CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

VN 'cần quyết tâm lớn để vượt khó'



Hình minh họa
Kinh tế Việt Nam năm 2013 còn kế thừa nhiều vấn đề của năm cũ
Một phân tích gia về kinh tế, xã hội của Việt Nam dự đoán kinh tế Việt Nam năm 2013 sẽ mang nhiều gam màu, được cho là có phần "trầm" thậm chí khá "u ám", trong bối cảnh kinh tế toàn cầu, kinh tế châu Âu, Hoa Kỳ và Trung Quốc chưa kịp lấy lại đà tăng trưởng.
Từ Hà Nội, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói: "Ở Việt Nam, năm 2013 kế thừa của năm 2012 quá nhiều vấn đề nan giải của nền kinh tế. Đó là nợ xấu của ngân hàng và tồn kho lớn của các doanh nghiệp."
"Đó là nợ chồng chất như núi của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước. Đó là khu vực bất động sản bị đóng băng. Và điểm cuối cùng, nhưng vô cùng quan trọng, đó là khoảng 55 ngàn doanh nghiệp năm nay làm thủ tục phá sản, đóng cửa và xin ngừng nộp thuế."
'Cần quyết tâm lớn'
"Một số vấn đề hiện nay chưa được xác định rõ. Thí dụ quy mô nợ xấu là bao nhiêu và nợ xấu là ở đâu? Bao nhiêu ở bất động sản, bao nhiêu ở bản thân ngân hàng và bao nhiêu ở doanh nghiệp nhà nước"
TS Lê Đăng Doanh
Đánh giá mặt tiến bộ của năm nay, Tiến sỹ Doanh nói: "Năm 2012 có một số tiến bộ, ví dụ lạm phát đã giảm, cho đến tháng 12, tốc độ tăng giá là tăng 6,81% so với tháng 12/2011. Và như vậy có một bước giảm đáng kể.
"Dự trữ ngoại tệ tăng, xuất khẩu cũng tăng cao, và đã có xuất siêu ở mức độ nhất định, và tỷ giá cũng giữ được ổn định."
Tuy nhiên theo chuyên gia này, Việt Nam trong năm tới vẫn cần có "quyết tâm lớn" để giải quyết khó khăn và cải cách. Ông nói:
"Nhưng những khó khăn mà kinh tế đang đối mặt đòi hỏi có một quyết tâm rất lớn để tái cấu trúc nền kinh tế, để cải cách và trong đó, một vấn đề rất lớn là cải cách bộ máy và hệ thống luật pháp để cho nền kinh tế có thêm năng lực cạnh tranh."
Khi được hỏi về những điểm sáng, điểm đột phá nào có thể sẽ xuất hiện trong năm mới đem lại hy vọng trong quá trình Việt Nam nỗ lực tìm kiếm sự cải thiện và tái ổn định nền kinh tế, xã hội, Tiến sỹ Doanh cho hay:
"Cho đến nay có một số các biểu hiện, thí dụ như do lạm phát giảm, lãi suất ngân hàng cũng giảm, và nếu có một bước xử lý nợ xấu, và có việc mua bán nợ, giải quyết nợ cho khu vực nhỏ và vừa, tôi nghĩ rằng tình hình đóng băng tín dụng với các doanh nghiệp tư nhân sẽ giảm bớt."
"Và tôi cũng hy vọng tình hình các doanh nghiệp tư nhân bị phá sản, hoặc phải ngừng hoạt động, sẽ giảm trong năm tới."
'Trị bệnh chính xác'
TS Lê Đăng Doanh
TS Lê Đăng Doanh cho rằng năm 2013 sẽ còn nhiều khó khăn
Phân tích gia cho hay cũng có các hy vọng theo đó Việt Nam sẽ "cố gắng để thu hút thêm đầu tư nước ngoài", cũng như có hy vọng Việt Nam có thể thực hiện việc "tái cấu trúc nền kinh tế."
Theo ông, trong đó các nội dung quan trọng là "tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc các tập đoàn và các tổng công ty nhà nước, tái cấu trúc ngân hàng và hệ thống tín dụng ở Việt Nam."
Trong khi cho rằng đây là các vấn đề then chốt đang được đặt lên "bàn nghị sự" và được các giới tiếp tục theo dõi trong năm tới đây, kinh tế gia nhấn mạnh:
"Tôi cũng xin lưu ý là một số vấn đề hiện nay chưa được xác định rõ. Thí dụ là quy mô nợ xấu là bao nhiêu và nợ xấu là ở đâu?
"Bao nhiêu ở bất động sản, bao nhiêu ở bản thân ngân hàng và bao nhiêu ở chỗ doanh nghiệp nhà nước thì cũng chưa rõ."
Những điều này theo Tiến sỹ Doanh cần phải được nhà nước và chính phủ làm rõ hơn trong năm mới để có thể có "phương án trị bệnh" một cách "chính xác hơn."
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh cũng nói thêm ông “chưa nghe tin” về việc liệu Trung ương Đảng cộng sản có tổ chức một Đại hội giữa kỳ trong năm mới hay không.
Tuy vậy, ông lưu ‎ ý Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp xúc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình 2013.
"Tôi chưa được biết về việc có Đại hội giữa nhiệm kỳ hay không, tôi chỉ được biết là ông Tổng bí thư có đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Và Bộ Kế hoạch và Đầu tư có báo cáo là sẽ khó thực hiện được chỉ tiêu, kế hoạch đã đề ra cho kế hoạch 5 năm 2010 đến 2015. Vì vậy cần có một báo cáo giữa nhiệm kỳ."
"Báo cáo đó sẽ được trình ra Hội nghị Trung ương hay một Hội nghị giữa nhiệm kỳ thì tôi chưa rõ," ông nói.



Copy từ: BBC


Bất đồng chính kiến và xã hội cộng sản



Phong trào Công đoàn Đoàn kết
Công đoàn Đoàn kết vượt qua nhiều sóng gió ở Ba Lan
Tiếp tục loạt bài về di sản và xử lý di sản của chủ nghĩa cộng sản, BBC trân trọng giới thiệu khái lược với quý vị độc giả góc nhìn của nhà nghiên cứu từ Canada, Phó Giáo sư Barbara J. Falk, thuộc Trung tâm Nghiên cứu châu Âu, Nga và Á-Âu, Đại học Toronto.
Bài viết tìm hiểu một số khía cạnh như quy mô và tính chất của bất đồng chính kiến trong xã hội cộng sản ở Trung và Đông Âu trước đây và đánh giá, xem xét kinh nghiệm hoạt động cũng như vai trò lịch sử của các nhà bất đồng ở các nước này trong thời kỳ hậu cộng sản. Sau đây là nội dung của bài.
Sau năm 1968, những hy vọng “cải tổ” đối với chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ và các hoạt động chuyển hướng về phía xã hội và nhà nước. Các trí thức như Adam Michnik và Jacek Kuroń ở Ba Lan, Václav Havel và Václav Benda ở Tiệp Khắc và János Kis và Miklós Haraszti ở Hungary đều thảo luận và viết về tầm quan trọng của tính tự tổ chức của xã hội, một dạng thức tiến hóa mới nhưng chưa phải là cải cách cấp tiến nhằm tạo ra không gian cho các hoạt động không bị Đảng cộng sản hoặc một trong các tổ chức chính thức ngoại vi của Đảng kiểm duyệt.
"Trong một hệ thống cộng sản được bó lại với nhau bằng keo dính của hệ tư tưởng, ở một mức độ nào đó, tất cả các công dân được yêu cầu phải "sống trong dối trá" và chấp nhận, cổ súy những gì được yêu cầu, bất kể là niềm tin thực sự hay chỉ để a dua"
Hiến chương 77 ở Tiệp Khắc ra đời như một phản ứng trước vụ xét xử một nhóm nhạc rock ngầm hoạt động, nhóm ‘the Plastic People of the Universe’ tình cờ liên kết nhiều người với các quá khứ chính trị rất khác nhau nhưng đồng tâm phấn đấu vì một sự nghiệp chung. Sau khi Hiệp ước Helsinki được ký kết vào năm 1976, nhóm Hiến chương đã công khai buộc chính phủ Tiệp Khắc phải tôn trọng pháp luật. Các thành viên nhóm Hiến chương đại diện cho một nhóm đa dạng của những người Czech và Slovakia từng bước đề cập nhiều vấn đề về quyền con người. Ngay cả khi họ nhấn mạnh lập trường "chống chính trị" và không trực tiếp thách thức thế độc quyền của nhà nước đảng cộng sản, Hiến chương 77 trên thực tế đã làm chính điều đó.
Các nhà bất đồng chính kiến của Nga vốn đa phần có trình độ học vấn với nhiều khác biệt và tập trung ở đô thị, nổi tiếng nhất trong số đó là khoa học gia Andrei Sakharov, cũng lấy cảm hứng từ Hiệp ước Helsinki. Theo thời gian, những người bất đồng chính kiến Nga dần dần mở cánh cửa, xét lại lịch sử Xô-Viết, một hành động cực kỳ can đảm ở một đất nước đã hiện thực hóa cuộc cách mạng của nó thành một câu chuyện chính thức, bất khả chất vấn.
'Chính là thể chế'
Nhóm "bất đồng chính kiến" nổi tiếng nhất mà quy mô của nó quá lớn để gọi nó dưới cái tên này là ‘Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan.’ Công đoàn tự do, tự quản và độc lập này trưởng thành từ một loạt các cuộc đình công ở một nhà máy đóng tàu trên bờ biển Baltic của Ba Lan hồi tháng 8/1980. Tuy nhiên, Công đoàn Đoàn kết đã không bị rơi vào hư không. Cuối những năm 1970, một loạt tờ báo, tạp chí, bản tin độc lập đã được công bố và một trường đại học ngầm đã được thiết lập thành công (và trở thành mô hình cho những nỗ lực tương tự ở những nơi khác trong khu vực).
Cố Giáo Hoàng Jean Paul II và Walesa
Cuộc gặp lịch sử giữa cố Giáo hoàng Jean Paul II và lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết Walesa tại Gdansk 6/1987
Các tổ chức sinh viên và thậm chí tổ chức của nông dân độc lập đã liên kết tạo thành một phần của Công đoàn Đoàn kết. Tuy nhiên, Công đoàn Đoàn kết cũng gặp một số vấn đề như bị phân chia, còn có sự do dự, bị ảnh hưởng bởi một số chia tách về thế hệ và chính trị, và tinh thần của hoàn toàn dân chủ của nó đối lập với nhu cầu cần có lãnh đạo chiến lược tập trung. Thời gian hoạt động ngầm kéo dài sau thiết quân luật làm cho các thành viên tham gia bị mệt mỏi, với nhiều lãnh đạo của Công đoàn bị bỏ tù. Tuy nhiên, cuối cùng chính quyền Ba Lan đã không có sự lựa chọn mà phải cư xử với Công đoàn như một tổ chức tái hợp pháp hóa trong bối cảnh kinh tế nghiêm trọng của đất nước, và cần đến sự chuẩn y và tham gia của nhiều tổ chức để thực hiện những cải cách triệt để. Như nhiều chính phủ trong khu vực bị buộc phải đàm phán do làn sóng gia tăng của phong trào quần chúng trong năm 1989, chính phủ Ba Lan vẫn nghĩ rằng họ có thể quản lý được một đối tác cấp dưới, nhưng các phong trào quần chúng rộng lớn trong xã hội vốn ủng hộ phe đối lập non trẻ đã quyết định tình hình khác đi.
Phạm trù "bất đồng chính kiến" đã và vẫn còn trong vòng tranh luận. Liệu các độc giả và các nhà sản xuất ra các ấn bản “samizdat” cũng là bất đồng chính kiến, hay chỉ những người đã viết các tài liệu này mới đóng một vai trò tích cực và công khai hơn? Liệu tiếp tục sử dụng thuật ngữ "bất đồng chính kiến" có hàm ý một quan hệ ngầm "chúng ta đối nghịch với họ" mà độc tài cộng sản vẫn áp dụng trong các kinh nghiệm của nó vốn là chỗ dung chứa cho những hành vi thích nghi đôi khí tới mức bệnh hoạn, hay nhiều khi là bàng quan cá nhân nhưng được ủng hộ công khai, cơ hội chủ nghĩa hay hoàn toàn trung thành với chế độ? Havel đã trào phúng về "bất đồng chính kiến" trong bài viết nổi tiếng của ông "Quyền lực của thảo dân” (Power of the powerless) khi ông mô tả người bất đồng chính kiến, và mở rộng ra, tới bản thân ông “như một phạm trù về công dân phụ bên ngoài thể chế quyền lực." Các nhà bất đồng chính kiến có thể được ca ngợi ở nước ngoài và nhận được các bình luận của giới nhà báo, đại sứ và hoạch định chính sách, nhưng họ thường bị coi là những cây bút và những kẻ bất tuân phục làm phức tạp hóa cuộc sống của những người xung quanh. Trong một xã hội cộng sản được bó lại với nhau bằng keo dính của hệ tư tưởng này, ở một mức độ nào đó, tất cả các công dân được yêu cầu phải "sống trong dối trá" và chấp nhận, cổ súy những gì được yêu cầu, bất kể là niềm tin thực sự hay chỉ để a dua. Bằng cách sống dối trá đó, như Havel đã nêu, "các cá nhân xác quyết thể chế, hoàn chỉnh thể chế, tạo lập thể chế, và chính là thể chế."
'Rắc rối lớn nhất'
"Rắc rối lớn nhất đối với Havel và những người khác là việc nhiều đồng nghiệp bất đồng chính kiến của họ vẫn tiếp tục một cuộc sống khác với sự dối trá, bằng cách tự báo cáo bí mật các hoạt động của mình cho cảnh sát chìm hay mật vụ"
Rắc rối lớn nhất đối với Havel và những người khác là việc nhiều đồng nghiệp bất đồng chính kiến của họ vẫn tiếp tục một cuộc sống khác với sự dối trá, bằng cách tự báo cáo bí mật các hoạt động của mình cho cảnh sát chìm hay mật vụ. Hành vi tốt nhất để chống lại điều khó tránh khỏi này là hoàn toàn minh bạch. Các tổ chức như Hiến chương 77 và Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan đã hoạt động hoàn toàn công khai, các nhà lãnh đạo và người phát ngôn của họ được công khai biết đến và công nhận. Tất cả các thông cáo và các ấn phẩm samizdat đều mang tên của họ. Trong chừng mực có thể, họ cố gắng hoạt động phù hợp với các chuẩn mực và giá trị mà họ ủng hộ, tiếp cận bằng sự đồng thuận, bằng công khai tranh luận và đưa ra các quan điểm khác nhau, đấu tranh cho các trình tự và tổng thể công bằng. Sự công khai trên thực tế là sách lược bảo hiểm tốt nhất của họ, trong khi bí hiểm, nước đôi có thể dẫn đến đặt điều, vu cáo hay bị tống tiền.
Tuy nhiên, vì sự theo dõi, kiểm duyệt và các mối đe dọa bắt giữ, tống giam tùy tiện của chính quyền luôn hiện diện, những người bất đồng chính kiến buộc phải rơi vào một thế giới của bất chắn và thông tin không đầy đủ. Các hoạt động của họ phụ thuộc vào một mức độ cao của tình bạn thân thiết và tin tưởng xã hội, nhưng điều này lại thường bị các tin đồn, nhỏ to, sự khác biệt chính trị, xung đột cá nhân và hành động khiêu khích có chủ ý làm xói mòn. Ngày nay chúng ta được biết qua nhiều tiết lộ và qua việc tiếp cận các hồ sơ mật vụ rằng một số người tham gia vào các phong trào bất đồng chính kiến đã báo cáo về hoạt động của những người khác. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần lưu ý rằng hành vi "báo cáo" có sự khác biệt đáng kể: không phải tất cả những người cung cấp thông tin đều cung cấp cùng một loại hình hoặc cùng tính chất thông tin, nhiều người đã bị chính quyền, chế độ cũ đe dọa và bị đặt dưới các áp lực, cưỡng bức cá nhân, do đó tính trung thực tương đối của các tập hồ sơ sẽ còn tiếp tục được mở ra cho các cuộc tranh luận. Và một số khác thì cố chơi trò hai mặt, thường làm cho việc dán nhãn một cá nhân cụ thể như một nhà "bất đồng chính kiến" hoặc người "chỉ điểm"… trở nên quá phức tạp.
Giai đoạn Hậu 1989
Cựu độc tài Romania Ceaucescu
Nhà cựu độc tài Nicolais Ceaucescu nắm quyền ở Romania từ 3/1974 đến 12/1989
Giai đoạn hậu 1989, nhiều nhà bất đồng chính kiến thường được coi không hoàn toàn xác đáng là các anh hùng hay về mặt lịch sử, là các nhà quán quân trong một câu chuyện kể vĩ đại, trong đó cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản là không thể tránh khỏi. Những người ăn mừng chiến thắng hậu chiến tranh lạnh cho rằng, mặc dù là thiểu số, những cá nhân tự hy sinh đứng lên, nói ra sự thật trước cường quyền, đã đóng góp một phần đáng khen ngợi và cần thiết trong thay đổi chế độ. Thực tế, tất nhiên phức tạp, lẫn lộn và khó tiên đoán hơn thế. Không có thời điểm nào mà bất kỳ các nhà bất đồng chính kiến hay những phong trào của họ cho thấy dân chủ hóa và tự do hóa trên quy mô lớn là có thể, hoặc rằng một kết thúc hòa bình cho cộng sản có thể xảy ra chỉ thông qua thương lượng.
Thật vậy, nhiều người đã bị những người biểu tình trẻ tuổi hay những thành viên cấp tiến cao độ chỉ trích rằng vào những thời điểm quan trọng trong năm 1989, họ đã không đi đủ xa hoặc không có hành động đủ nhanh. Nhưng thế hệ cũ của những người bất đồng chính kiến, dày dạn kinh nghiệm trong lịch sử quốc gia vốn từng trải qua nhiều chu kỳ sóng gió và đàn áp, đã tỏ ra thận trọng hơn. Ngày 04/6/1989 là ngày cuộc bầu cử tự do đầu tiên giành chiến thắng áp đảo trong vùng của Công đoàn Đoàn kết, nhưng nó cũng là khởi đầu của cuộc đàn áp của Bắc Kinh ở Quảng trường Thiên An Môn. Và trong khi nhiều nỗ lực kiên trì đàm phán đã thu được những kết quả quan trọng và lâu dài, như các cuộc đàm phán ở Hội nghị Bàn tròn ở Hungary và Ba Lan, không phải tất cả các nhà lãnh đạo cộng sản đều sẵn sàng đồng ý một cách hòa bình để đi tới thùng rác của lịch sử. Nicolai Ceauşescu của Romania là một trường hợp điển hình.
'Vai trò lịch sử'
"Nhiều nhà bất đồng chính kiến thường được lãng mạn hóa như các hình mẫu lý tưởng và cô đơn về lòng can đảm chính trị trên một đại dương mênh mông của sự cúi đầu tuân thủ"
Nhiều nhà bất đồng chính kiến thường được lãng mạn hóa như các hình mẫu lý tưởng và cô đơn về lòng can đảm chính trị trên một đại dương mênh mông của sự cúi đầu tuân thủ: một quan điểm đã không nhận được sự chấp nhận công khai hay trở nên nổi tiếng ngay lập tức trong thời kỳ hậu cộng sản. Bằng cách nào đó, chính sự tồn tại của điều này nhắc nhở những người khác rằng họ đã không có lập trường can đảm hoặc không chịu các rủi ro cá nhân: đã làm bất cứ điều gì phải làm để tồn tại, để thích ứng với thực tế thời buổi khi còn ít người cảm thấy đã được trao quyền lực để thách thức hay để nghĩ rằng có thể thay đổi. Nhiều người không phải là những siêu sao trí tuệ và các nhà hoạt động nổi tiếng nhất trong các phong trào đối lập đã bị lãng quên. Vai trò của các nhà bất đồng chính kiến trong sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn nhiều tranh luận. Các kỳ vọng của người tiêu dùng gia tăng, sự thất bại của nền kinh tế chỉ huy trì trệ, bế tắc tạo ra sự mọi mức độ nghiêm trọng để đi tới đổi mới hoặc cải cách, nhân tố "Gorbachev" và sự thiếu năng lực, vụng về của các nhà lãnh đạo mệt mỏi, tất cả đều có vai trò.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng các quốc gia có các phong trào rộng rãi và hiệu quả hơn về bất đồng chính kiến và các nhà lãnh đạo bất đồng đã có những kinh nghiệm tốt hơn về quá trình chuyển đổi kinh tế, tự do hóa và dân chủ hóa nền chính trị trong hai thập kỷ đầu tiên của giai đoạn hậu cộng sản. Đồng thời, các nước này, đặc biệt là Ba Lan, Hungary, bây giờ là nước Đức thống nhất, Cộng hòa Czech và Slovakia, đều có ít nhất một phần kinh nghiệm lịch sử hay các ví dụ về quá trình dân chủ hóa vốn giúp cho họ kết nối sâu sắc hơn với các truyền thống trí tuệ, tri thức và chính trị châu Âu và góp phần giúp cho các nước này định vị tốt hơn trong quá trình đi tới thành công. Tuy nhiên, các kinh nghiệm cũng giúp cho các chính trị gia và các nhân vật công chúng trong tương lai với tư cách những nhà bất đồng chính kiến về sau phát triển được những "kỹ năng" để phụng sự đất nước của họ tốt nhất: Václav Havel đã trở thành Tổng thống của Tiệp Khắc và sau đó là của Cộng hòa Czech, hay Adam Michnik trở thành Tổng biên tập lâu năm của Gazeta Wyborcza, tờ báo được Ba Lan trọng vọng.
Tác giả Barbara J. Falk là Phó Giáo sư làm việc tại Khoa Nghiên cứu Quốc phòng, thuộc viện Canada Forces Colleage và Trung tâm Nghiên cứu châu Âu, Nga và Á-Âu, thuộc Đại học Toronto. Bà có nhiều công trình nghiên cứu về các chủ đề từ chiến tranh lạnh, quan hệ quốc tế cho tới chính sách công ở châu Âu.




Copy từ: BBC


Kinh tế VN tăng trưởng chậm nhất từ 1999



Xuất khẩu tăng trong lúc bất động sản đọng vốn và ngân hàng nhiều nợ xấu.
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức chậm nhất trong 13 năm vào năm 2012 trong bối cảnh quý Tư không đạt được tăng trưởng mạnh do khối ngân hàng hạn chế cho vay và nhu cầu nội địa thấp.
GDP tăng 5.03% trong năm 2012 so với tăng trưởng năm 2011 là 5.89%, là mức tăng trưởng kinh tế thấp nhất là 4.77% vào năm 1999, Tổng Cục thống Kê cho biết.
Tăng trưởng vào quí Tư đạt 5.44% trong bối cảnh nền kinh tế bị ảnh hưởng do ngân hàng hạn chế cho vày vì nợ xấu và thiếu vốn.
Trong khi đó xuất khẩu lại giúp đà tăng trưởng bớt chậm lại trong bối cảnh Việt Nam lần đầu tiên xuất siêu trong hai thập niên.
“Xuất khẩu bù đắp cho nhu cầu nội địa chậm,” kinh tế gia Jonathan Pincus, Giám đốc Đào tạo Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại Tp HCM, được hãng tin tài chính Bloomberg dẫn lời.
"Kết quả như vậy cũng không quá tồi khi xét tới việc giảm thiểu các tác động liên quan, mặc dù về lâu dài thì đây không phải là kiểu tăng trưởng mà Việt Nam muốn duy trì"
Jonathan Pincus, Hiệu trưởng Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại Tp HCM
"Kết quả như vậy cũng không quá tồi khi xét tới việc giảm thiểu các tác động liên quan, mặc dù về lâu dài thì đây không phải là kiểu tăng trưởng mà Việt Nam muốn duy trì.”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào ngày 10/12/2012 nói tăng trưởng có thể đạt 5.2% vào năm nay.
Số liệu sơ bộ từ Tổng cục Thống kê cho thấy Việt Nam xuất siêu 284 triệu USD trong năm 2012.
Lần gần nhất Việt Nam có thặng dư mậu dịch là vào năm 1992.
Xuất khẩu tăng 18.3%, đạt mức 114.6 tỷ USD vào năm 2012, trong khi nhập khẩu tăng 7.1%, đạt mức 114.3 tỷ đôla.
Ngân hàng Nhà nước nói hôm 21/12/2012 rằng họ sẽ hạ mức tái cấp vốn từ 10% xuống 9%, là lần cắt giảm thứ sáu trong năm nay so với mức tái cấp vốn đầu năm nay là 15%.
Lạm phát vào tháng 12 chậm lại lần đầu tiên trong bốn tháng qua, là cơ sở đề Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất nhằm hỗ trợ cho tăng trưởng, theo Bloomberg.
Trong khi đó một nhà nghiên cứu tại Khoa châu Á và Quốc tế tại Đại học Hong Kong, nhận định điều được xem là “Bộ máy Nhà nước đang trong trạng thái hơi bị chết đứng,”
Ông Jonathan London được hãng thông tấn Bấm AFP dẫn lời nói trong bài phân tích vào hôm 23/12 rằng Hà Nội phải cải cách khu vực kinh tế nhà nước, tái cơ cấu khu vực ngân hàng và chống tham nhũng”.
Việt Nam cần những nhà lãnh đạo có thể chặn đứng các nhóm lợi ích đầy quyền lực – từ các tổ chức quân đội, các tập đoàn Nhà nước cho đến các quan chức địa phương – tự tung tự tác để đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo, phân tích gia Jonathan London nói.
“Hiện không rõ liệu ai có thể làm được điều này,” ông nói thêm.





Copy từ: BBC


Lời nói cuối đời.





  Cụ ông kia trong lúc sắp rời khỏi cõi trần, gọi cụ bà lại lấy chút hơi tàn mà nói:
-         Anh rất hạnh phúc khi được sống bên em.
Nghe vậy bà cụ òa khóc thật to:
-         Ối anh ơi! Em đã chờ đợi câu nói này của anh từ rất lâu. Giờ này anh mới chịu nói ra cái điều mà lão hàng xóm hay nói với em.

                                 ------------------------------------

  Khi bạn được ai đó tặng một cái bánh ngon. Hãy có lời khen ngay từ khi cắn miếng bánh đầu tiên, đừng chờ đến khi bạn ăn xong cả cái bánh rồi mới khen với  họ rằng bánh ngon.
  Và quan trọng hơn nữa là đừng để người khác nói giùm bạn.
  Đọc đến đây,  bạn còn chưa chịu rời máy đi tìm người thân của bạn sao? Hãy nói lên điều mà họ đang chờ đợi, bạn nhé. 




  

Mừng Giáng Sinh 2012

Photobucket