blogger, những sinh viên đang có những hoạt động ở các trường Đại học hoặc nhiều tổ chức khác. 

Tình hình trên cộng với thực tế hiện nay tôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng (giấy sinh hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị ĐCS bức tử phải tự giải tán. 

Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này? Chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này, mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta. Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã hội công dân, xã hội dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn cản được. Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay. Chẳng lẽ nhà nước này bắt bỏ tù tất cả chúng ta sao? Chúng ta phải đấu tranh với phương châm công khai, minh bạch, ôn hòa, bất bạo động, phản đối tất cả mọi hành động manh động, bạo lực khiêu khích gây chiến tranh. Như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết đại khái trong bất cứ cuộc chiến tranh nào người thất bại đều là nhân dân. Giờ hành động đã đến. Không chần chừ, do dự được nữa.

3. Vấn đề Độc lập dân chủ, tự do và hạnh phúc

- Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp, đoàn kết thực sự. Nhưng còn độc lập thì sao? Sau khi hy sinh biết bao xương máu, nay Đảng và Nhà nước Việt Nam đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng Trung Quốc, những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta và vào năm 1979 họ đã xua quân tàn sát người dân Lạng Sơn và các tỉnh phía Bắc mà tên Đặng Tiểu Bình xấc xược gọi là dạy cho Việt Nam một bài học. 

Thật ra tổ tiên chúng ta, những tiền nhân thời xa xưa đã cho họ nhiều bài học Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, v.v. Không biết tập đoàn Tập Cận Bình có còn nhớ những bài học đó không? Riêng các vị lãnh đạo ĐCS và Nhà nước Việt Nam thì dường như chưa thấy hết sức mạnh của dân tộc Việt nam nên quá “hiền lành” đối với một nước lớn nhưng rất “tiểu nhân” (chữ nghĩa của các truyện Tàu), miệng thì xoen xoét nói về “bốn tốt mười sáu chữ vàng” trong lúc hành động thực tế là uy hiếp, săn đuổi, bắt bớ một cách vô nhân đạo các ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trong ngư trường truyền thống của mình hoặc hèn hạ cắt đứt cáp các tàu thăm dò dầu khí của chúng ta. Thế mà phản ứng của lãnh đạo Việt Nam thì quá nhu nhược: chỉ là lời phản đối lặp đi lặp lại nghe quá nhàm tai và khó chịu của người phát ngôn viên bộ Ngoại giao. Đến nỗi có những vụ việc lớn càng không dám thực hiện những việc bình thường trong quan hệ quốc tế là triệu tập đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội để trao công hàm phản đối chứ không chỉ là đưa công hàm đến toà đại sứ. Vậy thì độc lập cái gì? Hẳn nhiên là chúng ta không dựa vào nước này chống các nước khác nhưng thực tế quốc tế hiện nay rất thuận lợi để chúng ta liên kết với các nước để đấu tranh với Trung Quốc về Biển Đông. 

Tôi rất mừng nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị Shangri-La chống lại nền chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam. Trả lời phỏng vấn một thiếu tướng Trung Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ ràng đây là cú đấm đích đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế. Tôi càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ đạo nào của Bộ chính trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài viết về vấn đề này đã hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến 5 lần.

4. Vấn đề Dân chủ, tự do và hạnh phúc

Thực chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong thời kỳ kháng chiến hoặc trước 1975 ĐCS VN đã phát động để đấu tranh giành quyền sống. Đây là vấn đề về con người. 

+ Về dân chủ thì đã quá rõ. Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập pháp, hiến pháp, tư pháp độc lập. Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp mới. Sau đó bầu Quốc hội lập pháp để ĐCS sẽ qua bầu cử bình đẳng mà trở thành người lãnh đạo. 

Tôi nghĩ trong một thời gian dài ĐCS sẽ là một lực lượng chính trị mà không có bất cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được. Các nhà lãnh đạo ĐCS cần tự tin điều đó. Dần dần các Đảng đối lập sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm vụ như một kháng thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực lượng đối lập sẽ trở thành một con bệnh SIDA khó trị, chờ chết mà thôi.

+ Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu). Không có tự do thì không thể có khoa học, văn học, nghệ thuật, báo chí… thật sự. Do đó Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền tự do của con người. Đó là vấn đề quyền con người. Nhưng giờ đây chế độ toàn trị đã phản bội tước đoạt tất cả các quyền cơ bản đó, vất bỏ tuyên ngôn nhân quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi nước có hoàn cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng. Họ không biết rằng đó là quyền cơ bản và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế hệ. Đại tá nhà văn Nguyễn Khải đã nói: “khi đọc cuốn Bàn về tự do của Stuart Mil thì vỡ ra nhiều vấn đề”. Vì vậy anh Nguyễn Khãi đã nhìn lại những gì mà anh đã trải nghiệm một cách sâu sắc với một giọng văn nhẹ nhàng không hàm hồ nên rất thuyết phục. Đây là quyển sách đã đi sâu vào tim óc của chế độ mà không thấy các vị “phê bình chỉ điểm” (cách gọi mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội đối với tên Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong việc “bề hội đồng” bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm “Mở miệng”) nào dám phê phán, chửi rủa. 

Các vị lãnh đạo ĐCS tại sao không suy nghĩ trong chế độ thuộc Pháp lại có một thời báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho đến nay chưa có thời kỳ nào có thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự do gấp vạn lần” như bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã nói một cách hàm hồ, thiếu suy nghĩ, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Báo chí thì nở rộ Gia Định báo, Phụ nữ tân văn, Nam Phong, Phong hóa, Ngày nay… với những học giả Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,… Văn học nghệ thuật thì có cả một trào lưu thơ mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi tiếng khác với nhiều bài thơ bất hủ mà đến nay ai cũng thuộc nằm lòng. Về tiểu thuyết thì có nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo… Ngoài ra còn có hàng loạt nhà văn tài hoa khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Lan Khai, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, v.v. Với Thanh Tịnh tôi vẫn nhớ bài “Tôi đi học” trong tập Quê mẹ của ông. “Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức với những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như những đóa hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm đắt tay tôi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại nhiều lần nhưng lần này bỗng nhiên thấy lạ vì hôm nay tôi đi học”. Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc rực rỡ với các tên tuổi như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương… Thế mà Thanh Tịnh và những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nói trên dưới chế độ XHCN ở Miền Bắc chẳng có tác phẩm nào ra hồn. 

Cũng may ra sau 1975, không khí vui vẻ, sum họp của những ngày đầu đã tạo nên trào lưu hứng khởi để nhạc sĩ VĂN CAO làm bài “Mùa xuân đầu tiên” với điệu valse dìu dặt. Nhưng tội nghiệp cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng “Từ đây người biết yêu người, từ đây người biết thương người, từ đây người biết quê người…”, thế mà bài ca này cũng bị cấm hát hết mấy năm. Những năm sau khi vào chơi với Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam ông đã nói lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh chia lìa, vượt biên, đày đọa, tù tội trong đó có người bạn văn chương của các ông đã làm ông buồn bực và tiếp tục uống rượu. Chỉ có một điều an ủi ông là vào Nam, vào Sài Gòn ông nghe mọi người từ trẻ đến già đều hát “Mùa xuân đầu tiên”, “Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”, v.v. của ông. 

Vấn đề là ĐCS VN cần trả lại những gì của lịch sử, của tiền nhân để lại. Việc đổi tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ Văn Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn Đình Chiểu, v.v. là việc làm thiếu suy nghĩ, nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp lên lịch sử, xúc phạm những chiến sĩ tuy không phải là Cộng sản nhưng đã đấu tranh bảo vệ đất nước trong các phong trào Cần Vương, Duy Tân.

Ngay trong lĩnh vực báo chí tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh niên, báo của tổ chức CS làm ngày báo chí VN. Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày số báo đầu tiên của Gia Định báo năm 1865 làm ngày báo chí VN. Năm sau, một số nhà báo cùng chúng tôi sẽ tổ chức ngày báo chí VN vào ngày 15-4. Còn ĐCS và các tổ chức của mình cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không sao. Việc ai nấy làm. Thế thôi. 

Tại Miền Bắc gọi là XHCN khi hòa bình mới lập lại, các văn nghệ sĩ mà đặc biệt đi tiên phong là các nhà thơ, nhà văn quân đội, mà tiêu biểu là Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm,... đã gây chấn động trong vụ Nhân văn Giai phẩm. Có lẽ là những người trực tiếp chiến đấu chứng kiến cảnh chết chóc của nhân dân trong chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục chiến đấu để xây dựng một chế độ xã hội tự do dân chủ và tiến bộ xã hội. Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ giàn trận đấu tranh quyết liệt với Đảng để đòi hỏi tự do sáng tác, đòi hỏi chính trị không được can thiệp vào sáng tác của văn nghệ sĩ. Nhà nước độc tài Đảng trị trong những năm đó thấy đây là nguy cơ đe dọa của chế độ nên đã ra tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một cách không nương tay. Người bị tù với vụ án ngụy tạo như công thần Nguyễn Hữu Đang, người đã làm lễ đài Độc lập năm 1946. Hữu Loan với lòng tự trọng của một người văn nghệ sĩ cương quyết về quê thồ vác đá nuôi vợ con. Ba mẹ vợ anh trong cải cách ruộng đất đã bị chôn sống để trâu bò bừa lên đầu, lên cổ cho đến chết. Một Nguyên Hồng khảng khái bỏ về Yên Thế nuôi heo để kiếm sống. Trần Hữu Đang sau khi ra tù sống những ngày tủi nhục phải góp nhặt bao thuốc lá làm hàng “đối lưu” với ếch nhái, rắn rết của bọn trẻ chung quanh kiếm cho. Năm 1989, tôi gặp Thạc sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp, người đã theo Hồ Chí Minh về nước năm 1946. Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc đó, bị cô lập đến nỗi học trò cũng không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quý để sống qua ngày. Còn nhà triết học Trần Đức Thảo, khi tôi còn làm Phó chủ tịch thường trực MTTQ TP HCM đã mời ông đến nói chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên liền xem có công an theo dõi ông không. Buổi nói chuyện làm mọi người thất vọng vô cùng về ông.

Tôi còn có những kỷ niệm đau đến xé lòng khi còn nằm trong hệ thống chính trị của nhà nước toàn trị. Lúc còn là phó CT/TT MTTQ TP HCM và là đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5. Có mấy việc tôi còn nhớ mãi:

+ ĐCS VN ngày trở thành kiêu binh. Đâu đâu cũng vỗ ngực xưng tên là “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Ngay cả Hội trường của cơ quan dân cử như HĐND TP thế mà chẳng thấy đất nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ thấy một khẩu hiệu to chần dần [to đùng] “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Một số đại biểu trong HĐND trong Đảng cũng như ngoài Đảng thấy chướng mắt nhưng không dám nói. Họ đến nói với tôi. Tôi thông cảm họ. Trong HĐND khóa 5, khi lên phát biểu ở Hội trường tôi trầm giọng nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân dân TP, nhưng tôi không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có ĐCS muôn năm thôi là sao? Đảng chỉ là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ quốc, nhân dân thì làm gì có Đảng. Đảng phải đặt Tổ quốc lên trên hết, vì vậy tôi đề nghị thay đổi khẩu hiệu này bằng câu CHXHCN Việt Nam. Cả hội trường im phăng phắc. Nhưng ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu Đảng đã thay đổi bằng tên nước.

+ Tôi là Trưởng ban VHXH HĐND TP khóa 5. Trong các kỳ họp HĐND TP, các ban có bài thẩm định khá công phu. Phải đi thực tế, làm việc với các ngành và sau đó họp toàn ban để thông qua Trưởng ban là người quyết định cuối cùng. Tôi nhớ trong một kỳ họp, tôi thức suốt đêm sửa chữa, hoàn thiện văn bản để phát biểu trước HĐND. Khi lên phát biểu, nhìn xuống thì không thấy vị Phó CT nào dự, kể cả phó CT phụ trách VNXH. Thấy vậy tôi không đọc mà đề nghị ông Huỳnh Đảm, lúc đó là CT HĐND, cho các thư ký, trợ lý điện gấp cho các Phó CT, nhất là các Phó CT phụ trách VHXH về dự họp. Ban thẩm định chuẩn bị công phu để phân tích những vấn đề, nhất là những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, các vấn đề xã hội khác. Những vấn đề có liên quan thiết yếu đến đời sống nhân dân TP. Khi thấy các Phó CT lục tục về họp tôi mới phát biểu bản thẩm định của Ban. Đây là lần đầu tiên các phóng viên báo chí thấy việc này nên rất khoái. Từ đó, kỳ họp nào các PCT UBND cũng đều có mặt trừ một số PCT có lý do chính đáng. Cái bệnh chỉ coi trọng Đảng, Thành ủy, xem thường HĐND đã vào máu các vị quan chức của chúng ta.

+ Việc thứ ba là cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của Chủ tịch UBND TP Võ Viết Thanh và tôi về việc có nên dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ hay không? Cuộc đấu khẩu gay gắt đến nỗi CT Võ Viết Thanh nói đại ý nếu đ/c Đằng thấy Đảng chật hẹp quá thì xin ra khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó là chuyện mà tôi và anh sẽ nói trong Đảng, còn đây là HĐND. Giữa lúc có nhiều đại biểu đồng ý với tôi, trong đó có Trần Văn Tạo, Ủy viên TVTU, Phó giám đốc Công an TP, Phạm Phương Thảo, Ủy viên TVTU, Phó CT phụ trách VHXH UBND TP thì chủ tọa kỳ họp lại được tin ban Thường vụ Thành ủy họp và đã đồng ý dẹp chợ hoa TP. Tôi cương quyết đề nghị có Nghị quyết về vấn đề này nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua NQ ở HĐND TP. Tuy đấu tranh gay gắt như vậy nhưng đối với anh Võ Viết Thanh tôi vẫn tôn trọng tính trung thực, quyết đoán của anh. 

Lúc đó tôi với tư cách đại biểu HĐND TP có phối hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban quản lý thị trường TP để tố cáo những tiêu cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh Hùng Vương. Phối hợp với cuộc đấu tranh này có anh Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên TV Quận ủy Q.6, Trưởng ban Tuyên huấn Q.6. Thắng cũng là dân phong trào SV. Không hiểu sao sau đó có một văn bản có danh sách 12 người gọi là điệp báo của Cục tình báo TƯ trong đó Nguyễn Văn Thắng nằm ở số 7. Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết mới về làm Phó bí thư thường trực của TƯ. Tôi gặp anh Nguyễn Minh Triết và trình bày với anh về vấn đề thì anh đề nghị tôi không can thiệp nữa vì danh sách đã có dấu đỏ của đặc ủy tình báo TƯ của Mỹ. Trước đó có người biết chuyện ngụy tạo danh sách này và nói danh sách láo được đánh trên giấy Bãi Bằng là giấy chỉ do Cộng sản sau 1975 sản xuất. Anh Nguyễn Minh Triết ghi nhận nhưng Nguyễn Văn Thắng vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng. Lúc ấy Q.6 tính lấy lại nhà của Nguyễn Văn Thắng ở Bà Hom, Q.6. Tôi gặp Chủ tịch Võ Viết Thanh và đề nghị anh xem xét lại vấn đề này thì anh nói với tôi một cách cương quyết: “Chuyện chính trị của Thắng tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo đảm không ai lấy được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại Bà Hom, Q.6 như cũ. Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh. Nhân đó tôi hỏi thăm tại sao anh không đi học Cử nhân, Tiến sĩ như những người khác. Anh cười nói rất Nam Bộ: “Tôi không chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ xin nghỉ làm để đi học thật sự, không như những vị học giả mà bằng thật như hiện nay”. Từ đó quan hệ giữa anh và tôi rất vui vẻ, không còn nhớ gì trận đấu khẩu nảy lửa ở HĐND về vụ chợ hoa Nguyễn Huệ. Sau này anh bị thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển Bên thắng cuộc nhà báo Huy Đức có nêu.

Tôi nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo, tránh né đấu tranh. Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó đi để thực hiện một chủ trương cực kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan Châu Trinh: Khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh.

Cuối cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh toán, tính sổ cuộc đời của mình, trang trải những món nợ còn lại để gửi các vị lãnh đạo Đảng CSVN, để mong các vị “mở mắt” ra mà có sự lựa chọn con đường sống cho dân tộc. Hiện nay xu hướng chạy theo CN Mác-Lênin CNXH đã lạc điệu, không còn phù hợp nữa và đã sụp đổ tan tành ở ngay quê hương Xô Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên thế giới về dân quyền, dân sinh, dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nghĩa là đây là cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người, vì con người chống lại các thế lực phản động đang âm mưu nô dịch nhân dân, phá hoại môi trường vì những lợi ích kinh tế ích kỷ của các tập đoàn, lung đoạn nhà nước.

Tôi không tin lắm về sự tự giác của một số nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước sớm thấy tình hình và xu thế phát triển hiện nay để đặt lợi ích của Đất nước, Tổ quốc lên trên hết mà có một giải pháp hợp lý, không vì lợi ích và sự tồn tại của Đãng, của chế độ mà đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại hiện nay. Tôi quan niệm rằng làm nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là cương quyết đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ, tôn trọng thực hiện những lý tưởng của biết bao thế hệ cha anh chúng ta về một nước VN hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, văn minh và giàu mạnh. Một khi xã hội dân sự, xã hội công dân mạnh lên, đủ sức kìm hãm, ức chế các khuynh hướng độc tài của một nhà nước toàn trị. Trước mắt là phải “chấn dân khí” để không còn sợ hãi các thế lực tàn bạo, không sợ bắt bớ, tù đày. Sau đó là “khai dân trí” và “hậu dân sinh”.

Bài viết nầy cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ, các bạn TNSVHS mà tôi đã quen hoặc mới quen, để khẳng định một điều: với lòng tự trọng của một công dân một nước có lịch sử hào hùng chúng ta phải hành động. Không nên ngồi tranh luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa đứng bên này hay bên kia. Vì thật ra cả một bộ phận loài người trong đó có người VN khát khao với một xã hội tốt đẹp hơn, chống lại cái ác, cái xấu nên đã có thời gian dài nuôi ảo tưởng về ĐCS VN và CNXH. Vấn đề là trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận thức một số vấn đề sống còn của đất nước nhưng hiện nay tình hình trong nước và trên thế giới đã thay đổi, vì vậy chúng ta phải nhận thức lại một số vấn đề trước đây. Nhận thức lại và dấn thân hành động cho cuộc chiến đấu mới. Đừng loay hoay những chuyện đã qua mà làm suy yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy để con cháu chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch sử. Còn chúng ta trước mắt là hành động, hành động và hành động. Điều này tôi nói một lần rồi thôi…

Viết trong những ngày nằm bịnh.

L.H.Đ.

-Nguyên phó TTK Ủy ban TƯ LM các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam
-Nguyên phó CT Ủy ban MTTQ VN TP.HCM (từ 1989-2009)
-Đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5
 ..
Tác giả gửi trực tiếp cho  Bauxite Việt Nam


..................................

Mạng lưới Blogger Việt Nam tiếp xúc với Ủy ban Luật gia Quốc tế

Mạng lưới Blogger Việt Nam - Ủy ban Luật gia Quốc tế (The International Commission of Jurists - ICJ) là tổ chức tập hợp các luật sư, luật gia, thẩm phán, giáo sư đại học chú trọng và dựa vào công pháp quốc tế để bảo vệ những giá trị, tiêu chuẩn phổ quát về nhân quyền. Thứ 6, tháng 8, năm 2014 tại văn phòng của ICJ ở Bangkok, các đại diện của Mạng lưới Blogger Việt Nam gồm Nguyễn Anh Tuấn (Đà Nẵng), Phạm Đoan Trang (Hà Nội), Nguyễn Thảo Chi (Sài Gòn), Nguyễn Lân Thắng (Hà Nội) và Nguyễn Nữ Phương Dung (Sài Gòn) đã đến tiếp xúc với ICJ và trao Tuyên bố 258.
Tiếp đón các bạn blogger là cô Leong Tsu Quin, cố vấn của Ủy ban Luật gia Quốc tế tại Bangkok. 
Trong dịp này, các bạn blogger đã trình bày với đại diện của ICJ về bối cảnh chính trị và tình trạng đàn áp của nhà nước đối với các quyền tự do dân chủ, vi phạm những điều căn bản nhất của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và viễn ảnh tiêu cực cho Việt Nam cũng như uy tín của Liên Hiệp Quốc nếu Việt Nam được chấp nhận trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. 
Bên cạnh việc trình bày mục tiêu và nội dung Tuyên bố 258, dựa vào những lãnh vực và vai trò của ICJ, các blogger đã cung cấp cho cô Leong Tsu Quin nhiều thông tin về các vụ án mà ICJ quan tâm. Đặc biệt, qua các vụ án đã xảy ra, các bạn cũng đã trình bày về các chu trình tư pháp không được đảm bảo, các quyền được hưởng phiên tòa công bằng không được đáp ứng. 
Blogger Phương Dung, Đoan Trang, Nguyễn Anh Tuấn và đại diện của ICJ 
Như lần tiếp xúc với Office of United Nations High Commissioner for Human Rights (OHCHR), Front Line Defenders, Committee to Protect Journalist, Đại sứ quán Hoa Kỳ, Đại sứ quán Thụy Điển, các đại diện của Mạng lưới Blogger Việt Nam cũng đã đề xuất một số kiến nghị trong đó là việc ICJ quan tâm hơn về tình trạng vi phạm những công ước, pháp lý quốc tế, có ý kiến về việc nhà nước Việt Nam đang vận động cho chiếc ghế trong Hội đồng Nhân Quyền nhiệm kỳ 2014-2016. Các blogger cũng đề nghị việc ICJ ra tuyên bố lên án điều 258. 
Cô Leong Tsu Quin đã tiếp nhận Tuyên bố 258 và đánh giá cao việc blogger Việt Nam sang thăm văn phòng ICJ tại Bangkok. Cô cũng đã trình bày các hoạt động mà ICJ đã thực hiện để nâng cao năng lực luật sư nhân quyền VN và cho biết ICJ quan tâm đặc biệt đến việc một số blogger có tên trong tuyên bố như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Phạm Văn Hải đã từng bị tạm giữ chỉ vì đi phân phát bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Cô cho biết ICJ sẽ đưa ra Tuyên bố trong thời gian thích hợp cũng như giúp các blogger Việt Nam gửi Tuyên bố 258 đến các tổ chức có quan hệ với ICJ trên thế giới. 
Đại diện của ICJ - Leong Tsu Quin tiếp nhận 
Tuyên bố 258 từ Blogger Nguyễn Lân Thắng
Hướng về tương lai, đôi bên thống nhất sẽ tiếp tục mối quan hệ để góp phần cùng các cơ quan, tổ chức quốc tế khác tạo áp lực lên nhà nước CHXHCNVN để giải quyết tệ trạng và cải thiện tình trạng nhân quyền ở VN. 
Mạng lưới Blogger Việt Nam sẽ tiếp tục tường trình những buổi tiếp xúc vừa qua với các tổ chức quốc tế khác. 
tuyenbo258@gmail.com

Copy từ: Dân Làm Báo

Trang Ba Sàm bàn về Nghị định 72 (phầm 2)

Xin bàn tiếp về Nghị định 72, phần này nói tới việc từ sự không rõ ràng trong văn bản pháp luật dẫn tới những giải thích tùy tiện của cơ quan quản lý.

Từ văn bản không rõ ràng:

+ Như bình luận hôm qua đã nêu, theo “Điều 3Giải thích từ ngữ” của NĐ72, và cả của Luật công nghệ thông tin thì “trang thông tin điện tử” là các website. Vậy “trang thông tin điện tử cá nhân” đương nhiên là các trang web cá nhân, không phải là các blog, hay mini blog trên Facebook và các mạng xã hội.

+ Thế nhưng ở Điều 20. Phân loại trang thông tin điện tử, khoản 4 lại có thêm một khái niệm mù mờ, rằng “trang thông tin điện tử cá nhân”“trang thông tin điện tử do cá nhân thiết lập hoặc thiết lập thông qua việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội …” Câu này vừa không ổn về ngôn từ (AI “thiết lập thông qua việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội”?) , vừa không rõ loại “trang thông tin cá nhân” trên mạng xã hội là website hay blog. Bởi theo giải thích từ ngữ thì phải là website, nhưng trong thực tế thì trên các mạng xã hội gần như chỉ có các blog mà thôi.

+ Cũng ở Điều 20, khoản 4 nêu “trang thông tin điện tử cá nhân là … không cung cấp thông tin tổng hợp”. Như vậy điều khoản vừa nêu, cũng như 4 khoản khác, nằm trong phần “phân loại”, có thể được hiểu như là một định nghĩa, hoàn toàn không mang ý nghĩa như quy định bắt buộc, nhất là khi nó chỉ có chữ “không”, mà không phải là “không được”, “cấm”, “nghiêm cấm”.

Tới giải thích tùy tiện:

+ Mặc dù từ NĐ72 cho tới Luật công nghệ thông tin đều đã rõ “trang thông tin điện tử cá nhân” là các website, thế nhưng ông Cục trưởng Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử vẫn mặc nhiên coi các blog và mini blog trên Facebook cũng thuộc diện này: Với những trang thông tin cá nhân như blog, Facebook… ông Bảo cho biết …” (VNEconomy, 1/8/2913).

+ Chỉ với chữ “không” mang tính chất “định nghĩa” ở Điều 20 nói trên khi đề cập tới việc gọi là “cung cấp thông tin tổng hợp”, nhưng lại đã được ông Cục trưởng diễn giải thành “không được” – mang tính cấm đoán: “Theo ông Bảo, trang cá nhân không được cung cấp thông tin tổng hợp, bởi như thế thì sẽ thành trang thông tin điện tử tổng hợp.

+ Sự tùy tiện và tự mâu thuẫn thể hiện thêm khi trên Thanh niên có đoạn: “Trả lời báo chí chiều 1.8, ông Hoàng Vĩnh Bảo, Cục trưởng Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử (Bộ TT-TT) cho biết đây là điều khoản được sử dụng để phân loại các loại hình trang TTĐT và không mang ý nghĩa ngăn cấm việc “cung cấp thông tin tổng hợp” của chủ sở hữu trang thông tin cá nhân. “

1 

Cũng lại chính ông Cục trưởng đã “mở lối” một cách rất tùy hứng, rằng không ai cấm trang thông tin cá nhân chia sẻ, nhưng cá nhân chia sẻ thông tin thì phải chỉ dẫn đường link đến cơ quan sản xuất thông tintrang thông tin điện tử cá nhân khi trích một mẩu bài báo, một vấn đề nào đó và dẫn link và hoàn toàn có quyền bình luận nhưng phải chịu trách nhiệm về bình luận ấy.“  (VNEconomy, 1/8/2913). Có nghĩa nếu muốn trích bài báo nào đó, thì chỉ được trích “một mẩu” thôi, thì không bị coi là “thông tin tổng hợp”? Còn ở một đoạn phỏng vấn khác, ông lại nói: Họ có thể copy một đoạn rồi dẫn link, còn copy cả bài thì không được …” (VNExpress, 1/8/2013). Vậy là chúng ta sẽ phải chờ xem người ta định nghĩa thế nào là “một mẩu”, “một đoạn” trong một cuộc phỏng vấn khác, hoặc ưu ái hơn thì sẽ có hẳn một định nghĩa trong thông tư hướng dẫn sẽ có trong tương lai?

+ Sự “tùy hứng” còn được thể hiện từ khái niệm mù mờ qua giải thích từ ngữ trong văn bản NĐ, rằng “thông tin tổng hợp là thông tin được tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin, nhiều loại hình thông tin …” (Điều 3, khoản 19), nhưng đã được ông Cục trưởng phát triển ra thành: “… không được dẫn thông tin tổng hợp, tức là không được trích dẫn thông tin từ các cơ quan báo chí hay các trang web của cơ quan nhà nước”.  (VNExpress, 31/7/2913). Có nghĩa, theo như NĐ72, thì nếu như có ai đó lấy tin từ vài nhân chứng là các blogger chứng kiến một vụ đụng xe ngoài phố, rồi “tổng hợp” lại, đưa lên blog của mình, như thế cũng sẽ được gọi là “thông tin tổng hợp”, là sẽ bị “cấm”. Nhưng với riêng ông Cục trưởng, thì phải là lấy tin từ nhiều báo, trang web cơ quan nhà nước mới là “thông tin tổng hợp”.  

+ Ngoài ra, dường như lại còn có cả việc “mở lối” cho các “trang thông tin cá nhân” nào thực hiện “tổng hợp thông tin” được “lên đời” trở thành “trang thông tin điện tử tổng hợp”, thay vì xử phạt tức khắc: Theo ông Bảo, không ai cấm trang thông tin cá nhân trở thành trang thông tin tổng hợp, nhưng với điều kiện phải thoả mãn các quy định, như phải thành lập doanh nghiệp, tổ chức, phải có nhân sự quản lý, có đủ khả năng tài chính… (VNExpress, 1/8/2013). Có nghĩa, khi phát hiện “trang thông tin cá nhân” nào đó lại thực hiện “thông tin tổng hợp”, thì cơ quan chức năng sẽ yêu cầu chủ trang làm thủ tục chuyển nó thành “trang thông tin tổng hợp”? 

Trong những thủ tục đó, việc thành lập “tổ chức” sẽ phải được hiểu như thế nào? “Tổ chức” ở nước ngoài, trên mạng, hay như … CLB bóng đá NO-U thì có được không, hay phải là “tổ chức quốc doanh” của VN? Bởi vì trong Điều 20, khoản 2, cũng như Điều 3 Giải thích từ ngữ, không nói rõ thế nào thì được gọi là “tổ chức”. Và còn nhiều “điều kiện” khác nữa, nó được hướng dẫn ở văn bản nào để các chủ trang theo đó mà thực hiện?

Để rồi sẽ áp dụng tùy thích? 

Để thấy, từ một vài câu chữ ngắn ngủi, không rõ ràng trong một Nghị định của Chính phủ, nhưng đã được các quan chức cấp dưới phát triển ra thành những “quy định chi tiết” theo ý kiến chủ quan của mình, chỉ qua những cuộc phỏng vấn, đề từ đây họ “đưa luật đi vào cuộc sống”, để xử phạt, thậm chí bắt bớ?

Trong khi đó, với một người hiểu ít nhiều về hệ thống pháp luật VN lâu nay, qua những trả lời báo chí ở trên, có thể hình dung sẽ phải có một thông tư riêng cho các blog cá nhân, như Thông tư 07 kèm NĐ97 cách đây 5 năm.

Thế nhưng, chưa nghe các quan chức Bộ 4T nói về thông tư đó, ngoài việc cho biết sẽ có thông tư về “cung cấp thông tin công cộng qua biên giới”. Còn ở một tờ báo khác, thì dường như lại đem tới “hy vọng” sẽ có một thông tư riêng khác cho việc “đăng tải thông tin tổng hợp”: “Theo Thứ trưởng Bộ TT-TT Lê Nam Thắng, điều khoản này trong Nghị định 72 mới chỉ đề ra nguyên tắc chung nhất. Trên cơ sở nguyên tắc đó, Chính phủ đã giao Bộ TT-TT tiếp tục ban hành các hướng dẫn cụ thể liên quan.” (Thanh niên, 1/8/2013).
Như vậy, họ cứ để NĐ72 treo lơ lửng trên đầu dân chúng theo kiểu này, với hàng vạn, triệu blogger, người dùng Facebook, … luôn mang cảm giác mình rất có thể bị “phạm tội”, bị xử lý bất cứ lúc nào mà không hiểu phải tránh “vi phạm” bằng cách nào.
(Kỳ sau bàn về xử lý các trang tin mạo danh).


Copy từ: Ba Sàm

http://basam.info/2013/08/11/tin-chu-nhat-11-08-2013/ 


....................

Từ bệnh viên Hoài Đức đến 7 đoàn thanh tra của Tổng Bí Thư

Câu chuyện thương tâm về các trẻ sơ sinh bị chết do tiêm vắc xin còn chưa ngã ngũ, bởi những bao biện về mặt chuyên môn mà chỉ có mình bộ y tế nói một mình một sân, nói sao thiên hạ biết vậy. Chẳng ai kiểm tra xem sự thật có đúng vậy không. Bộ y tế giải thích do nguyên nhân khách quan, do những tác động bất ngờ không thể lường được dẫn đến sự việc đau lòng này. Cách giải thích với nguyên nhân tựa như thiên tai gây ra. Dư luận phẫn nộ rồi cùng đành cam chịu, bộ y tế đáng lẽ phải làm cam kết nếu bác sĩ tiêm vắc xin cho trẻ nhỏ dẫn đến trẻ có hậu quả gì, bác sĩ phải chịu trách nhiệm. Đó mới là sự tự trọng của nghề nghiệp, thế nhưng bộ y tế lại làm cái điều ngược lại, là trẻ nhỏ tiêm vắc xin gia đình phải cam kết. Có nghĩa nếu còn xảy ra sự việc trẻ nhỏ chết, bộ y tế khỏi phải trả lời, giải thích . Một cách rút kinh nghiệm độc nhất vô nhị.
Nhưng việc xét nghiệm máu ở bệnh viện Hoài Đức thì chẳng thể nào bao biện được, rành rành con người cố tình làm ẩu để trục lợi. Lỗi về đạo đức, lương tâm, nghề nghiệp. Người bệnh viện lấy máu của bệnh nhân từ già cho đến trẻ sơ sinh, để rồi vất số máu đấy đi, đưa một kết quả giả mạo cho khỏi tốn công xét nghiệm.

Lần này thì chưa cần để bộ y tế của bà Tiến thanh minh, có lẽ đã rút kinh nghiệm từ vụ vắc xin. Bí thư thành ủy Hà Nội dường như không muốn để cho bộ y tế giải thích nhăng cuội theo kiểu chuyên môn của mình nữa. Khi bài vở của cán bộ y tế lại bắt đầu bằng những lời quen thuộc như ‚‘‘ chưa nhận được thông tin gì, sẽ xem xét và nếu có sai ( nếu có nhé) thì sẽ xử theo tùy theo sai phạm.

Bí thư Phạm Quang Nghị phán rắn chắc như lời tuyên án. Sai phạm ở bệnh viện Hoài Đức là nghiêm trọng, mang tính hệ thống, do một nhóm người....sau lời của ông Nghị. Đích thân giám đốc CAHN chỉ đạo khởi tố vụ án hình sự vụ án ở bệnh viện Hoài Đức với tội danh ban đầu – Lợi dụng quyền hạn chức vụ trong khi thi hành công vụ.

Đảng bộ Hà Nội ra tay sớm, không để cho sở y tế đưa sự việc vào những giải thích chuyên môn loanh quanh rồi đánh bùn sang ao, kết cục là hòa cả làng. Nếu ông Phạm Quang Nghị không quyết đoán, để bên ủy ban NDHN làm việc với sở tế, trình lên bộ, lên chính phủ...có lẽ thì sự việc này đã không vỡ lở to như bây giờ.

Lá đơn tố cáo những chuyện sai phạm đã gửi đi từ 6 tháng 6 năm 2013 như lời của giám đốc công an Hà Nội thiếu tướng Nguyễn Đức Chung, qua một thời gian điều tra âm thầm, đến đầu tháng 8 mới được công bố và báo chí rầm rộ nhắc tới. Bí thư Phạm Quang Nghị đích thân lên tiếng vào cuộc thay cho ủy ban NDTP . Rất tình cờ, hành động và phát ngôn của ông Nghị cũng đúng vào lúc mà TBT Nguyễn Phú Trọng thành lập 7 đoàn thanh tra, kiểm tra bao quát toàn bộ mọi việc của chính phủ.

Câu chuyện về bệnh viện Hoài Đức và sự nhập cuộc của vị đứng đầu đảng bộ thành phố Hà Nội đầy quyết đoán khiến người dân thấy vị thế lãnh đạo của Đảng đang lu mờ bấy lâu, nay trở lại mạnh mẽ. Và lẽ tất nhiên người ta ao ước giá như ở cấp cao hơn Đảng bộ TPHN là BCT có được sự quyết đoán như thế thì bộ y tế khó lòng mà đối đáp quấy quá trong vụ vắc xin vừa qua còn gây phẫn nộ trong dư luận. Đương nhiên không chỉ bộ y tế mà nhiều bộ khác cũng không à uôm được như họ vẫn đăng đàn trả lời dư luận.

Sự ra đời của 7 đoàn thanh tra Đảng do BCT thành lập, được đón chào bằng minh họa không có gì bằng là vụ bệnh viện Hoài Đức do bí thư Phạm Quang Nghị đang chỉ đạo xử lý quyết liệt.

Nếu vụ Hoài Đức chỉ là tình cờ, thì về duy tâm là các đoàn thanh tra của BCT đã may mắn ngay từ khi ra mắt dư luận, trong sự chán chường của dân chúng về bộ máy trì trệ , quan liêu, tham nhũng của các ngành, các cấp khắp nơi.

Còn nếu vụ Hoài Đức được ém sẵn từ hai tháng trước, đến bây giờ mở nở rộ đón chào sự ra đời của các đoàn thanh tra do TBT quyết định thành lập.? Thì sao.?

Nếu thế, đây nước cờ của TBT thật kỹ lưỡng và đầy chiến lược. Một nước cờ đi như thế, người ta chỉ đi khi bàn cờ đã vào thế quyết định thắng thua, nước cờ mà các quân bên này đã nhập nhòm vào cung bên kia. Không còn là thế trận vờn nhau để đi những nước chung chung lên tượng , gánh sĩ, đấm tốt nữa.


Copy từ: Người Buôn Gió
http://nguoibuongio1972.blogspot.de/2013/08/tu-benh-vien-hoai-uc-en-7-oan-thanh-tra.html 


........................