CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Khốn thay cho nền giáo dục và cơ đồ đất nước

Qua hiện tượng Từ Ngọc Lương: Khốn thay cho nền giáo dục và cơ đồ đất nước



Tờ Quận đội Nhân Dân, một tờ báo lâu nay nổi tiếng là “bỏ hình, bắt bóng” trong làng báo chí Việt Nam. Sở dĩ nó được phong cho đặc tính trên, không hẳn vì đặc thù của quân đội, của phòng không hay không quân nghe nó cao siêu hay bí hiểm. Chỉ vì ai cũng biết rằng đã là Quân đội Nhân dân, thì nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của nó phải là bảo vệ đất nước, bảo vệ lãnh thổ và bảo vệ Nhân dân. Thế nhưng, nó đã không coi nhiệm vụ chính yếu đó là quan trọng. 

Tờ báo mang tên hay mạo danh “Quân đội Nhân Dân”?
 
Nó mặc cho Trung Cộng đang chiếm Hoàng Sa mấy chục năm nay, nó kệ cho bọn Bành trướng Bắc Kinh xua quân đánh chiếm từng phần Trường Sa của Việt Nam và đang nhung nhúc ở đó.
Nó kệ cho ngư dân Việt Nam đang ngày đêm bị bắn giết, bị bắt bớ, thậm chí muốn làm ăn sinh sống trên biển Việt Nam phải treo cờ và mua “giấy phép” của Trung Cộng.

Nó mặc cho “đội quân bành trướng thứ 5” – theo ngôn ngữ của đảng cộng sản – tung hoành, cắm chốt khắp nơi, từ điểm hiểm yếu chiến lược tới tận cùng Tổ Quốc. 

Hẳn nhiên, là nó luôn luôn kêu gào cho cái phong trào “Học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Nhưng, câu nói của Hồ Chí Minh “Hễ còn một tên xâm lược nào trên đất nước chúng ta, thì ta còn phải chiến đấu, quét sạch nó đi” thì hoặc nó không nói tới, không liên hệ tới với bất cứ trường hợp hiện tại, thực tiễn nào. Trong trường hợp có nói tới chỉ khi nó hợp tự hào về một dĩ vãng “vinh quang” của cuộc chiến Bắc – Nam khốc liệt – Một cách “thủ dâm” bằng hào quang tưởng tượng của quá khứ.

Thậm chí, nó tưng bừng đăng tin Bộ Trưởng Quốc Phòng hoan hỉ, sung sướng biết ơn Trung Cộng, khi quân lính Trung Cộng đang giày xéo đất đai Tổ Quốc. 

Những năm gần đây, nó quay sang tìm đánh “các thế lực thù địch” trong nhân dân làm nhiệm vụ chính. 

Nó ngang nhiên kết tội nhân dân khi người dân bày tỏ ý kiến mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Nó ngang nhiên tước đoạt, ngụy biện để lấp liếm những quyền lợi chính đáng của người dân. Không những không bảo vệ dân khi bị cướp bóc, nó còn vào hùa với những kẻ cướp đất đai, tài sản của nhân dân.

Nó ngang nhiên bỏ nhiệm vụ chính là bảo vệ nhân dân, khi nó vẫn ăn cơm dân, mặc áo dân và phè phỡn trên xương máu nhân dân đang ngày ngày góp từng đồng xu nhỏ nuôi nó để bảo vệ những thế lực đang hà hiếp, chống lại nhân dân.

Và nó bằng nhiều cách, kể cả vô liêm sỉ, phản khoa học, phi logic và hài hước, không xấu hổ nhất nhằm bảo vệ những luận điểm cùn mằn, hạ cấp của nó qua các luận điệu, các bài báo nó đưa lên.

Từ hiện tượng… bảo vệ sổ hưu

Hiện tượng Trần Đăng Thanh - Đại tá, Phó Gíáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú, công tác ở Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng - đã làm rung động cộng đồng mạng một thời gian dài. Nó cho thấy não trạng “làm mọi cách để bảo vệ bằng được Tổ quốc Việt Nam XHCN” của các sỹ quan và cán bộ hiện nay là gì. Tất cả là chỉ để “bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu”. Chỉ có thế.
Nghĩa là, nếu cái sổ hưu kia không còn, hoặc vơi bớt đi, thì Tổ Quốc cũng đi tong.

Đến hiện tượng… suy đồi nhận thức và giáo dục

Tưởng như quân đội nhân dân Việt Nam “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, anh hùng, sáng suốt thì hiện tượng Trần Đăng Thanh nói trên, chỉ là cá biệt. Nào ngờ, càng ngày, tờ báo này càng có dịp chứng minh nguồn cán bộ mang bộ não như Trần Đăng Thanh là không hiếm. Thậm chí còn ở chức vụ cao hơn, càng thiếu tư duy hơn. Mới đây, đó là hiện tượng Từ Ngọc Lương – Thiếu tướng, Tiến sĩ, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2, Đại học Nguyễn Huệ.
Trong bài viết trên tờ QĐND nói trên, ông TS này đã lớn tiếng mắng mỏ một vị cộng sản gộc, lão thành cách mạng có cả tuổi đời, tuổi đảng mà Từ Ngọc Lương phải gọi bằng… bố. Rằng thì là “tôi cho rằng ông Đằng “biết một mà chẳng biết hai, thấy cây mà không thấy rừng”.

Bằng căn bệnh mà cô bé Phương Uyên đã phải nói thẳng thắn vào mặt Tòa án Long An rằng “Đừng đánh đồng”, ông ta gán cái ý nghĩ quái gỡ của ông rằng “sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là lựa chọn đúng đắn” lại “là ước nguyện của đại bộ phận nhân dân”. Thử hỏi ông Lương rằng ông đã hỏi được mấy người dân, ông lấy tư cách gì để khẳng định rằng đó là “ước nguyện của đại bộ phận nhân dân”. Đại bộ phận nhân dân đó gồm những ai?  

Cái thói cả vú lấp miệng em hay cái thói hô hào dốt nát không biết ngượng trước thiên hạ, ông Ts này đã dẫn chứng bằng vụ lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp vừa qua. Đến đây, hẳn người đọc không thể không bật cười với cái cơ sự “biết một không biết hai, thấy cây mà không thấy rừng” của ông ta. Bởi nếu ông tả có đủ chút tỉnh táo, hãy lấy xe nhà trường, sang ngay bên tỉnh Bình Dương bên cạnh mà hỏi về con số hơn 44 triệu ý kiến góp ý sửa đổi Hiến Pháp để xem cái trò “đại bộ phận nhân dân” được diễn ra sao ông nhé. Còn nếu ông không đủ thời gian, vì bận nhậu nhẹt đâu đó, mời ông vào ĐÂY mà đọc. Hãy đọc đi, bởi nhiều khi không ai buộc ông phải nói cho thiên hạ biết là mình bị điếc.

Đúng là cha ông ta nói cấm có sai, rằng “kẻ điếc hay hóng, kẻ ngọng hay nói”. Hãy nghe ông độc diễn “Thời điểm đó, ở Việt Nam đang tồn tại khá nhiều đảng phái, nhưng thử hỏi đảng nào đã đứng ra lãnh đạo quần chúng nhân dân lật đổ chế độ áp bức, đô hộ, xâm lăng? Chính là Đảng Cộng sản”

Tại sao ông không nghĩ đến được điều đơn giản sau đây: Đảng ta quang vinh thế, vĩ đại thế, giỏi giang thế, sao không đủ gan dám để cùng các đảng phái khác như ở thời điểm đó, nhân dân sẽ tự biết chọn ai là vàng, ai là thau. Cần gì phải ghi vào luật rằng tao là bố mày và ai dám động đến điều đó thì nhà tù chờ sẵn? Điều đó nói lên cái gì? Là sự quang vinh, quang minh hay bất minh?

Tại sao ông không ngượng khi viết rằng Đảng CS đã “lãnh đạo quần chúng nhân dân lật đổ chế độ áp bức, đô hộ, xâm lăng” khi ngoài kia, hải đảo, biên giới, lãnh thổ đang được cắm cờ Trung Cộng. Thậm chí, Hoàng Sa – Trường Sa đang nằm trong tay quân xâm lược. Kẻ thù đất nước, dân tộc đang ngày đêm giày xéo quê hương, Tổ Quốc. Ông không biết hoặc không cần biết, mà ông chỉ cần “bảo vệ cái sổ hưu” như Trần Đăng Thanh đã huỵch toẹt ra bằng những lời lẽ mị dân sống sượng? Thưa ông Ts Từ Ngọc Lương.

Điều hài hước ở đây, là ông nói “Và ngay từ ngày đó, những người dân Việt Nam chân chính đã tự biết mình cần đảng nào và tin theo, đi theo đảng nào”. Khi mà ngay hiện nay, khi cả nhân loại đang ở thế kỷ 21, với đầy đủ kỹ thuật, công nghệ làm thay đổi cơ bản thế giới, thì não trạng của ông Tiến sĩ vẫn dừng ở trò tháu cáy những năm 1945 của thế kỷ trước?

Mang chức danh Hiệu trưởng có dưới tay mình đến 4 Phó Giáo sư, 44 Tiến sĩ, 236 thạc sĩ mà ông không có nổi một người giúp ông cập nhật thông tin sự thật, thì đó quả là đại họa cho Quân đội và nền giáo dục nước nhà. Nếu ông chỉ suốt ngày cứ mụ mị vào sự quang vinh, cứ vẫn dựa vào những trò thủ dâm chính trị với hào quang, ảo vọng của quá khứ tự mình tô vẽ ra, thì đó là đại họa cho đất nước. Thà ông trở về với vị trí của mình là một con vẹt, chỉ để hót mà thôi.

Sự tai hại không chỉ ở kiến thức cập nhật, ở nhận thức mà sự tai hại ở đây, với tư cách một Hiệu trưởng một trường Đại học Quân sự. Ở đó đào tạo ra các sĩ quan cho quân đội Nhân dân mà ngay cả hiệu trưởng cũng thiếu những nét văn hóa tối thiểu của một con người bình thường, chứ chưa nói đến những tư cách mà một thầy giáo, một tiến sĩ, nhất là một hiệu trưởng cần có. Trong bài viết, ông rất xách mé với một lão đồng chí cộng sản của ông, xưng hô không cần họ tên, không cần trịnh trọng mà một hai cứ “ông Đằng”. Đó có phải là sự tôn trọng tối thiểu mà các đảng viên cộng sản phải dành cho nhau? Đó có phải là sự mẫu mực cần có của một thầy giáo trước học sinh rằng phải “yêu trẻ, kính già” chứ chưa cần nói là một sĩ quan, một tướng lĩnh quân đội? 

Trong bài báo này, ông Thiếu Tướng Từ Ngọc Lương này cũng cùng đồng hạng với một đảng viên sinh viên tự giới thiệu là “tuổi Đảng của tôi chưa bằng 1/10 so với của ông” (Lê Hiếu Đằng) – nghĩa là ở cái tuổi vắt mũi chưa sạch -  để cùng hòa giọng chửi bới một lão thành cộng sản. Quả là đáng nể tinh thần đồng chí, đồng đội và đạo đức của người Cộng sản Việt Nam. Và họ dùng chính tờ Quân đội Nhân Dân để thóa mạ, chửi bới lẫn nhau. Họ đã vượt xa những chuẩn mực đạo đức thông thường cần có.

Thực ra, cũng không có gì là lạ, câu kết luận của ông Ts Thiếu tướng Từ Ngọc Lương đã nói lên tất cả bản chất của ông, từ suy nghĩ, hành động và lời nói. Rằng ông đã tiếc cho ông Lê Hiếu Đằng rằng “đã đánh mất tất cả. Thật đáng tiếc!”

Song điều mà ông Từ Ngọc Lương không bao giờ hiểu được là có những người chấp nhận mất tất cả, không chỉ “sổ hưu”, mà cả tù tội, cả oan trái… thậm chí là mất mạng. Chỉ để một lần được nói lên tiếng nói chân thật, suy nghĩ chân thành tự trái tim, khối óc của một kiếp được gọi là CON NGƯỜI.


Hà Nội, 22/8/2013
J.B Nguyễn Hữu Vinh


Copy từ: J.B Nguyễn Hữu Vinh (RFA’ blog)




..............................

Chính sách nhân quyền mâu thuẫn của Việt Nam

Tổng thống Mỹ Barack Obama (P) tiếp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng hôm 25/07/ 2013.)
Tổng thống Mỹ Barack Obama (P) tiếp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng hôm 25/07/ 2013.)
REUTERS/Yuri Gripas

RFI
Chính sách nhân quyền của Việt Nam được đánh dấu bằng những mâu thuẫn và nghịch lý, thể hiện qua việc tăng cường mở cửa nhưng tiếp tục trấn áp những tiếng nói bất đồng chính kiến. Để làm rõ vấn đề này, giáo sư Carlyle Thayer đưa ra ba giả thuyết. Bài viết được đăng trên trang web Asian Currents thuộc Hiệp hội nghiên cứu Châu Á của Úc, tháng Tám năm 2013.

Bất kỳ đánh giá nào về nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đều phải đối mặt với những mâu thuẫn trong việc thực hiện chính sách và nghịch lý lớn.

Hiến pháp Việt Nam năm 1992 có điều khoản về tự do ngôn luận. Điều 69 quy định « Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật ». Mâu thuẫn trong thực hiện chính sách phát sinh từ Điều 4 về việc thành lập một hệ thống chính trị độc đảng. Điều này quy định, « Đảng Cộng sản Việt Nam ... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội ».

Đồng thời Việt Nam phải đối mặt với một nghịch lý lớn. Kể từ đại hội Đảng gần đây nhất được tổ chức vào đầu năm 2011, Việt Nam đã tìm cách chủ động hội nhập vào hệ thống toàn cầu. Do tìm cách mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ và Châu Âu, Việt Nam đã phải chịu áp lực yêu cầu cải thiện tình hình nhân quyền.

Ví dụ, Quyền Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, ông Joseph Yun, đã điều trần trước Tiểu ban Châu Á và Thái Bình Dương, Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện ngày 05/06 : Chúng tôi đã nhấn mạnh với các lãnh đạo Việt Nam rằng người dân Mỹ sẽ không hỗ trợ việc nâng cấp đáng kể mối quan hệ song phương nếu không có những tiến bộ rõ ràng về nhân quyền. Các quan chức khác của Mỹ đã gắn vấn đề bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí và đạt thoả thuận về Hiệp định Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với « những tiến bộ rõ ràng về nhân quyền ».

Nghịch lý lớn là ở chỗ tình hình nhân quyền Việt Nam đã trở nên tồi tệ, không được cải thiện trong những năm gần đây, do đó gây khó khăn hơn cho mục tiêu tự đề ra là chủ động hội nhập quốc tế.

Bởi vì Việt Nam là một Nhà nước độc đảng không có cơ quan độc lập để bảo đảm là các quyền tự do nêu trong Điều 69 được tôn trọng. Những mâu thuẫn vốn có của thực tế chính trị này đã dẫn đến tình hình hiện nay, mở cửa chính trị chưa từng thấy thông qua internet và trấn áp cùng đồng thời tồn tại.

Trong đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam, trong năm 2012, Tổ chức Ân xá Quốc tế đã kết luận thẳng thừng: Việc đàn áp những người chỉ trích chính phủ và các nhà hoạt động trở nên tồi tệ, với những hạn chế nghiêm trọng về tự do ngôn luận, hội họp. Ít nhất 25 nhà bất đồng chính kiến ​​ôn hòa, bao gồm cả blogger và nhạc sĩ, đã bị kết án tù nhiều năm trong 14 vụ xét xử không theo chuẩn mực quốc tế.

Đồng thanh với kết luận này, báo cáo hàng năm về nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ cũng đề cập đến các sự kiện trong năm 2012, ghi nhận là « có một xu hướng đàn áp và khủng bố ngầm do Nhà nước yểm trợ nhắm vào những cá nhân có các phát biểu vượt qua ranh giới và đề cập đến các vấn đề nhạy cảm như chỉ trích các chính sách đối ngoại của Nhà nước liên quan đến Trung Quốc hoặc chất vấn về sự độc quyền nắm giữ quyền lực của Đảng Cộng sản ». Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng nhận thấy là « ở bề ngoài, ngôn luận cá nhân, báo chí công khai, và thậm chí phát biểu chính trị tại Việt Nam cho thấy có những dấu hiệu tự do hơn ».

Một đánh giá về sự phát triển quyền con người ở Việt Nam trong nửa đầu năm 2013 cho thấy vẫn tiếp tục có những mâu thuẫn trong thực hiện chính sách nhân quyền của Việt Nam và nghịch lý của việc vừa tìm kiếm gia tăng cam kết với Hoa Kỳ vừa đẩy mạnh đàn áp các nhà hoạt động nhân quyền trong cùng một thời gian.

Vào cuối năm 2012, cuộc đàn áp của Việt Nam đối với các nhà bất đồng chính kiến đã khiến Hoa Kỳ đột ngột hủy bỏ tham gia vào các cuộc đối thoại nhân quyền hàng năm với Việt Nam tại Hà Nội. Cuộc đối thoại này đã được tổ chức vào tháng Tư năm 2013. Đại diện của Hoa Kỳ là ông Daniel Baer, ​​Quyền Phó Trợ lý Ngoại trưởng về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động. Trong chuyến thăm này, ông đã bị ngăn chặn, không cho gặp những người bất đồng nổi tiếng Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) và Phạm Hồng Sơn.

Hai tháng sau, ông Baer điều trần trước Tiểu ban Châu Á và Thái Bình Dương, Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ và lưu ý đến những mâu thuẫn trong việc thực hiện nhân quyền của Việt Nam. Một mặt, ông Baer ghi nhận : Các bước tích cực như việc thả nhà hoạt động Lê Công Định (cho dù đi kèm với những hạn chế tự do), tạo thuận lợi cho một tổ chức nhân quyền quốc tế thăm Việt Nam, và số lượng đăng ký hoạt động công giáo gia tăng một cách khiêm tốn ở Tây Nguyên ... các cuộc thảo luận giữa Chính phủ và Tòa thánh Vatican, và cũng như diễn biến tích cực tiềm tàng trong vấn đề nhân quyền cho những người LGBT [đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng giới, hoán tính/chuyển đổi giới tính] ... [và] tràn ngập ý kiến của ​​công chúng về dự thảo Hiến pháp ...

Mặt khác, ông Baer kết luận : Thế nhưng, những bước tiến này không đủ để đảo ngược xu hướng tồi tệ kéo dài trong những năm qua. Cũng không có các biện pháp tích cực riêng rẽ tạo dựng một mô hình phù hợp. Với số lượng ngày càng tăng, các blogger tiếp tục bị quấy rối và bị bỏ tù vì những phát biểu ôn hòa trên mạng và các nhà hoạt động tiếp tục phải sống dưới đám mây đen ...

Giờ đây thì mọi người biết rằng, vào cuối tháng Ba và tháng Tư năm 2013, các quan chức Mỹ và Việt Nam đã bắt đầu thảo luận về chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chuyến thăm đầu tiên của một nguyên thủ Việt Nam kể từ sáu năm qua. Hoa Kỳ chính thức ngỏ lời mời vào tháng Bảy và Việt Nam đã chấp nhận. Không có bằng chứng cho thấy Việt Nam đã tìm cách dàn xếp chuyến thăm của ông Sang bằng cách thả bất kỳ các nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng nào. Có một dấu hiệu mong manh. Ngày 08/07, chính quyền Việt Nam đột ngột hoãn phiên tòa xét xử nhà hoạt động vì dân chủ nổi tiếng, luật sư Lê Quốc Quân.

Tuy nhiên, vẫn trong sự mâu thuẫn, Việt Nam tiếp tục đàn áp các nhà bất đồng chính kiến, có thể gây ra rủi ro cho chuyến viếng thăm Washington của Chủ tịch Sang. Trong hai tháng Năm - Sáu, Việt Nam kết án và áp đặt bản án khắc nghiệt đối với hai sinh viên đại học (Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha) và bắt giữ ba blogger nổi tiếng (Đinh Nhật Uy, Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào), nâng tổng số tù nhân chính trị và các blogger bị bắt trong nửa đầu năm 2013 lên tới 46 người.

Tổng thống Obama và Chủ tịch Sang đã gặp nhau tại Nhà Trắng ngày 25 tháng Bảy. Trong cuộc họp báo chung, Tổng thống Obama tuyên bố, "chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện rất thẳng thắn về sự tiến bộ mà Việt Nam đang thực hiện và những thách thức tồn tại". Ông Sang thừa nhận sự khác biệt và tiết lộ rằng Tổng thống Obama hứa sẽ làm hết sức mình để tới thăm Việt Nam trước khi hết nhiệm kỳ.

Một tuyên bố chung được công bố sau cuộc gặp, xếp vấn đề nhân quyền đứng hàng thứ tám trong số chín chủ đề thảo luận. Hai nhà lãnh đạo ghi nhận lợi ích của đối thoại thẳng thắn và cởi mở để tăng cường hiểu biết lẫn nhau và thu hẹp các bất đồng về nhân quyền. Không thấy đề cập đến những vấn đề nhân quyền mà Tổng thống Obama nêu lên. Điểm thứ tám của tuyên bố chung dành bảy trong chín dòng để tổng kết những gì Chủ tịch Sang đã thảo luận với đồng nhiệm Mỹ. Đáng chú ý, Chủ tịch Sang khẳng định rằng Việt Nam sẽ ký Công ước Liên Hiệp Quốc chống tra tấn và sẽ mời Báo cáo viên Đặc biệt về Tự do Tôn giáo và Tín ngưỡng đến thăm Việt Nam vào năm 2014.

Chuyến thăm của Chủ tịch Sang đã bị lu mờ bởi một cuộc tuyệt thực kéo dài của nhà hoạt động chính trị Nguyễn Văn Hải. Ông Hải thành lập Câu lạc bộ các Nhà báo tự do và hoạt động vì nhân quyền và cải cách dân chủ. Mặc dù có các quy định về tự do ngôn luận trong Hiến pháp, ông đã bị kết án tù 12 năm vì tiến hành « tuyên truyền chống lại Nhà nước xã hội chủ nghĩa » thông qua các blog trên internet và các bài trên các đài phát thanh nước ngoài. Khi ông Hải bị bắt giam, Tổng thống Obama công khai kêu gọi trả tự do cho ông.

Ông Hải bắt đầu tuyệt thực vào cuối tháng Sáu để phản đối cách đối xử với ông ở trong tù, trong đó có việc kéo dài thời gian biệt giam. Hai ngày sau khi Chu tịch Sang kết thúc chuyến thăm Mỹ của ông, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao của Việt Nam thông báo là họ sẽ điều tra những lời tố cáo của ông Hải. Ông Hải đã chấm dứt cuộc tuyệt thực vốn kéo dài trong 35 ngày.
Vậy làm thế nào có thể giải thích những mâu thuẫn trong việc thực hiện chính sách nhân quyền của Việt Nam ? Hơn nữa, làm thế nào có thể giải thích được nghịch lý là Việt Nam tìm cách gia tăng quan hệ với Mỹ đồng thời cùng lúc lại đẩy mạnh trấn áp ?

Có thể có ba giải thích, nhưng chúng không loại trừ lẫn nhau, về những mâu thuẫn và nghịch lý của Việt Nam.

Trước tiên, việc tiếp tục đàn áp chính trị là kết quả của quá trình quan liêu của Bộ Công an (MPS). Khi một nhà hoạt động chính trị thu hút sự chú ý, Bộ Công an thường bắt đầu lập hồ sơ qua việc thu thập chứng cứ. Sau khi Bộ Công an xác định rằng một nhà bất đồng chính kiến đã vi phạm luật an ninh quốc gia được diễn đạt một cách mơ hồ của Việt Nam, cơ quan này bắt đầu một chiến dịch đe dọa và sách nhiễu nhà bất đồng chính kiến ​​và gia đình, bạn bè của người bất đồng chính kiến. Nếu nhà bất đồng chính kiến ​​từ chối sự kiềm tỏa của Bộ Công an, thì bộ này tìm kiếm sự chấp thuận của cấp có thẩm quyền cao hơn để bắt giữ và tổ chức một phiên tòa.

Tại sao một số người chống đối bị đàn áp trong khi những người khác được phép phát biểu ý kiến ​​tương tự mà không bị trả thù? Nói cách khác, tại sao lại có sự mâu thuẫn giữa gia tăng mở cửa và tiếp tục đàn áp?

Việt Nam công khai thúc đẩy mạng Internet và khuyến khích các công dân nói lên một số vấn đề. Tuy nhiên, các nhà bất đồng chính kiến ​​sẽ là đối tượng bị trấn áp nếu họ vượt qua lằn ranh đỏ mà ai cũng biết như tiếp xúc với người Việt hải ngoại, đặc biệt là các nhóm hoạt động chính trị như Việt Tân mà chế độ coi là phản động. Tóm lại, Bộ Công an kết luận rằng những nhà bất đồng chính kiến ​​là một bộ phận của "âm mưu diễn biến hòa bình", theo đó các lực lượng thù địch bên ngoài liên kết với bọn phản động trong nước để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Một giải thích khác cho rằng sự mâu thuẫn trong việc đồng thời mở cửa và trấn áp là đấu đá trong nội bộ Đảng Cộng sản. Các nhà bất đồng chính kiến, đặc biệt là các blogger, nêu các vấn đề nhạy cảm liên quan đến tham nhũng, gia đình trị và lợi ích kinh doanh của các nhân vật chính trị hàng đầu. Trong những trường hợp này, các nhà bất đồng chính kiến ​​bị lôi ra để trừng phạt theo lệnh của các quan chức cao cấp của Đảng hay những người ủng hộ họ. Nói cách khác, các tính toán cân nhắc chính trị nội bộ là động lực chính của hoạt động trấn áp.

Giải thích thứ ba cho rằng việc đàn áp chính trị gia tăng tại Việt Nam được chỉ đạo bởi những người bảo thủ trong Đảng tìm cách cản trở gây rối, nếu như không phá hoại, sự phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ, đặc biệt là trong lĩnh vực quốc phòng-an ninh. Ví dụ, người ta cho rằng các nhân vật bảo thủ trong Đảng chỉ huy cuộc đàn áp các blogger hồi tháng Sáu, để phá hoại chuyến thăm Washington đầu tiên của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Các nhân vật bảo thủ trong Đảng sợ rằng quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ sẽ làm cho quan hệ với Trung Quốc xấu thêm. Đặc biệt, họ nhắm vào các blogger và các nhà hoạt động, những người chỉ trích việc xử lý mối quan hệ với Trung Quốc của chính phủ. Các nhân vật bảo thủ trong Đảng bác bỏ áp lực của Mỹ về nhân quyền, kêu gọi Hoa Kỳ gia tăng tài trợ để giải quyết những di sản chiến tranh bom mìn và chất độc da cam, và đòi Mỹ chấm dứt phân biệt đối xử cấm vận vũ khí. Lời giải thích thứ ba này giải thích nghịch lý của việc vì sao Việt Nam không giải quyết hồ sơ nhân quyền để củng cố quan hệ quốc phòng với Hoa Kỳ trong bối cảnh có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông.

(Carlyle A. Thayer là Giáo sư danh dự, Đại học New South Wales ở Úc Học viện Quốc phòng).


Copy từ: RFI

Nỗi sợ nhân dân bấm máy


Theo một số báo trong nước đưa tin: “Cục CSGT đường bộ, đường sắt (Bộ Công an) đã ra văn bản gửi Trưởng phòng CSGT các tỉnh, TP chỉ đạo về việc “Giả danh nhà báo ghi hình CSGT”. Nội dung văn bản này đang khiến bất kỳ ai đọc cũng có thể hiểu là từ sau khi có chỉ đạo này thì công dân, nhà báo sẽ không được ghi hình CSGT đang làm nhiệm vụ? Ngày 26/4, Đại tá Trần Sơn Hà, Phó Cục trưởng Cục CSGT đường bộ, đường sắt (Bộ Công an) đã ký văn bản số 1042/C67-P3 gửi Trưởng phòng CSGT công an các tỉnh, TP trực thuộc trung ương về việc “Giả danh nhà báo ghi hình CSGT”. 

 Trong văn bản này có đoạn: “Luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm rõ với những đối tượng có lời nói đe dọa, lăng mạ hoặc có hành vi chống đối CSGT đang thực thi công vụ hoặc quay phim chụp ảnh hoạt động TTKS, XLVP khi chưa được sự đồng ý của CSGT đang làm nhiệm vụ. Nếu đúng là nhà báo thì tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản, nếu giả danh nhà báo thì tạm giữ, lập hồ sơ chuyển cơ quan chức năng xử lý theo quy định của pháp luật”. 

Trong nội dung trên, cho ra hai hướng suy luận và hai câu hỏi nổi cộm: Đây là một kiểu văn bản của một loại quan lại dốt nát, không hiểu biết pháp luật đã cố tình che giấu sự tham lam của bản thân và đội ngũ dưới quyền? 

Hoặc là đây là một thứ văn bản của người hiểu luật nhưng cố tình che đậy sự sai trái vốn gây nhức nhối trong nhân dân lâu nay của ngành công an giao thông? Có thể nói, cả hai câu hỏi đều có chung một đáp án, đó là: Tham lam và ngu dốt. Chuyện tham lam của giới quan chức Việt Nam thì miễn bàn rồi, nó càng lúc càng tàn bạo, cộm cán và quyết liệt, thậm chí liều lĩnh. 

Chuyện ngành công an giao thông ra đứng đường để đón khách, bắt khách bất kì, làm tiền bất kì bằng nhiều kiểu vừa vô văn hóa vừa vô luật pháp lại vừa vô nhân tính thì đầy rẫy ngoài đường. Trước đây, nhân dân còn ngại, sợ, không dám quay phim, chụp ảnh để ghi lại bằng chứng mặc dù không có luật nào cấm họ làm điều này. Còn bây giờ, người dân sẳn sàng đối mặt, sẵn sàng bấm máy để lấy bằng chứng, tố giác tội của ngành công an nói chung và công an giao thông nói riêng. Đã có quá nhiều video trên you tube, trên facebook, trên twitter và nhiều trang mạng xã hội khác phơi bày bộ mặt tham lam của ngành này. Và cũng có không ít các phóng sự, tin ngắn đăng trên các báo trong và ngoài nước phản ánh hiện tượng tiêu cực, thối nát này. Chính vì sự dũng cảm của nhân dân, trong nhiều tháng qua, lực lượng đứng đường của ngành công an giao thông giảm hẳn, thu nhập mỗi ngày của ngành này thông qua việc chặn xe, hù dọa và móc túi dân cũng giảm tỉ lệ. 

Điều đó khiến ngành công an giao thông đứng trước nguy cơ sập tiệm vì lượng nhân viên quá đông nhưng ngân quĩ thiếu hụt, và nếu để kéo dài “tình trạng” này, sẽ dẫn đến nguy cơ bắt buộc phải chấn chỉnh lại đội ngũ cũng như phương cách làm việc nhằm mang lại hiệu quả đích thực cho ngành công an giao thông. Mà một khi chấn chỉnh theo xu hướng này, sẽ có hàng ngàn công an giao thông bị thất nghiệp và khoản thu nhập mỗi ngày bị eo hẹp, đời sống thiếu thốn (vì vốn quen tiêu xài xả láng bằng đồng tiền bất chính trước đây).

Và kinh khủng hơn nữa là sẽ có rất nhiều lá đơn tố giác cấp trên của ngành này. Lý do tố giác sẽ là cấp trên đã hứa để họ ra đứng trạm A, B, C… Z… nào đó để lấy lại khoản mà trước đây họ đã chung chi cho cấp trên. Nhưng cấp trên đã không giữ lời hứa, không cho họ ra đứng đường, số tiền vài trăm triệu đồng để mua trạm của họ xem như mất trắng, buộc cấp trên phải rớt chức để hả giận mà cũng rất có thể là để bản thân họ thăng tiến theo diện thi đua, khen thưởng, trong sạch… 

Không còn cách nào khác, ông Trần Sơn Hà buộc phải đưa ra quyết định vừa ngu ngốc, vừa trái luật, vừa đi ngược với văn minh như thế. Cái văn bản số 1042/C67-P3 của ông Trần Sơn Hà có ngu ngốc không? Có thể nói là đứng trên góc độ nhân dân hay đứng trên cương vị của đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thấy cái văn bản này chứa đầy sự ngu ngốc. Về chuyện nó ngu ngốc cỡ nào thì chỉ cần nhìn vào mức độ trái luật của nó và tính tham lam ẩn chứa bên trong cũng đủ hiểu. Vấn đề cần phân tích ở đây là tính phản phé hoặc phản động của nó. 

Đứng trên phương diện nhân dân mà nói, nó cực kỳ phản động, bởi nó đã thẳng tay che mắt nhân dân, tiếp tay cho tội ác, phủ nhận sự tố giác cũng như bịt mắt công tâm của dân tộc. Nó mang mục đích bịt tất cả mọi khả năng tố giác cái xấu có thể có trong nhân dân để mặc cho lực lượng công an giao thông tác oai tác quái, cướp trắng giữa ban ngày. Nhưng, khi nó phản động trước nhân dân, những tưởng nó trung thành với đảng Cộng sản, rất tiếc là không phải thế. Nó một lần nữa chơi trò phản phé trước nhà cầm quyền Cộng sản. Nó thẳng thừng phơi bày bộ mặt tham lam của chế độ cũng như nó vạch lá cho công luận xem bầy sâu đang núp bóng cái gọi là công an nhân dân ngay trong giai đoạn mà nhân dân hết sức phẫn nộ nhà cầm quyền, nhân dân đang đứng dậy đấu tranh chống tham nhũng, chống áp bức trong chính sách đất đai, chống bành trướng Trung Cộng. 

Một bước khác, nhân dân đang kêu gọi dân chủ, nhân quyền… thì cái văn bản này ra đời, chỉ đóng vai trò chọc giận nhân dân, khiến cho con thuyền “lãnh đạo đảng” càng mau bị dòng cuồng lưu nhân dân lật đổ. Như vậy, không gọi là phản phé thì gọi là gì? 

Và đến đây, có thể dễ dàng nhận ra rằng vì tham lam và ngu lâu, dốt bền, thỉnh thoảng vẫn có vài lãnh đạo ngành của chế độ Cộng sản xã hội chủ nghĩa đưa ra một quyết định vừa có tính chất phơi bày sự ngu dốt, phản động lại vừa phản phé ngay vào kẻ đã sinh ra và nuôi lớn nó. Thế mới là khó! Không chừng, sau cái văn bản này, Phó Cục lại lên làm Trưởng Cục, vì sao? Vì công an bất cứ ở khâu nào cũng là quả đấm thép của Bộ Chính trị, không bảo vệ nó, thăng tiến cho nó chẳng lẽ bảo vệ mấy thằng chụp hình bố láo hay sao?


Copy từ: Viết Từ Sài Gòn (RFA’ blog)



.......................

Trang Ba Sàm: “Bỏ đảng”, “đa đảng” (5)


“Bỏ đảng”, “đa đảng” (5) – bản tin 22/8/2013

 Xem Phần 1 , Phần 2, Phần 3, Phần 4 




- Trao đổi với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa: Đảng Dân Chủ Xã Hội cho Việt Nam (RFA). “… tìm hiểu về nội dung và chủ trương kinh tế của một đảng “Dân Chủ Xã Hội” như đã thấy tại nhiều xứ khác. “
Bàn tiếp chủ đề “bỏ đảng”, “đa đảng”, phần 5 (xem phần 1phần 2phần 3phần 4).
Xin mở đầu phần bình luận này, mà sẽ đi sâu vào những tính xấu “tự trói mình” của người Việt, bằng nhận xét trong phần 1: “Tiếc thay, luồng gió văn minh dân chủ phương Tây đã bị khựng lại ở phía Bắc, pha tạp ở phía Nam từ sau 1954.”

Ở vào cái thời đó, dù là người “cộng sản” hay “quốc gia”, trong Nam, ngoài Bắc, theo đảng phái nào, thì cũng đều xuất thân từ môi trường văn hóa tiểu nông, nặng phong kiến hủ Nho cả ngàn năm. Văn minh phương Tây chưa ngấm vào họ được bao nhiêu thì đã liên tiếp loạn ly, chia cắt, chiến tranh, trong đó lối tuyên truyền một chiều, cực đoan, dối trá của các phe phái nhằm phục vụ cho các mục đích chính trị, giành quyền bính trong cuộc chiến, … đã gây những tác động rất xấu tới khả năng gắn kết, cảm thông, chia sẻ của người Việt sau này. Người ta không những mất đi nhiều cái hay đã học được ở xứ khác, mà còn mất cả những truyền thống tốt đẹp do cha ông để lại. Những kẻ bị “đánh mất” lại không phải là dân đen, mà chủ yếu nằm trong tầng lớp trên, được coi là ưu tú, hay “công thần” của xã hội.

Lối tuyên truyền đề cập ở trên, với người cộng sản, ở miền Bắc thì khỏi phải nói, khi đã đem tới những hậu quả khủng khiếp quá rõ như ngày hôm nay, mặt trái của đỉnh cao góp phần đem tới chiến thắng 75’.

Còn, với người “quốc gia”, dù thua kém xa so với “đỉnh cao” kia của cộng sản, nhưng lại là câu chuyện rất đáng bàn trong chủ đề này.

Trong cuộc chiến tranh tàn khốc, một phần do không triệt để dùng độc tài-dối trá để chống lại độc tài-dối trá, nên người “quốc gia” đã thua. Đó là “sai lầm” lần thứ nhất. (Nhìn những gương thành công trong vùng của Bak Jeong-hi - Hàn Quốc,Tưởng Giới Thạch – Đài Loan cũng thời kỳ đó sẽ rõ thêm). Thế nhưng, họ lại còn mắc sai lầm lần thứ hai, khi bước vào thời kỳ hòa bình, hòa nhập vào xã hội văn minh nơi mình tìm đến. Thay vì hấp thụ cái văn minh để đem về mà chiến thắng dần mô hình xã hội cộng sản trại lính, thì lại tiếp tục “áp dụng” , hay nói đúng hơn là bị cuốn theo một cách bản năng, lối độc tài-dối trá nửa vời xưa cũ còn rơi rớt lại để hòng chống thứ độc tài-dối trá đỉnh cao cộng sản.

3Không khó để tìm ra nguyên nhân nói trên. Đó là: quá thất vọng trước thất bại, cho là bị “phản bội”, quá đau đớn từ những gì chế độ cộng sản mới đem lại, mối nghi ngờ quá lớn với bất cứ ai, cái gì có “mùi” cộng sản v.v.. , cộng với khả năng hòa nhập xã hội mới văn minh không dễ, trong khi ảnh hưởng của giới “công thần” của chế độ cũ vẫn còn rất mạnh, giữa một cộng đồng phân tán, pha tạp … Một nguyên nhân rất quan trọng khác, đó là nhu cầu vạch trần bản chất của CNCS là quá lớn, lấn át tất cả, dẫn tới một thái độ cực đoan khi áp dụng những chiêu thức tuyên truyền một chiều cũ kỹ, không khác mấy lối thực dụng tiểu nông của người cộng sản.

Người cộng sản đã thắng người quốc gia một phần cũng nhờ nhiều chiến thuật khôn ngoan, trong đó có “địch vận”. Thế nhưng, ngược lại, hễ có ai trong hàng ngũ cộng sản tỏ ra cấp tiến, hay muốn lên án, rời bỏ nó, thì lại rộ lên những tiếng nói chỉ trích, bới móc quá khứ, nghi kỵ vu vơ, … từ hàng ngũ những người chống cộng, không ưa cộng sản. Có người còn ngây thơ, cố chấp tới mức muốn vài vị từng theo cách mạng ở miền Nam nay lên tiếng đấu tranh kêu gọi đa đảng, trước hết phải ngỏ lời xin lỗi đồng bào miền Nam.

Điều ai cũng có thể nhận ra là mỗi người có một hoàn cảnh, khả năng khác nhau; trong bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng có nhiều trận tuyến, nhiều vai trò cương vị khác nhau, nhiều phương cách khéo léo khôn ngoan. Thế nhưng dường như người ta dễ quên điều đó, luôn có một tâm lý đòi hỏi người khác phải biết hy sinh như mong muốn của mình, phải hành động quyết liệt, không được khi tiến khi thoái …

Thứ vũ khí mà người cộng sản rất lo sợ là “diễn biến hòa bình”, thế mà lại bị nhiều đối thủ “nội” của họ chối bỏ, còn đối thủ “ngoại” – phương Tây thì vẫn cần mẫn sử dụng suốt bao năm qua.
Trang Ba Sàm, từ sau khi mở vài tháng cách đây 6 năm đã có mục điểm báo, ban đầu chỉ những báo nước ngoài. Sau đó, bắt đầu điểm báo trong nước. Nhưng, với nhiều độc giả không dễ chấp nhận ngay, coi đó như là cách tuyên truyền không công cho báo chí cộng sản. Kể cả việc đăng lại các bài chống “diễn biến hòa bình” trên báo Quân đội nhân dân cũng bị không ít độc giả phản đối. Có lẽ họ cũng không nhận ra rằng nếu không đăng lên, làm sao những bài viết đó nhận được hàng trăm phản hồi đánh giá của độc giả, thay cho trên báo QĐND không bao giờ dám có. Tương tự, là bài diễn thuyết của Đại tá quân đội Trần Đăng Thanh đã đạt kỷ lục hơn 1.000 phản hồi giận dữ, khinh bỉ của riêng độc giả trang Ba Sàm. Đó là thứ vũ khí làm những kẻ manh tâm bán nước đó không thể ngẩng mặt lên nổi.

Thế rồi thực tế đã trả lời, rằng nhận thức đó chính là lối dùng “ngu dân” để chống lại chính sách ngu dân; tương tự, rất nhiều  trang mạng, chỉ có những bài vở tố cáo chế độ cộng sản, còn không mấy quan tâm tới những gì cần thiết cho việc mở mang dân trí trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Không dễ nhận ra việc cần thiết  khích lệ những tiếng nói tích cực trong hàng ngũ đảng, chính quyền, trong số các nhà báo, hay chí ít, cũng phải nắm được thông tin tối thiểu của đời sống, còn việc phải sàng lọc thông tin, quan điểm chính trị ra sao khi đọc những tin bài ở đó, lại là trách nhiệm của những người viết, người làm báo tự do.

Thêm nữa, điều kiện tiếp cận thông tin đa chiều của người dân trong nước nói chung vẫn còn rất hạn chế, thông tin hàng ngày đến với họ lại được “định hướng” theo quan điểm của chính quyền, nên không dễ để họ tin hay dám đọc những trang mạng bị chính quyền trong nước nhìn nhận là phản động. Họ cần những món ăn tinh thần dễ tiêu hóa hơn; họ càng cần những kiến thức mọi mặt, về kinh tế, văn hóa, giáo dục, pháp luật … ở xứ dân chủ văn minh mà những người bà con bỏ nước ra đi lại rất có điều kiện học hỏi. Một khi những kiến thức này được lồng trong nội dung các trang mạng tự do, thì cơ quan quản lý trong nước cũng không dễ ngăn chặn, chỉ trích như với những trang chỉ “sặc mùi chống cộng”.

Rất may là trong mấy năm gần đây, đã xuất hiện ngày càng nhiều các trang mạng, blog, bài viết, và cả những phản hồi công phu từ những độc giả “bình dân” xưa nay không từng viết báo, cho tới các nhà hoạt động văn hóa, báo chí, luật sư luật gia, nhà kinh tế, cựu quan chức, đảng viên cao cấp, … cung cấp thông tin đa chiều, đề cập tới nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, góp phần mở mang dân trí, bớt dần đi thói quen dùng “ngu dân” để chống chính sách ngu dân (Còn tiếp).


Copy từ: Ba Sàm

Trang Ba Sàm: “Bỏ đảng”, “đa đảng” (4)


“Bỏ đảng”, “đa đảng” (4) – bản tin 20/8/2013

 Xem  Phần 1 , Phần 2 Phần 3 


- Đào Tiến Thi: Trao đổi với Giáo sư Vũ Minh Giang: Cơ sở pháp lý cho phép việc thành lập các chính đảng mới ở Việt Nam (Boxitvn). - ‘Độc đảng vẫn tốt’ (BBC).  - CON ĐƯỜNG THỨ BA (FB Trần Minh Khôi/ Thùy Linh).
- Trung Nghĩa: Phản biện lại bài viết ĐÔI ĐIỀU VỚI TÁC GIẢ BÀI “VIẾT TRÊN GIƯỜNG BỊNH” (Ba Sàm). – Đôi điều với tác giả của “Đôi điều với tác giả …” (1) (Anh Vũ).  - Ngẫm nghĩ quê hương hôm nay (DLB).
- Lê Phú Khải: SUY NGHĨ CỦA MỘT NGƯỜI NGOÀI ĐẢNG VỀ ĐA NGUYÊN ĐA ĐẢNG Ở VIỆT NAM (Ba Sàm). – Bỏ điều 4 Hiến Pháp là hòa giải dân tộc – Giữ điều 4 Hiến Pháp là tự sát (DLB).  - Vũ Thư Hiên: Một chuyện bỏ đảng (DL).
- LS Nguyễn Lệnh: Hiến pháp 1992 mặc nhiên cho phép thành lập đảng chính trị khác ngoài Đảng cộng sản? (Ba Sàm).

2 

Bàn tiếp chủ đề “bỏ đảng”, “đa đảng”, phần 4 (xem phần 1phần 2phần 3).

Trước vô vàn những bức bối của đời sống xã hội, trong số hơn 3 triệu đảng viên ĐSCVN, liệu có được bao nhiêu người có thực tâm muốn đóng góp và đã làm được ít nhiều cho sự thay đổi tích cực, ích nước lợi dân bằng thúc đẩy tiến trình dân chủ? Và họ đã “làm” theo những cách nào? Họ vẫn ở trong đảng thì có thể “làm” được không, hay phải bỏ đảng để rồi mất việc, hết đường thăng tiến? Hay chính không ít những gì họ cho là “làm” được lại hóa ra chỉ như những trò tô son trát phấn, bình mới rượu cũ, góp phần thêm cho ĐCSVN sống dai hơn với một cơ thể ngày càng bệnh hoạn, mà không chịu thực tâm thay đổi mạnh mẽ, chấp nhận tiến tới một xã hội dân chủ, nền chính trị đa nguyên?

Với những người đã nghỉ hưu, thì sau khi bỏ đảng sức thuyết phục của họ với những người còn trong đảng sẽ tăng lên hay giảm đi? Điều này phụ thuộc vào cách thức họ bỏ đảng ra sao? Còn nếu như họ chọn cách ra khỏi đảng, theo một hình thức nào đó, từ âm thầm, đơn lẻ, cho tới ra tuyên bố tập thể, v.v.. liệu có đem lại kết quả gì đáng kể, hay chỉ như những cuộc “tự sát chính trị”, gây chút tiếng vang tức thời, rồi mọi sự lại rơi vào im lặng?

Nhưng nếu đồng thời vừa rời bỏ đảng CSVN, họ lại tuyên bố lập một chính đảng mới, thì liệu với một thực trạng hầu như không có chút kinh nghiệm về tổ chức chính trị dưới thời cộng sản, chưa được tập dượt trong một tổ chức xã hội dân sự, chưa kể phải đối mặt với những khả năng bị đàn áp, họ có tồn tại, phát triển nổi?

Những đảng viên cộng sản cấp tiến đó đã cân nhắc những lựa chọn nào khác, “nhẹ nhàng” hơn, có thể dễ được đông đảo đảng viên, người dân tin theo hơn, đỡ chịu rủi ro vì bị đàn áp hơn? Ví như 2 khả năng khác mà trong bình luận ngày 3/5/2013 chúng tôi đã nói tới: + Đòi hỏi tách đảng, + Thành lập một nhóm “Cải tổ” từ ngay trong lòng ĐCSVN – tiền thân của một chính đảng mới.

Để tận dụng triệt để điều kiện thuận lợi của công nghệ,  đã thấy rõ trong mấy năm qua, cũng để tránh bớt bị đàn áp, liệu họ có tính tới việc hình thành tổ chức, tiến hành các hoạt động chủ yếu thông qua mạng Internet?

Có rất nhiều câu hỏi cần được bình tĩnh trao đổi, nhưng tiếc rằng chưa được đáp ứng bao nhiêu.

Và, dù theo những phương cách gì, thì những người cộng sản cấp tiến cũng đang đứng trước những khó khăn của một xã hội còn thấp kém, và về khía cạnh nào đó đang thụt lùi, về DÂN TRÍ, tác động lớn tới mọi hoạt động của mình. Tình trạng thấp kém đó có 3 biểu hiện:

1-     Những bước tiến dân chủ trong xã hội mấy năm gần đây, một phần nhờ thông tin qua Internet, nhưng chưa đến được đông đảo người dân, cán bộ đảng viên, hoặc có đến thì lượng thông tin, kiến thức hữu ích, có chiều sâu chưa nhiều, giữa lúc chất lượng báo chí thì ngày càng đi xuống.

2-     Như những gì đã trình bày ở phần 3, một xã hội mà người người ồn ào một công cuộc làm giàu, hưởng thụ, khoe khoang, không ngần ngại điều tiếng gian dối, miễn sao không vì ngờ ngệch mà vướng vòng lao lý là được”, … bình thản nhìn cái xấu, cái ác hoành hành như một lẽ tự nhiên. Các đảng viên có tư tưởng tiến bộ cũng hầu như đều ít nhiều bị ảnh hưởng xấu ở tình trạng đó, không phải bản thân thì cũng với người thân, gia đình, tạm gọi là “bị bôi lem”. Nói theo cách khác thì cái thời “Đêm trước Đổi mới”, con người bị “ngu hóa”, còn “Đêm sau Đổi mới”, con người bị “tha hóa” – một biến thể tệ hại hơn của “ngu hóa”, lấy cái khôn vặt, đểu cáng thay cho hiểu biết, trách nhiệm. Đây là một bộ mặt khác khó thấy của DÂN TRÍ.

3-     Có những nỗ lực đấu tranh cho tự do dân chủ, nhưng đáng tiếc lại trở thành “lợi bất cập hại”, do nóng vội, thiếu kiến thức, kinh nghiệm, thiếu gắn kết, được thể hiện cả trong điều mà ở phần bình luận thứ 2 gọi là lấy cái “ngu dân” để chống lại chính sách “ngu dân”, mắc vào chính những căn bệnh cố hữu của người cộng sản, và trong phần 3 có đặt dấu hỏi rằng đã chuẩn bị được những gì cho “căn nhà mới”.

“Vật cản” thứ 3 nói trên là không nhỏ chút nào, nó là thứ “nô lệ chính mình” do bị những tính xấu trói chặt – như Tuyên ngôn Phá vòng nô lệ đã nói, sẽ xin được đi sâu phân tích trong phần 5 tiếp theo.

Copy từ: Ba Sàm



................. 

Trang Ba Sàm: “Bỏ đảng”, “đa đảng” (3)


“Bỏ đảng”, “đa đảng” (3) – bản tin 18/8/2013 

 Xem  Phần 1 , Phần 2 




- Phỏng vấn Giáo sư Vũ Minh Giang, cựu Phó Giám đốc ĐHQG HN: ‘Căn cứ đâu để lập chính đảng mới?’ (BBC).  - ‘Kiểm soát quyền lực’ – chìa khóa cho VN. – Phỏng vấn ông Hồ Ngọc Nhuận: Đã đến lúc “phá xiềng”! (RFA).
Tiếp phần 3, chủ đề “bỏ đảng”, “đa đảng” (xem phần 1phần 2).
Sang thời kỳ “Đổi mới”, ĐCSVN chấp nhận xoay 180º trong quan điểm về “đạo đức” của người cộng sản.

Trước đây, người CS duy trì lối sống khắc khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, lấy đó làm thước đo tư cách đạo đức, làm hình mẫu để lôi kéo quần chúng tin theo mình. Đó cũng là phương cách “nhất cử lưỡng tiện”, hòng có được nguồn lực dốc hết cho chiến tranh. Những nguyên tắc chuẩn mực về đạo đức, lối sống, quan hệ con người được đè nén theo những truyền thống từ xa xưa cũng như những khuôn mẫu mới mà người CS cố gắng xây dựng lên.

Không kể số ít trong giới quyền lực chỉ tin và theo những khuôn mẫu đạo đức CS một cách hình thức, giả dối, còn đại đa số trong họ đã thành tâm và làm được, sống thanh bạch, đạm bạc, từ đó lôi cuốn người dân tin tưởng và thực hiện theo. Họ đã thắng trong cuộc chiến tranh ý thức hệ – được gọi là giải phóng – một phần quan trọng cũng nhờ ở lối thu phục nhân tâm đó, từ nhào nặn nên hình ảnh thánh sống ở lãnh tụ, cho tới thổi phồng, ngụy tạo những tấm gương CS điển hình khác.

Mô hình đó giúp ĐCSVN “sống khỏe” qua chiến tranh, cho đến khi sự đè nén mọi mặt của nó không còn có thể tiếp tục được nữa, họ quyết định “Đổi mới” – nhưng chỉ cải cách kinh tế, theo một hình mẫu quái dị.

Đó là quyết định quá “khôn ngoan” cho việc gắng cầm hơi chủ thuyết CS, trong khi dường như không có ai trong số những trí thức tinh hoa hình dung ra một tương lai như hôm nay để mà can gián. Cả xã hội hồ hởi, nhiệt thành lao vào cuộc mưu sinh, làm giàu, tặc lưỡi chấp nhận “ngậm miệng ăn tiền”, dưới vô vàn mức độ, hình thức khác nhau.

3 

Thời “bao cấp”, để sống được, người ta lặng lẽ cùng nhau ăn cắp vặt. Nhưng thời nay, cả xã hội ồn ào một công cuộc làm giàu, hưởng thụ, khoe khoang, không ngần ngại điều tiếng gian dối, miễn sao không vì ngờ ngệch mà vướng vòng lao lý là được. Tất cả là do đã được đảng “bật đèn xanh”. Không còn những cuộc họp hành kiểm điểm, xoi mói đời sống vật chất riêng tư trong đảng.

Dưới chế độ cộng sản “trại lính” trước Đổi mới, với những cán bộ đảng viên có đời sống kinh tế khá giả khác thường, thì dù pháp luật chưa sờ được tới, nhưng trong nội bộ đảng cũng đã có biện pháp để người đó khó có thể được trọng dụng, leo cao. Còn ngoài xã hội, họ dễ bị những ánh mắt nghi ngờ, dư luận ác cảm, không dễ sống vinh vang. Thế nhưng, ở thời nay, câu chuyện đã ngược lại hoàn toàn. Một vị quan chức sống như đế vương, chưa bị xộ khám thì đảng cũng chẳng làm gì, thậm chí còn “lên to” hơn, dư luận không những làm lơ, mà nhiều khi còn vì nể. ĐCSVN đã thành công bằng việc “bôi lem” tất cả, trong cuộc giao duyên giữa chủ nghĩa tư bản hoang dã với chủ nghĩa cộng sản trại lính.

Cho nên, trong hơn phần tư thế kỷ qua, trên thực tế, DÂN TRÍ đã đi xuống thê thảm. Bởi vì thước đo dân trí chẳng đơn thuần chỉ là biết nhiều, sống tiện nghi nhiều, quan hệ quốc tế “rộng mở”, có nhiều sách để đọc, nhiều phim để xem, … Dân trí cao trước hết phải là một xã hội mà pháp luật, quyền con người, những thuần phong mỹ tục trong đó có trọng người tài, sống trung thực, biết hy sinh … được tôn trọng và đảm bảo. So với thời “bao cấp”, thì từ “Đổi mới” tới nay, chỉ riêng quyền con người có phần được cải thiện đôi chút, còn ngoài ra, hết thảy đều là những bước thụt lùi.

Sự “thụt lùi” về dân trí theo lập luận nói trên không phải chỉ trong lớp bình dân hay quan chức quyền thế, mà cả trong đông đảo cán bộ đảng viên, giới trí thức, văn hóa, … kể cả trong chính những con người có tư tưởng tiến bộ, muốn thay đổi xã hội theo hướng dân chủ, văn minh. Chấp nhận những gian dối, nhẫn tâm, háo danh, ích kỷ, tham lam … cứ lặng lẽ, thấm dần bên trong mỗi người, không dễ nhận ra; hoặc có nhận ra thì cũng có thừa lập luận của thứ “dân trí khôn vặt” để tự biện hộ cho mình, rằng “thiên hạ thế cả”.

Từ bức tranh xã hội nói trên, thử nghĩ về câu chuyện “bỏ đảng”, “đa đảng”. Như thể khi không chấp nhận bị giam hãm trong một căn nhà duy nhất bị coi là tệ hại, nhiều người rủ nhau muốn xây thêm, dời sang một căn nhà mới khác, liệu họ có dễ thoát đi nổi và đã chuẩn bị được những gì để xây căn nhà mới, và cho khả năng thích ứng của mình để sống ở đó? (Xin bàn tiếp trong kỳ tới).


Copy từ: Ba Sàm

Trang Ba Sàm: “Bỏ đảng”, “đa đảng” (2)


“Bỏ đảng”, “đa đảng” (2) – bản tin 15/8/2013

 Xem    Phần 1 



Luật gia Lê Hiếu Đằng: “Một xã hội dân sự mạnh mới mong huy động được sức mạnh của toàn thể dân tộc để chống lại bành trướng Bắc Kinh” (BoxitVN). “Có hai việc bây giờ ta phải làm. Một là về tư tưởng, phải kiên quyết từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin đã quá lạc hậu. Phe gọi là Cộng sản chỉ còn Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, chưa kể Bắc Triều Tiên với thể chế quái dị không biết ta có ôm vào phe mình hay không, nếu có thì quá xấu hổ. Về công việc thực tế, bây giờ phải tập trung xây dựng xã hội dân sự mạnh, trong đó có chính đảng đối lập. Phải bắt đầu cho cuộc vận động thành lập một chính đảng mới“. – Bỏ đảng, lập đảng khác (DĐTK).
Xin bàn tiếp chủ đề bỏ đảng”, “đa đảng, mà trong các bản tin 27/43/5 và 4/7/2013 đã đề cập ít nhiều. Bình luận sáng qua nói về DÂN TRÍ, chính là vấn đề gốc rễ của câu chuyện gắn với số phận ĐCSVN hôm nay.
Trải qua thời kỳ “Khai tối”, kéo dài từ những năm tháng không được “nghe đài địch”, rồi khi được nghe thì thế giới đã có video nhưng VN thì … cấm, truyền hình quốc tế – qua anten chảo cũng vậy. Nhưng chuyện dân trí không đơn giản chỉ là có được tiếp nhận thông tin, kiến thức từ bên ngoài biên giới hay không, mà điều còn quan trọng hơn, là những thứ thông tin và nhận thức tư tưởng mà đảng CS, nhà nước nhồi vào sọ người dân là thứ gì. Những thứ đó ra sao, chắc không cần phải liệt kê ra ở đây nữa (Mời xem bức hình dưới đây, cô công nhân bắc loa giấy tự chế đọc báo Nhân dân tập thể, để hình dung chút ít).
Sang thời kỳ được ngợi ca là “Đổi mới”, một kiểu ngu dân khác đã nổi lên, không dễ nhận ra. Một xã hội bị tù hãm, đói khổ triền miên, nếu như được “cởi trói” thực sự, cả về tư tưởng, văn hóa, thông tin, … lẫn kinh tế thì thật tuyệt, như một cuộc cách mạng. Nhưng không! Chỉ có cái dạ dày và lòng tham hưởng thụ vật chất được thỏa mãn, rất nhanh. Thỏa sức kiếm ăn, chộp giật, nhưng nếu như vấn vương tư tưởng, quan điểm ngoài thứ khuôn mẫu được đúc sẵn, không chỉ riêng chính trị, mà hết thảy mọi lĩnh vực trong đời sống, là dễ bị mất miếng ăn ngay. Vậy thì còn gì bằng cho phát triển thú tính, khi chỉ ưu tiên cho hàm răng và dạy dày, khỏi động não như con người?
Thành công của công cuộc “thú hóa”  trong toàn hệ thống quyền lực còn mỹ mãn hơn nhiều so với ngoài xã hội, bởi ở đó, điều kiện cho cuộc kiếm chác cướp giật là vô hạn, cơn mê say tích cóp miếng ăn là vô độ, mà với nhiều quan tham thì cả trăm thế hệ con cháu mai sau cũng không ăn hết. Thời Khai tối, con người như “thú đói”, nhưng chỉ là “thú nuôi” (nhốt), còn thời được coi là Tối mịt, họ thành bầy “thú tham”, “thú hoang”.
Qua thời “Tối mịt” này, với những ai mong muốn con người được mở miệng nói, được có chính kiến riêng, thì khó khăn càng nhiều hơn, gấp bội; bởi vì không như xưa, nay họ sẽ đụng tới những miếng ăn lớn của đồng loại vừa đang chưa thỏa cơn đói, lại đã nảy sinh lòng tham ngốn ngấu. Tiếc rằng, chút ít tự do được nới lỏng, cuộc mưu sinh được khích lệ ganh đua, đã dễ làm ta không nhận ra mặt trái lớn hơn nhiều của nó.

6Chẳng phải nhiều lời cũng biết được bao năm qua, với một đất nước 80% người làm nông khốn khó, cả một hệ thống chính quyền, đoàn thể, toàn bộ mạng lưới tổ chức đảng từ trung ương đến xóm thôn, tổ dân phố, cả hệ thống giáo dục, văn hóa văn nghệ, … cùng bộ máy truyền thông khổng lồ mạnh tới cỡ nào trong nhiệm vụ trói nhau và tự trói mình để hoàn thiện công cuộc “thú hóa”. Nó mạnh tới độ mà nếu như bỗng nhiên “trời sinh” ra một ông Tổng bí thư đảng muốn giải tán đảng, ông cũng sẽ thành tự sát nếu chỉ hé lộ ra tí xíu ý đồ này.
Cho nên, nhu cầu khai dân trí cho nội bộ đảng, chính quyền, “hệ thống chính trị” của nó có lẽ còn quan trọng hơn là với dân chúng đông đảo cả nước.
Ai sẽ có thuận lợi hơn để khai sáng cho hàng triệu cái đầu còn u tối nằm trong “hệ thống” đó, nếu không phải là chính những cán bộ đảng viên còn đương chức đương quyền, hay đã nghỉ hưu, nhưng có kiến thức, tư tưởng tiến bộ, kể cả tự thức tỉnh lương tâm, sám hối, và bằng những phương pháp khéo léo, âm thầm, kiên định dần từng tí mà người ngoài không dễ thấy được? Trần Độ là một tấm gương điển hình nhất đã đi vào lịch sử!
Còn những người ở ngoài hệ thống đó, ngoài cả xã hội VN này? Rất cần, nhưng sự tham dự của họ đòi hỏi nhiều kiến thức về NÓ, cùng những suy nghĩ, phương pháp khôn ngoan hơn rất nhiều so với những gì đã có mấy chục năm qua.
Chỉ đơn cử một ví dụ để khơi gợi cho việc bàn luận về nhận xét trên. Đó là, thử trở ngược thời gian tới những năm ngay sau 1975, đã bao giờ, có ai là người “trong cuộc” tự đặt ra câu hỏi, rằng:
Liệu những hy vọng quay lại/trở về giành lại chính quyền VNCH và các hoạt động đi theo đó có vô tình lại đã góp phần cho người cộng sản “thắng cuộc” có lý do (chính đánh hoặc không chính đáng) để kéo dài thêm thời gian giam giữ các cựu quân nhân, viên chức chế độ cũ trong các trại “cải tạo”, cùng với việc siết chặt quản lý xã hội và tiến hành hàng loạt các cuộc thử nghiệm kinh tế, xã hội kinh hoàng?
Và xin được nhắc lại lần nữa, rằng đây là một câu hỏi khơi gợi sự trao đổi nhiều chiều, trong một chủ đề rất khó, hoàn toàn không phải là một khẳng định, để tránh phải có những kết luận nóng nảy, vội vã, mất thời gian.
Để tạm kết thúc ở phần bàn luận thứ hai này, cũng là chuẩn bị cho phần kế tiếp, xin nhắc tới Tuyên ngôn “Phá vòng nô lệ” có nói về 1 trong 3 “vòng nô lệ” phải phá, trong cuộc khai dân trí, là “nô lệ chính mình”, vì coi rẻ học hỏi, thành ngu dốt, rồi bị những thói hư tật xấu trói chặt, trong đó có cả việc lấy cả cái “ngu dân” để chống lại chính sách “ngu dân”.
Copy từ: Ba Sàm

Trang Ba Sàm: “Bỏ đảng”, “đa đảng” (1)

“Bỏ đảng”, “đa đảng” (1) – bản tin 14/8/2013

Thư gửi anh Lê Hiếu Đằng (DLB).  – Nhật ký mở lại (mở lần thứ 61): CHỈ CÒN BIẾT …LẮC ĐẦU, CHÉP MIỆNG VÀ THỞ DÀI! (Tô Hải). “Mình rất mừng vì một điều mà mình đã hơn một lần viết ‘mơ ước’ đó lên blog là: Một ngày nào đó nếu có 100, 1.000 rồi 10.000, 1.000.000 đảng viên cùng tuyên bố tập thể cho cả thế giới biết rằng: ‘Đảng CSVN hiện nay đã phản bội lại chúng tôi nên chúng tôi, những người ký tên dưới đây tuyên bố … Một sự đổi thay ‘long trời lở đất’ có một không hai trong lịch sử tiến hóa của cách mạng Việt Nam sẽ diễn ra ngay tức khắc!“. – Về GS Trần đức Thảo: Sách “Nỗi Hối Hận Lúc Hoàng Hôn (ĐCV).

Bình luận về Nghị định 72 đã qua được 5 kỳ và sẽ còn tiếp tục. Nhưng vụ “bỏ đảng”, “đa đảng” mà ông Lê Hiếu Đằng vừa nêu lên quá hot, nên xin tạm chuyển qua chủ đề mà biết đâu những đảng viên trong nhóm Kiến nghị 72, với con số dường như gợi hứng cho sự ra đời của NĐ72 (?), sẽ là những người đi đầu khơi mào.
Để bàn cho thấu đáo chủ đề này không phải dễ. Vì vậy, trước tiên xin trở lại chút về lý do cho tiêu chí của trang Ba Sàm này, đã được đưa ra ngay từ ngày đầu mở blog cách đây 6 năm, trong Tuyên ngôn “Phá vòng nô lệ”.

Trăm năm trước, dân ta quá lầm than, lạc hậu. Rồi, nhờ luồng gió mới văn minh phương Tây cuốn theo sau gót giày thực dân, ta mới như bước vào kỷ nguyên “Khai sáng”. Thế nên mới có được bao nhiêu con người trẻ tuổi, như ruộng hạn gặp mưa, sớm phát lộ tài năng, cùng bao tác phẩm văn học, âm nhạc, hội họa … để đời, mà có lẽ chẳng bao giờ xứ sở này có lại được.
Chính những người (tự gọi mình là) cộng sản cũng một phần nhờ văn minh phương Tây mà đã thắng Tây.

Bao nhiêu nhà lãnh đạo thuở ban đầu của cuộc kháng chiến và sau khi cướp được chính quyền từng ít nhiều được Tây đào tạo, ngấm cái văn hóa dân chủ phương Tây, trở thành trụ cột cho những thành phần thuần tiểu nông “chân lấm tay bùn đầu toàn lý luận cùn” khác trong đảng dựa vào, rồi sau đó là khống chế và “giáo hóa” lại.

Bao nhiêu nhà hoạt động văn hóa đã cống hiến những tác phẩm của mình, đi vào lòng người mạnh mẽ bởi một phần nhờ chúng có được phong cách hiện đại phương Tây. Những tác phẩm này đã góp phần rất lớn cho “thành công” của cuộc ổn định chính trị ở miền Bắc, cho thắng lợi ở miền Nam của những người cộng sản, không thể đo đếm nổi. Chúng còn đóng góp tiếp dai dẳng trong hàng chục năm sau 75’.
Tiếc thay, luồng gió văn minh dân chủ phương Tây đã bị khựng lại ở phía Bắc, pha tạp ở phía Nam từ sau 1954.

Đặt biệt ở miền Bắc, luồng gió hiếm hoi đó không những khựng lại, mà còn bị một luồng gió khác thổi bạt, bởi tất cả xã hội đã được biến thành một thứ “trại lính”, một phần là bởi mục tiêu tối thượng chiếm cho được miền Nam, phần khác, lớn hơn, tiềm tàng hơn, là bởi một thứ chủ thuyết cao siêu còn đang rất mù mờ lại được những bộ óc tiểu nông u tối tiếp nhận.
Kết cục, sự “khựng lại” bị nhân lên gấp nhiều lần, kéo dài trong hơn nửa thế kỷ. Cái “nhiều lần” đó là không thể tính nổi, bởi ngay cả sự thắng lợi 1975, thống nhất đất nước cũng làm đầu óc người ta càng u tối thêm từ hoang tưởng tài năng, sức mạnh vô hạn.  Thời “Khai sáng” chuyển sang “Khai tối”, rồi “Tối mịt”.

Vẫn chưa hết, màn đêm “Tối mịt” sau 10 năm của thắng lợi 1975 tưởng chuyển sang bừng sáng nhờ “Đổi mới”, nhưng không phải. Nó chỉ như cảnh đang mò mẫm từ xó bếp quê mùa khốn khổ, chuyển sang vất vưởng ở chốn cống rãnh thị thành. Có chút ánh điện leo lắt, nhưng đầy dẫy rác rưởi, bệnh tật, lưu manh trộm cướp …

Trang Ba Sàm được lập ra là xuất phát từ nhận thức ban đầu đó, góp phần chút ít khai DÂN TRÍ, từ người dân bình thường, cho tới cán bộ đảng viên, giới lãnh đạo. Nhưng … không thể nhanh chóng mà lấy lại cả thế kỷ lầm than, lạc lối được.

Chính nỗi bức xúc quá độ, từ bạn đọc cho tới những người tham gia xây dựng ngôi nhà chung này, cũng luôn là sức ép rất lớn có thể làm cho mục tiêu ban đầu bị thay đổi phần nào, dễ trở thành nơi chủ yếu để trút nỗi hờn căm, oán thán, và hơn nữa.

Những trao đổi trên chính là tiền đề cho việc bàn luận câu chuyện “bỏ đảng”, “đa đảng”, trong kỳ tới.


Copy từ: Ba Sàm