MÁU NGƯỜI KHÔNG
PHẢI NƯỚC LÃ!
GS.Tương Lai
Phải đánh vật với
bài viết này để đưa lên mạng kịp trong ngày 17.2 không phải vì đã cạn ý, nghẹn
lời mà vì sự trăn trở chưa thể tự lý giải được cho mình: tại sao người ta buộc
phải làm thế hay cứ muốn làm thế : Cố tình bắt dân tộc phải quên đi nỗi đau về
một cuộc chiến tranh đã phơi trần bộ mặt thật của cái người "vừa là đồng
chí, vừa là anh em" trong suốt ngần ấy năm?
Không sao hiểu nổi
khi cố tình lờ đi, quên đi, không cho nhắc lại, bỏ tù những ai muốn biểu tỏ
lòng căm thù quân cướp nước gây nên cuộc chiến tranh đẫm máu trên đất nước ta
do Trung Quốc tiến hành. Một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhất của Trung Quốc kể
từ cuộc chiến Triều Tiên 1950, điều động 9 quân đoàn chủ lực và 3 sư đoàn độc
lập với hàng trăm xe tăng, hàng nghìn pháo, súng cối, dàn hỏa tiễn cùng với sự
yểm trợ của hạm đội Nam Hải và không quân sẵn sàng ứng phó. Một cuộc chiến
tranh xâm lược tàn khốc trên toàn tuyến biên giới với tội ác trời không dung,
đất không tha, lặp lại điều cha ông chúng xưa kia đã từng làm : giết sạch, đốt
sạch. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số thị trấn khác
bị san phẳng. Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã nhuộm đỏ trên biên cương tổ
quốc.
Tôi vẫn cố tin và
mong điều mình tin đó là sự thật : những người ra cái mệnh lệnh ấy, vạch đường lối ấy, thảo chủ trương ấy, đưa ra chỉ
thị ấy dù là trên mực đen giấy trắng hay chỉ thị mật được truyền miệng trực tiếp
đến các cấp ủy, đến hệ thống truyền thông, báo chí... cũng có trái tim yệu nước
và căm giận bọn cướp nước. Vì, máu Việt Nam vẫn chảy trong huyết quản họ.
Hàng ngày họ vẫn phải nhìn vào ánh mắt của con cháu họ, những ánh mắt tuổi thơ
cần sự trong sáng và trung thực để lớn lên làm người tử tế. Họ, qua "đường
giây nóng" hay chỉ là cấp thực hiện có thể ráo hoảnh thề thốt với phóng
viên nước ngoài rằng không hề biết, hoặc không hề có những chủ trương, quyết
sách, chỉ thị nọ, nhưng chẳng nhẽ lương tâm họ chai lỳ trước những lời nói dối
để trong sâu thẳm tâm linh họ cũng chối bỏ nốt những thoáng dằn vặt hay run sợ
" Mai sau dầu đến thế nào, Kìa gương
nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần".[Nguyễn Du]
Bởi chưng, máu
người đâu phải nước lã! Anh linh của hàng vạn đồng bào và chiến sĩ của ta ngã
xuống trên sáu tỉnh biên giới ba mươi lăm năm trước đây đã dồn góp vào, bối đắp
thêm cho khí thiêng sông núi giữ nhịp
cho mạch sống đất nước, đang nâng đỡ chúng ta, nhắc nhở chúng ta, soi rọi đầu
óc chúng ta, và cũng nghiêm khắc trách phạt, căn dặn chúng ta hãy sống trong
cuộc đời này như thế nào.
"Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt.
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về"[Trịnh Công Sơn]. Ấy vậy mà Nguyễn Gia
Thiều lại từng cảnh báo : "Kìa thế
cục như in giấc mộng. Máy huyền vi mở đóng khôn lường"! Trong sự
"mở đóng khôn lường" đó,
cuộc sống tự mở lấy đường đi cho chính nó. Mọi vương triều, chính thể đều cuốn
trôi theo dòng thác thời gian để cho sự sòng phẳng nghiêm cẩn của lịch sử phán
xét chúng. Lịch sử gần và lịch sử xa đang hòa quyện vào nhau trong sự đa dạng
và nhiễu nhương của thời cuộc hôm nay.
Những Trần Hưng Đạo
rồi Trần Ích Tắc thế kỷ XIII, những Quang Trung Nguyễn Huệ và rồi Lê Chiêu
Thống, thế kỷ XVIII đang được nhân bản với những gương mặt "hiện đại"
của thế kỷ XX, rồi thế kỷ XXI này càng làm nổi rõ thêm lực tỏa sáng cũng như
sức trĩu nặng của "đôi vầng nhật
nguyệt" trên hai vai những người đương thời! Mà lịch sử có khi đi
những bước chậm rãi nhưng không thiếu những chuyển động đột biến. Thế rồi, nói
như Einstein "trong ánh chớp của những cơn giông sáng lòe của một giai đoạn chuyển
động, người ta thấy các sự việc và con người như trần truồng... Các dân tộc chỉ
bị thúc đẩy để phát triển bằng nguy cơ và chấn động, mong rằng những chấn động
này dẫn tới những hệ quả tích cực".
Vậy thì, những bàn
tay dại dột đang cố tình che dấu sự thật có che được nòng súng quân Trung Quốc
xâm lược của
pháo Bằng Tường dội sang xối xả
dằng dặc dòng người sơ tán đổ về xuôi
Lẫn lộn người Kinh, người Tày, người Dao
nào gánh, nào xe, nào gùi, nào vác
hiển hiện những ngày xưa loạn lạc
biên ải xưa giặc giã mới tràn vào
những gương mặt nghìn năm đanh sắt lại
máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới
vẫn mới cả nón mê cả áo vá chân trần...
Miếng cơm ăn lẫn cát bụi bên đường
giấc ngủ ngồi che hờ tàu lá chuối
ngôi nhà không bỏ trống sau lưng
đàn trâu lang thang lũ gà con xao xác
lũ trẻ con mắt tròn ngơ ngác
chân trẻ con lũn cũn chạy như đùa
Trẻ con trên ôtô, trên xe trâu, xe thồ
trẻ con trên lưng trẻ con trên tay
trẻ con lon ton níu váy níu áo
đòn gánh nữa kìa kẽo kẹt nghiến trên vai
một đầu gánh là trẻ con còn đầu kia là nồi
là gạo
mắt trẻ con cứ tròn thao láo
như hòn sỏi ném theo đoàn quân đi...
Bịt thông tin thì
bịt, nhưng bịt "ánh mắt trẻ con cứ
tròn thao láo" mà nhà thơ
Nguyễn Duy miêu tả trong "chùm thơ mặt trận Lạng Sơn tháng
2.1979" thì quá táng tận lương tâm.
Ánh "mắt trẻ con cứ tròn thao láo" ấy
đang nhìn ông chúng, nhìn cha chúng trong mâm cơm của các vị, trong giấc ngủ
của các vị đấy. Chẳng nhẽ các cháu sẽ vẫn tiếp tục bị bưng bít về tội ác của
quân xâm lược Trung Quốc trong cuộc chiến thanh biên giới tháng 2.1979 khi
người ta gỡ bỏ yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa chủ quyền Hoàng Sa,
Trường Sa vào sách giáo khoa. Lời khẳng định “Đấu tranh bảo vệ chủ quyền là vấn đề khác, bằng các giải pháp hòa bình,
còn lịch sử là lịch sử, sự thật là sự thật” cũng bị bóc khỏi các trang mạng
và trang viết. Một tít lớn chạy trên trang điện tử của báo Thanh Niên : “Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho
biết, hiện Bộ Ngoại giao đang lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm sự kiện (1974) Trung
Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và 35 năm sự kiện tháng 2 năm
1979-chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” chỉ giữ trên mạng có nửa buổi,
sau đó biến mất! Chương trình tưởng niệm, thắp nến tri ân ‘Hướng về Hoàng Sa’
dự kiến diễn ra tại Công viên Biển Đông (Đà Nẵng) cũng bị hủy vào giờ chót với
lời cáo lỗi tội nghiệp của ông Đặng Công Ngữ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện
Hoàng Sa, rằng "do công tác chuẩn bị
chưa được chu đáo", một kịch bản vụng về.buộc người diễn phải ngậm bồ
hòn làm ngọt để rửa mặt cho ai đó tọa lạc trên ngôi cao, quyền lớn.
Vậy thì ở đây, sự thật không còn là sự thật nữa hay ai
đó sợ sự thật? Trang viet-studies ngày 11-2-2014 đăng bài của
Hoàng An Vĩnh thì nói toạc ra rằng " Cuộc
trao đổi qua đường dây nóng giữa ông Tập Cận Bình và ông Nguyễn Phú Trọng là lý
do khiến Việt Nam đột ngột chấm dứt các hoạt động tưởng niệm 40 năm hải chiến
Hoàng Sa và 35 năm Chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc 1979".
Liệu đây có phải là "sự thật"?
Nhưng hình ảnh kèm
ngay đây thì chắc chắn là sự thật 100% không có gì phải bàn nữa. Hãy xem người
ta chỉ đạo đục bỏ dòng chữ Trung Quốc xâm lược trên tấm bia kỷ niệm chiến thắng
tại đầu cầu Khánh Khê. Ai chỉ đạo. Ai? Chẳng nhẽ nhân dân ta "vì đại
cục", muốn giữ "hòa hiếu" với nhân dân Trung Quốc đã tự ý "đục bỏ lòng yêu nước" của chính
mình?
Và rồi ai chỉ đạo
quét nhiều lớp nước vôi rất dày để làm mờ đi dòng chữ ghi tên người nữ anh hùng
Hoàng Thị Hồng Chiêm được khắc trên bệ đá đặt bức tượng của người con gái từng
là biểu tượng sống động của tuổi trẻ
trên tuyến đầu biên cương tổ quốc?
Trong bài báo có
tên "Lại đục bỏ lòng yêu nước",
nhà báo Lê Đức Dục viết : "Sau khi
chị hy sinh, tên của chị được đặt cho ngôi trường cấp 2 xã Bình Ngọc (Móng
Cái-Quảng Ninh) là trường Trung học cơ sở Hoàng Thị Hồng Chiêm. Ở góc trường có
bức tượng chị Chiêm bằng xi măng đặt trên bệ đá, tay trái cầm khẩu AK, tay phải
cầm thủ pháo, mắt nhìn thẳng kiên nghị về phía trước, chân dẫm lên chiếc mũ
quân Tàu... Vậy rồi gần 4 năm trước, năm 2010, cũng không biết vì lý do gì,
trường không còn mang tên Hoàng Thị Hồng Chiêm nữa, quay lại với tên cũ là
trường THCS Bình Ngọc".
Chao ôi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm với tầm nhìn xuyên suốt lịch sử về vị thế địa- chính trị của bán đảo
hình chữ S này đã những muốn mở nước về phương nam để lùi xa bớt sức ép trứng
chọi đá của nước láng giềng khổng lồ nhằm tạo dựng cái thế "vạn đại dung thân" Nếu cụ Trạng
Trình mà sống lại thì chắc cũng phải lắc đầu chào thua cái "viễn
kiến" hiện đại, tự co mình lại trong sự tự huyễn "lấy nhu thắng cương", kìm nén tối
đa sức quật khởi của truyền thống dân tộc mà ông cha bao đời truyền dạy nhằm
giữ lấy hòa khí với cái nước lớn "cùng
chung ý thức hệ"!
Khốn nỗi, do lú lẫn
hay hoang mang trong cơn bĩ cực đã biến chữ "nhu" thành nhu nhược,
xúc phạm đến lòng tự hào dân tộc, gây phẫn nộ trong nhân dân. Về chuyện này thì
lịch sử cũng đã có ghi, nhất là vào những thời đoạn suy mạt của những vương
triều. Không thiếu những hoàng thân, quốc thích vì muốn giữ cái ngai vàng ruỗng
nát đang lung lay đã quỳ gối trước các thế lực xâm lược hoặc chạy sang Tàu cầu
viện. Vì quyền lực gắn với lợi ích của riêng của bản thân, gia đình, dòng họ,
chúng đã phản bội tổ quôc, rước voi dày mã tổ, bêu tiếng xấu muôn đời. Thế
nhưng, hình như lịch sử không thấy ghi những chuyện như kiểu "đục bỏ lòng yêu nước" của thời hiện
đại!
Hãy ngược dòng thời
gian để có cái nhìn đối sánh, lướt qua những gì mà những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu
Thống thời hiện đại cùng chung thức hệ
với Mao - Đặng và những hậu duệ của họ đã "vượt xa" những bậc tiền
bối ra sao.
Thoát khỏi ách Bắc
thuộc, bước vào kỷ nguyên Đại Việt thì tìm về dân tộc và thân dân là phương thuốc tích cực nhất để giải nọc động
vọng ngoại, giải Hán hóa, phải chăng đó là cội nguồn của hào khí "Đông
A" khiến vương triều Trần huy động được sức mạnh của quân dân, "lấy
ít địch nhiều", ba lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược ở thế kỷ XIII.
Sử gia Trần Quốc
Vượng đưa ra một nhận định sâu sắc về ông vua thứ 7 báo hiệu thời suy vong của
vương triều Trần : "Ông vua trụy lạc
Trần Dụ Tông vẫn còn một điểm lương tri khi làm thơ ca ngợi đức độ Trần Thái
Tông : "miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng". "Tuy đồng mà bất
đồng" là một công thức hay để chỉ thế đối sánh Việt Nam-Trung Quốc. Đồng ở
cách, bất đồng ở cốt, giống nhau ở phần biểu kiến, hiện tượng, kết quả Trung Quốc hóa, hội nhập văn hóa với Trung
Quốc trên bề mặt, khác nhau ở phần tiềm ẩn, bản chất- kết quả dân tộc hóa, giải
Hán hóa dưới bề sâu. Thực thể dân tộc tính đầu đời Trần rõ ràng đến mức, trăm
năm sau, cái ông vua thiếu quả quyết và bất lực như Nghệ Tông cũng biết nói một
câu khôn ngoan, đúng đắn : "Triều đình ngày trước dựng nước tự có pháp độ
riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam, Bắc đều làm chủ nước mình, không
cần phải bắt chước nhau".
Xin nhớ là nhà sử
học uyên bác này chỉ điểm xuyết đôi dòng
về thời suy mạt của một vương triều để chỉ ra điều nổi bật nhất trong tâm thế
Việt Nam : quyết không bao giờ khuất phục phong kiến phương bắc cho dù kẻ bành
trướng có sức mạnh áp đảo quyết đẩy dân tộc mình vào cái thế "châu chấu đá
xe".
Chỉ e răng có khi
vị sử gia uyên bác này chưa lường được cái sức mạnh của "ý thức hệ" được ghi đậm trên mười
sáu chữ bịp bợm vẫn đang phù phép, biến hóa những việc làm phi đạo lý, thất
nhân tâm, quay lưng lại với dân, chà đạp lên truyền thống dân tộc biến thành
"tinh thần cảnh giác cách mạng"
nhằm chống lại "các lực lượng thù
địch" làm mất uy tín của Đảng khi mà "còn Đảng là còn mình". Chẳng thế mà một ông từng giữ chức rất
to không úp mở vòng vo, đã nói toạc ra rằng "mất vài hòn đảo chưa sao, mất Đảng là mất tất cả".
Chẳng trách mà bọn
xâm lược đang nuôi mộng siêu cường sẵn sàng làm tất cả để thực hiện chủ nghĩa
bành trướng sẵn sàng hà hơi tiếp sức cho những người đang cố níu kéo cái
"ý thức hệ" lỗi thời đã
mục ruỗng nhưng vẫn đang là cái bình phong che chắn cho một thể chế chính trị
đang triệt tiêu động lực của sự nghiệp phát triển đất nước.
Chẳng phải là khi
Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh xâm lược năm 1979 xua hơn 60 vạn quân
tràn sang sáu tỉnh biên giới thì "điều
thực sự mà Trung Quốc muốn là " làm
cho Việt Nam
bị kiệt quệ cả về quân sự và kinh tế, và điều này sẽ diễn ra lâu dài".
Đây là nhận định của tạp chí Mỹ "Tuần tin tức", số ra ngày 21 tháng 3
năm 1979.
Trong chuyến thăm
Mỹ trước đó, ngày 1.1.1979, Đăng Tiểu Bình đã thăm dò về cuộc chiến tranh
chốngViệt Nam và phản ứng của Mỹ. Với ông ta, đánh Việt Nam chính là cách vạch
rõ ranh giới bạn-thù, nói rõ Trung Quốc không còn anh em, tình nghĩa gì với
Việt Nam nữa. Tại Ủy ban Ngoại giao Thượng viện Mỹ, Đặng nói : “Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây
rối loạn khắp nơi, vì hòa bình và ổn định của thế giới, vì chính đất nước mình,
chúng tôi có khả năng không thể không làm những việc mà chúng tôi không muốn
làm”. Tại Tokyo, Đặng nói với Thủ tướng Nhật Tanaka: “Không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây
chuyền”, “ đang suy tính, để trừng
phạt dù có gặp những nguy hiểm nào đó cũng phải hành động”, ..“đối phó với
loại người như thế, không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức
khác đều không có hiệu quả”. Thế đó!
Thật ra thì không
phải đợi đến tháng 1 năm 1979, sau khi Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ, từ năm 1975 Trung Quôc đã thực thi chuẩn bị chiến tranh
chống Việt Nam, cái gai mắc ngang cổ họng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán không
cho chúng nuốt trôi các nước Đông Nam Á và chiếm trọn Biển Đông.
Tên lính xung kích
được chúng sử dụng là bè lũ diệt chủng PolPot ở Campuchia. Trung Quốc hứa viện
trợ không hoàn lại cho chính quyền PolPot một tỉ đôla trong vòng năm năm, bao
gồm kinh tế và quân sự. Theo AFP thì số viện trợ đó chiếm hơn một nửa tổng số
viện trợ của Trung Quốc cho nước ngoài. Đặc biệt là về quân sự : từ bảy sư đoàn
năm 1975 lên 23 sư đoàn; giúp xây dựng ba thứ quân và các binh chủng. Tổng số
vũ khí mang nhãn hiệu Trung Quốc lên tới 450 khẩu pháo lớn, 294 xe tăng, 1.200
xe các loại, 42 máy bay; Trung Quốc đã cử hàng nghìn cố vấn quân sự đến
Cam-pu-chia.
Thực chất cuộc
chiến tranh biên giới phía Tây Nam
là nhằm thực thi âm mưu và thủ đoạn của người "vừa là đồng chí, vừa là anh em" cùng chung "ý thức hệ" chứ chẳng phải là ai
khác cả. Chẳng những thế, Đặng Tiểu Bình còn láo xược gọi các cuộc chiến tranh
xâm lược tàn khốc tấn công Việt Nam
khi nhân dân ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài ngót nửa thế kỷ, mình còn
đầy thương tích là nhằm "dạy cho
Việt Nam
một bài học".
Không hiểu những
người trung thành với cái gọi là "ý thức hệ " với Đặng Tiểu Bình và
những người kế tục ông ta đang ra sức bảo vệ cho mười sáu chữ bịp bợm có nhớ về
"bài học" này không? Có thể người ta cố tình quên, nhưng thế giới thì
họ nhớ. Tại Mỹ, bài báo nhan đề “Ai cho
ai bài học" trên nhật báo phố Wall số ra ngày 6 tháng 3 năm 1979 đưa
ra nhận xét : “ Sau khi tính số lỗ lãi
của đòn trừng phạt Việt Nam vừa qua của Trung Quốc, thế giới có thể nhất trí
rằng : Trung Quốc đã phải rút khỏi cuộc chiến tranh với uy tín bị tổn thương và
mặt mày đầy máu me, thương tích …".
Có người lại cố
nghĩ rằng, không phải cố tình quên mà là cao kiến hơn, người ta cố nín nhịn để
vận dụng chính sách Câu Tiễn sau khi thua trận ở Cối Kê, quyết nằm gai nếm mật
để phục thù, rửa hận lấy lại giang sơn? Nếu có được cái quyết tâm đáng kính đó
thì hãy nhớ rằng, những hậu duệ của Ngô Phù Sai thế kỷ XXI này ranh ma quỷ
quyệt gấp vạn lần bậc tiền bối của họ. Hãy đọc lại những lời nham hiểm của Đặng
Tiểu Bình vừa nêu ở trên thì cũng thấy được phần nào trong khi những Ngũ Tử Tư
của thời hiện đại này thì chẳng ai chịu rỗi hơi khuyên can những người bị điếc
đặc bởi tai đầy ắp những giáo điều ẩm mốc đã biến thành kinh nhật tụng.
Hay là ai đó định
chịu nhục như Hàn Tín thuở hàn vi phải chui qua háng của anh bán thịt giữa chợ để
mưu sự nghiệp kinh bang tế thế mà cuối thế kỷ XXI này không biết có thấy được
không. Rõ ràng là chuyện "đục bỏ
lòng yêu nước", hay cuống cuồng trước sự cau mày phật ý hoặc lời
khiển trách qua đường dây nóng, so với chuyện chịu nhục để "lấy được thiên
hạ" của người tráng sĩ ở Hoài Âm xưa thì chẳng thấm vào đâu. Chỉ có điều,
những Lưu Bang, Hạng Vũ nơi xứ sở của hơn tỷ dân đang nuôi mộng siêu cường hôm
nay không dễ bị lừa bởi những mưu vặt của người không biết khai thác cái lợi
thế mà thời đại đang tạo ra để tự mình vươn lên hội nhập vào thế giới văn minh,
tự cô lập để vuột mất thời cơ. Mà mất thời cơ là cái mất lớn nhất.
Ấy vậy mà, trong
khi nhà cầm quyền nín nhịn không cho phép công bố sự thật về cuộc chiến tranh
xâm lược bẩn thỉu này thì bộ máy truyền thông Trung Quốc, từ thông tấn báo chí
đến văn học nghệ thuật suốt 35 năm nay đã ra rả gieo vào đầu thế hệ trẻ nước họ
và dân chúng họ "về cuộc đánh trả tự
vệ". Nhiều nguồn tin cho rằng có tới trên 90% người dân TQ vẫn hiểu
rằng năm 1979 bộ đội Việt Nam đã vượt biên giới sang tấn công , bắt buộc quân
đội họ phải tự vệ !
Và, cũng do sự
"nín nhịn" vì "đại cuộc" tệ hại này mà phần lớn học sinh
tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong hơn 1,4 triệu sinh viên nước ta hầu
như không biết về cuộc chiến tranh xâm lược do Trung Quốc tiến hành. E rằng,
Hứa Thế Hữu, viên tướng Tổng chỉ huy quân xâm lược Trung Quốc trong cuộc chiến
tranh biên giới đã thất bại với chiến lược biển người quen thuộc chắc cũng tự
an ủi rằng mình không bị chết bỏ mạng như viên tướng xâm lược của thế kỷ XVIII
cũng họ Hứa, đề đốc Quảng Tây Hứa Thế Hanh, mà lại được thăng chức. Oái oăm hơn
nữa là mười năm sau, ngày 19.9.2008 lại được báo Hà Nội Mới, "tiếng nói
của Đảng bộ và Nhân dân Hà Nội" trong một bài viết nhan đề là "Thu phục
tướng tài" đã ca ngợi viên tướng xâm lược bắn giết dân mình ở biên giới,
hậu duệ của viên tướng xâm lược thế kỷ XVIII, là một tướng tài. Cần nói thêm
rằng, Hứa Thế Hữu cũng chính là viên tướng chỉ huy cuộc đánh chiếm Hoàng Sa!
Đến Lê Chiêu Thống,
kẻ đã rước Hứa Thế Hanh vào nước mình cũng chưa hề được nghe nói hay được đọc
dòng nào là y đã tán tụng những tên xâm lược như hôm nay người ta đang làm. Quả
là chẳng còn gì để nói.
Vì thế, không lạ
khi vào những năm chẵn như năm vừa rồi kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, tiếp đó kỷ niệm cuộc chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" đòn
quyết định đánh sụp sức mạnh không quân của đế quôc Mỹ, đưa tới việc ký kết
Hiệp định Paris, các cuộc kỷ niệm ấy diễn ra rất rầm rộ và hào hùng. Thế nhưng,
kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới đánh tan gần 60 vạn quân xâm lược
Trung Quốc thì không khí lạnh tanh! Có chăng chỉ có sự náo động của lực lượng
trấn áp, kể cả côn đồ được thuê để hành hung người biểu tình hô khẩu hiệu yêu
nước chống bọn xâm lược.
Mọi sự dài dòng
giải thích hay cao giọng rao giảng nhằm hạ nhiệt những bức xúc đang sục sôi
trong tâm trạng xã hội trở nên trơ trẽn trước thực tế phũ phàng của những điều
vừa dẫn ra! Chính cái đó nói lên tại sao lòng dân ly tán, trật tự an toàn xã
hội rối loạn. Khi mà sự nói dối lộ liễu, "sự nói dối vĩ đại", đang
cầm chịch cho nhịp đập của xã hội thì trách gì chuyện văn hóa xuống cấp, đạo
lý suy đồi.
Vậy thì, nếu "dân tộc và thân dân" là phương
thuốc tích cực nhất để giải nọc động vọng ngoại, giải Hán hóa buổi mở đầu kỷ
nguyên Đại Việt cách đây mười thế kỷ khi đất nước khỏi ách bắc thuộc thì trong
thời đại của nền văn minh trí tuệ và kinh tế tri thức hôm nay, biết vứt bỏ cái
ý thức hệ lỗi thời, đặt lợi ích của dân tộc và tổ quốc lên trên hết và trước
hết để thực tâm mở rộng dân chủ, công khai và minh bạch xây dựng nhà nước pháp
quyền và mạnh dạn phát huy sức mạnh của xã hội dân sự nhằm huy động ý chí và
sáng kiến của dân, tạo ra một động lực mới, thúc đẩy phát triển. Đó là mệnh
lệnh của cuộc sống, và cuộc sống sẽ mở đường đi cho chính nó.
Máu của đồng bào và
chiến sĩ ta đổ ra trong các cuộc chiến tranh giữ nước đã thấm đẫm từng tấc đất, thước núi, triền sông, vụng
biển sẽ không uổng nếu mệnh lệnh ấy của cuộc sống được thực hiện.
Ngày
16.2.2014
T.L
Copy từ: TS Nguyễn Xuân Diện’ blog
.............