CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2013

Quảng Ngãi: Giấc mơ hiệu ứng đám đông dân chúng


Chính quyền địa phương bị tố cáo triển khai dự án nạo vét, cho doanh nghiệp nước ngoài khai thác cát ở khu vực Cửa Đại sông Trà Khúc gây sạt lở nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến an cư và sinh kế của dân.Chính quyền địa phương bị tố cáo triển khai dự án nạo vét, cho doanh nghiệp nước ngoài khai thác cát ở khu vực Cửa Đại sông Trà Khúc gây sạt lở nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến an cư và sinh kế của dân.
 
Lời hứa

Trong một hành động hy hữu tính từ cuộc “nổi dậy” của nông dân Thái Bình vào năm 1997, chính quyền tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định thỏa mãn gần như toàn bộ yêu sách của ngư dân huyện Tư Nghĩa thuộc địa phương này.

Một quan chức huyện Tư Nghĩa đã chính thức thông báo sẽ hỗ trợ 125 tàu cá của ngư dân xã Nghĩa An và Nghĩa Phú bị ảnh hưởng với tổng số tiền hơn 2,5 tỉ đồng. Riêng 583 ngư dân đi trên các tàu cá không ra khơi được vì luồng lạch bị bồi lấp, mỗi ngư dân được hỗ trợ 2 triệu đồng.

Đáng ngạc nhiên là giữ lời hứa của mình, chỉ sau 4 ngày từ thời điểm cuộc biểu tình của ngư dân nổ ra, chính quyền địa phương bắt đầu chi trả tiền hỗ trợ cho các chủ tàu cá và ngư dân.

Chiếc tàu đánh cá đầu tiên trong tổng số trên 200 tàu ngư dân bị mắc kẹt cũng đã ra tới biển sau nhiều ngày bị ngáng đường do nạn bồi lấp cửa sông - hậu quả của việc nạo vét, tận thu cát nhiễm mặn của hai doanh nghiệp khai thác cát tại đây.

Có thể ghi nhận, đây là lần hiếm hoi một chính quyền địa phương ở Việt Nam không nuốt lời.

Từ chức

Một bài tường thuật của báo Thanh Niên cho biết “vụ Quảng Ngãi” bắt đầu từ chuyện hút cát để khai thông cửa biển và tận thu số cát nhiễm mặn tại sông Trà Khúc.

Theo giấy phép mà tỉnh Quảng Ngãi cấp cho hai doanh nghiệp khai thác cát tại cửa sông này, sẽ có khoảng 40 triệu mét khối cát được “tận thu” để xuất khẩu. Cửa sông Trà Khúc cũng sẽ được khơi thông, tạo điều kiện để tàu bè của ngư dân ra vào dễ dàng.

Thế nhưng, mới khai thác khoảng 3 triệu mét khối, mối an nguy của làng chài nơi cuối sông Trà bắt đầu xuất hiện. Hàng chục ao tôm của nông dân bị sóng đánh sập, cuốn luôn ra biển. Sóng cũng đã lan đến làng chài Nghĩa An, những cây dương giữ làng có tuổi đời 30-40 năm bắt đầu bật gốc. Hàng trăm tàu thuyền không những không được ra vào thông suốt như lời hứa của doanh nghiệp mà còn bị mắc kẹt do cửa sông Trà Khúc đã bị bít hẳn.

Dân đã phản ảnh với tỉnh về thực trạng nguy hại này. Lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi đã tiến hành kiểm tra thực tế và ra quyết định tạm đình chỉ việc khai thác cát từ giữa tháng 9/2013, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục sự cố.

Sự việc cứ tưởng như thế là đã ổn thì đùng một cái, nơi cửa biển cuối sông Trà lại xuất hiện những chiếc sà lan cùng con tàu vận tải đầy khả nghi. Một mất mười ngờ, dân Nghĩa An cho rằng các doanh nghiệp đã bội tín, tiếp tục hút cát. Họ tập hợp nhau kéo lên huyện Tư Nghĩa để phản đối, gây tắc nghẽn quốc lộ 1A trong nhiều giờ liền. Đích thân bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi là Võ Văn Thưởng đã phải cấp tốc đến hiện trường để giải thích, thuyết phục đám đông.

Cuộc đối thoại của lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi với hàng ngàn người dân Nghĩa An ngay sáng hôm sau ngày xảy ra sự cố đã dẫn tới những cam kết của chính quyền với dân. Theo đó, sau 4 ngày, cửa sông Trà sẽ được khơi thông; tiến hành đền bù thiệt hại cho ngư dân do tàu không ra khơi được; yêu cầu doanh nghiệp phải khẩn trương xây bờ kè để chống tái sạt lở; và điều cuối cùng, tỉnh sẽ chấm dứt “tận thu cát nhiễm mặn” nếu như việc nạo vét cửa sông tiếp tục đe dọa làng chài…

Thậm chí, chủ tịch tỉnh này còn cam kết “sẽ từ chức” nếu không thực hiện đúng lời hứa.Thanh Niên cũng là tờ báo thường dành thiện cảm đặc biệt cho ông Võ Văn Thưởng. Cả tờ báo này và ông Thưởng đều có liên quan rất thân thuộc đến hệ thống trung ương Đoàn - vốn được xem là “cánh tay mặt của Đảng”.

Một ngàn!

So với quá nhiều hứa hẹn của giới quan chức chính phủ, các bộ ngành được trình diễn trong các kỳ họp quốc hội, họp tổng kết ngành hay họp báo, hiển nhiên tỉnh ủy và chính quyền Quảng Ngãi đã tạo ra một nét dị biệt bằng vào chức trách “đày tớ” mới đây. Lời hứa của họ còn được người dân cho rằng có thể “nghiệm thu” được, lồng trong bối cảnh nhiễu nhương quan trường và mị dân quan chức quá phổ cập như hiện nay.

Câu hỏi còn lại là liệu sự thành tâm của nhà chức trách Quảng Ngãi đã đủ chín để dẫn tới kết quả được xem là khả quan cho bà con ngư dân? Hay còn nguyên do nào khác?Tất nhiên, không thể phủ nhận vài cố gắng của Bí thư Võ Văn Thưởng trong nhiệm vụ “an dân”, sau quá nhiều ví dụ xa dân của chính quyền tỉnh này.

Là một tỉnh thuộc diện nghèo của quốc gia, Quảng Ngãi cho đến nay vẫn chưa tự nhấc mình khỏi danh sách nguy hiểm về mặt bằng thu nhập và mặt bằng dân trí. Địa phương này cũng là nơi mà những nguồn tài nguyên còn sót lại vẫn tiếp tục bị khai thác ồ ạt đến mức cạn kiệt, là một trong những địa phương mà giới quan sát bình luận “ăn cả thịt của mình”.

Đời sống ngày càng khốn khó, hố phân cách thu nhập ngày càng làm cho người dân khó kế sinh nhai và phát sinh bất mãn. Bất mãn sinh ra phản ứng, phản ứng lại bột phát biểu tình. Vụ biểu tình của ngư dân huyện Tư Nghĩa khá giống với những cuộc biểu tình do quá bức bối trong các năm 2010, 2011, 2012 và 2013 của nông dân mất đất ở Bắc Giang, Nam Định, Hưng Yên, Bắc Ninh, Dương Nội…

Tuy nhiên, dấu ấn nổi bật của đám đông Tư Nghĩa là số lượng người biểu tình. Nếu các cuộc tuần hành của nông dân mất đất thông thường chỉ tập hợp được vài ba trăm đến nửa ngàn người, thì con sóng làm tắc nghẽn quốc lộ 1A ở Quảng Ngãi vừa qua đã lên đến hàng ngàn.

Rõ ràng, cuộc biểu tình mang tính quy nạp đó còn vượt hơn nhiều so với điều thường bị xem là “tụ tập đông người” ở Việt Nam. Thậm chí người dân còn bắt giữ 3 công nhân.

Nhưng vì sao đã không xảy ra hành động trấn áp, cô lập hoặc đàn áp của lực lượng cảnh sát Quảng Ngãi - một hiện tượng rất thường thấy ở đất nước của vô số điều luật 258?

Có một mối liên hệ không thể bỏ qua giữa đám đông ở Quảng Ngãi với đám đông biểu tình đòi trả tự do của giáo dân tại Hà Nội vào đầu tháng 10/2013, bên phiên tòa xử án luật sư Lê Quốc Quân. Cuộc biểu tình rất quy củ, ôn hòa nhưng không thiếu quyết tâm của người công giáo đã làm cho chính quyền và công an Hà Nội bất lực. Thay cho hành động cô lập, cách ly và bắt bớ như đối với những cuộc biểu tình chống Trung Quốc hoặc với dân oan mất đất, cảnh sát Hà Nội đã im lặng giữ trật tự không kém thua không khí nghiêm túc của giáo đoàn.

Tuy nhiên, đến phiên tòa xử án Đinh Nhật Uy ở Long An vào cuối tháng 10/2013, tình thế đã khác hẳn. Chỉ vài chục biểu tình viên - một con số không đủ lớn để một lực lượng công an cùng dân phòng gấp vài chục lần có thể dễ dàng trấn áp. Và trấn áp đã thực sự xảy ra. Dù chỉ câu lưu những người bị bắt giữ trong ít tiếng đồng hồ, song hành động tay chân và dùi cui của giới thi hành công vụ lại trở nên nổi tiếng nhất.

Cú ra tay dễ dãi của chính quyền Long An cho phép người biểu tình rút ra một bài học thấm thía: bất cứ cuộc biểu dương nào dưới một trăm người cũng đều có thể bị giải tỏa một cách dễ dàng.

Những tiền lệ tiếp nối

Dù từ năm 1992 đến nay, hiến pháp Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa bao giờ được làm rõ nghĩa hơn bởi Luật biểu tình, và đến giờ cũng chưa một cơ quan nào thành tâm nhận ra cần cung cấp thứ quyền tối thiểu đó cho người dân, song suy thoái kinh tế cùng các nhóm lợi ích lộng hành bất chấp vẫn là chất xúc tác mạnh mẽ nhất tạo ra nhiều cuộc biểu tình không theo công thức.

Xã hội Việt Nam đang ở vào giai đoạn mà sức mạnh đám đông được khởi nguồn từ con số, dù chỉ là con số mang tính ô hợp. Khi số người biểu tình chạm mốc một ngàn người hoặc hơn, chính quyền buộc phải e ngại. Những phương án phòng chống biểu tình, bạo động được thiết kế và tập dượt kỹ lưỡng trước đó sẽ khó có tác dụng, cũng chẳng mấy ai đủ can đảm để đưa chế độ cưỡng bức vào thực thi.

Trước đám đông và đặc biệt là một đám đông có yêu sách chính đáng và có sức chịu đựng bền vững, ý chí trấn áp của chính quyền trở nên mệt mỏi hơn.

Hiệu ứng đám đông cũng đã bắt đầu lan tỏa, từ nông thôn miền Bắc vào miền Trung và bắt đầu có tác dụng đối với bà con ngư dân Quảng Ngãi.

Tiền lệ lại tạo ra tiền lệ. Không thể cho rằng những cuộc tuần hành và biểu tình của nông dân và giáo dân ở các vùng nông thôn miền Bắc, đặc biệt là cuộc biểu dương lực lượng của giáo dân Mỹ Yên ở Nghệ An vào tháng 9/2013, đã không có tác động gì đến nhận thức và phương pháp hành động của đám đông biểu tình ở Quảng Ngãi.

Trong tình thế quá khó xử như thế, điều dễ hiểu là chính quyền một số địa phương không muốn để xảy ra xung đột và đổ máu, đặc biệt trong bối cảnh xã hội đang tiềm ẩn nhiều ngòi nổ luôn có thể bùng phát, còn hoàn cảnh đối ngoại cũng không cho phép các chính quyền địa phương dùng luật rừng để qua mặt Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.

Nhưng trên tất cả các chính quyền địa phương, giới lãnh đạo trung ương không muốn dính dáng vào bất cứ trách nhiệm nào đối với các cuộc biểu tình đông người, nhất là khi chuyện biểu tình sẽ làm xấu hình ảnh của Nhà nước Việt Nam trong con mắt cộng đồng quốc tế, trong đó giấc mơ một cái ghế của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc vẫn chưa hoàn toàn tan biến.

Có lẽ đó là một trong những lý do chính để với tư cách là một nhân sự cấp cao của trung ương được “biệt phái về cơ sở”, Bí thư Quảng Ngãi Võ Văn Thưởng đã lần đầu tiên thể hiện một hành động chỉ đạo có ý nghĩa rất tình cảm cho dân chúng và có thể cho cả chính ông.

Riêng với những nhân tố được xem là sáng giá như ông Thưởng, thời gian về cơ sở thường chỉ 2-3 năm. Chỉ vài năm nữa là đến đại hội 12 của Đảng. Vụ Quảng Ngãi chính là cơ hội sáng giá không kém để những người như ông thể hiện sự cống hiến cho nhân dân - nếu quả có cái tâm, hoặc tạo nên tiếng vang trong lòng cấp trên để tiếp tục chinh phục vị thế chính trị cao hơn. Hoặc cả hai…

Sự đan xen phức hợp về tâm lý trong não trạng từ chính thể trung ương xuống các cấp chính quyền địa phương như thế, vô hình trung, sẽ khiến cho tiền lệ về những đám đông biểu tình trở nên dày đặc hơn và còn có thể hiệu quả trong thời gian tới.

Copy từ: Phạm Chí Dũng - VOA


.......................

Công an sách nhiễu đoàn cứu trợ bão lụt của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất


Ảnh minh hoạ
Ảnh minh hoạ
Phụng hành Thông bạch của Hòa thượng Thích Viên Định, Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt nam thống nhất, đoàn cứu trợ do Hòa thượng Thích Không Tánh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện – xã hội cùng quý Hòa thượng Thích Nguyên Lý – Thủ bổn Viện Hóa Đạo, Thượng tọa Thích Viên Hỷ  – Phó Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên hướng dẫn.
Tôi có hân hạnh được tháp tùng quý ngài trong lần cứu trợ này tại Thừa thiên – Huế và Quảng nam – Đà nẵng.
Đoàn cứu trợ đến Huế đêm 29/10/2013 và nghỉ ngơi tại chùa Phước Thành của Hòa thượng Thích chí Thắng – Tổng vụ trưởng Tổng vụ Kiến thiết- GH Phật giáo Việt nam thống nhất.
Buổi sáng ngày 30/10 đoàn đến chiêm bái Bảo tháp hoành tráng và cổ kính của Ngài Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch.
Sau đó đoàn đến thăm chùa Bảo Quang của Hòa thượng Thích Chơn Niệm- Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ, rồi cùng đến đãnh lễ và vấn an Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Hạnh- Chánh Thư ký Viện Tăng thống giáo hội Phật giáo VN thống nhất.
Tôi có hân hạnh được diện kiến Ngài Thiện Hạnh trong Lễ Thọ tang cố Hòa thượng phó Tăng thống Thích Hộ Giác đầu năm nay tại Tổ đình Quốc Ân- Thừa thiên- Huế.
Đại lão Hòa thượng Thiện Hạnh tiếp đoàn ân cần, thân mật với một số huấn thị và lời chúc tốt đẹp cho chuyến đi .
So với lần gặp trước thì sức khỏe của Ngài Thiện Hạnh không được tốt vì những ưu tư cho dân tộc và đạo pháp trong thời gian gần đây, nhưng thần sắc Ngài vẫn tinh anh, trí tuệ vẫn minh mẫn.
Buổi trưa ngày 30/10 đoàn cứu trợ khởi hành với sự hướng dẫn của quý Hòa thượng Thích Không Tánh, Thích Nguyên Lý, Thích Chí Thắng, Thích Chơn Niệm, Thượng tọa Thích Viên Hỷ và chư tăng thuộc ban đại diện Thừa thiên Huế.
Đoàn cứu trợ đến Lăng Cô lúc 2h chiều trong sự tiếp đón kính cẩn của các huynh trưởng gia đình Phật tử và đồng bào tại đây, sau đó đoàn còn đến phát quà từ thiện cho hai địa điểm nữa cũng thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa thiên – Huế.
Tôi có một ấn tượng khá mạnh khi nhìn thấy  lực lượng hùng hậu và năng động của các huynh trưởng gia đình Phật tử tại đây, với tình cảm sâu nặng, ân cần của họ dành cho đoàn cứu trợ.
5h chiều đoàn cứu trợ của Viện Hóa đạo rời Thừa thiên- Huế trong niềm hoan hỷ và lưu luyến của các huynh trưởng gia đình Phật tử, sự biết ơn và trân quý của đồng bào.
Công việc cứu trợ nạn nhân bão lụt tại Thừa thiên- Huế hoàn thành viên mãn bất chấp sự ngăn trở và dọa nạt cũng như sự theo dõi sát sao dưới ánh mắt cú vọ và ống kính camera của lực lượng An ninh tỉnh Thừa thiên- Huế.
Đoàn cứ trợ Viện Hóa đạo vào đến Đà nẵng lúc 6h chiều ngày 30/10.
Buổi sáng ngày 31/10/2013 đoàn cứu trợ lên đường dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Thích Thanh Quang- Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên kiêm chánh đại diện của Giáo hội tại Quảng nam – Đà nẵng và Sư cô Đồng Hiếu.
Khi đoàn cứ trợ đến cách địa điểm phát quà khoảng 2km thì bị một lực lượng công an hùng hậu chận đường..
Bước xuống xe tôi thấy đoàn bị bao vây, phong tỏa trong một khu vực rộng lớn bởi công an giao thông, Công an mặc sắc phục và thường phục  cộng với sự hỗ trợ của lực lượng dân phòng
Một cuộc tranh luận gay gắt xảy ra giữa đoàn cứu trợ và công an, Sư cô Đồng Hiếu đã không kiềm được bất bình khi đoàn xe bị chận một cách bất hợp pháp và một nhân viên an ninh đã chĩa thẳng camera vào mặt cô.
Người dân qua đường tụ tập lại xem chuyện gì và đã bị công an giao thông xua đuổi một cách thô bạo.
Xe bị giữ, đoàn cứu trợ quyết định đi bộ đến điểm hẹn với bà con, với khả năng dự kiến là chỉ phân phát tịnh tài cho bà con . Nhưng khi đến nơi hẹn thì không thấy một người dân nào ở đó, chỉ có lực lượng an ninh và công an cùng dân phòng bao vây khu vực, họ không cho bất cứ ai dừng lại ở đây.
Khi đoàn cứu trợ quay về chỗ đậu xe thì không thấy xe chở hàng và xe chở chư tăng  ở đâu nữa, Sư cô Đồng Hiếu gọi cho hai anh tài xế thì được họ trả lời là họ bị ép buộc, đe dọa nên phải đưa xe về trụ sở Phường Hòa Hiệp, quận Liên Chiểu.
Như vậy là chư tăng và đoàn phải lội bộ hơn 1km nữa để đến phường Hòa Hiệp dưới trời nắng gắt, không có mũ nón gì.
Trên đường lực lượng công an, an ninh và dân phòng bố trí dày đặc.
Tôi thấy thật xấu hổ cho nhà cầm quyền CSVN khi phải huy động một lực lượng công an đông đảo như vậy để đối phó với mấy vị Hòa thượng và phật tử.
Khi bước vào sân của phường Hòa Hiệp tôi thấy an ninh và công an còn đông hơn bà con đến nhận quà !.
Những người có phiếu nhận quà đã hiện diện đông đủ trong sân. Tôi hỏi họ ai đưa bà con đến đây thì được họ trả lời là đã đi đến điểm hẹn từ rất sớm nhưng công an không cho ai ở đó họ bắt từng người lên xe và chở về phường Hòa Hiệp này.
Lãnh đạo của Phường Hòa Hiệp và công an Đà nẵng mời quý Hòa thượng vào “uống trà và làm việc” nhưng đã bị quý Ngài thẳng thừng từ chối.
Hòa thượng Thích Không Tánh nói với họ: Chúng tôi phụng hành lệnh của Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo VN thống nhất đến đây cứu trợ cho đồng bào bị bão lụt, việc làm của chúng tôi không liên quan đến nhà nước, không bao giờ hợp tác và chịu sự chỉ đạo của nhà cầm quyền vì Giáo hội Phật giáo VN thống nhất là một tôn giáo độc lập từ xa xưa và nay cũng vậy.
Mục đích của nhà cầm quyền CSVN là ép đoàn cứu trợ phải phát quà từ thiện trong sân phường Hòa Hiệp để có cớ lu loa, tuyên truyền với đồng bào trong nước  và hải ngoại rằng Giáo hội đã “tự nguyện” cùng chính quyền làm việc này nhằm triệt hạ uy tín của Giáo hội.
Quý vị Hòa thượng, Thượng tọa đã hiểu được thủ đoạn của nhà cầm quyền CSVN, nhưng vì lòng thương yêu người hoạn nạn, nghèo khổ, quý Ngài không nỡ để họ thất vọng ra về tay không, cho nên quý Ngài quyết định chọn một góc sân dưới hàng cây ven đường để phát quà cho bà con.
Quà phát cho những người có phiếu đã hết nhưng số người đến xin cứu trợ còn nhiều nên quý Ngài lại phải tùy nghi giúp đỡ không để ai phải buồn.
Ngay trong sân phường Hòa Hiệp quý Ngài đã dõng dạc tuyên bố với bà con:
-       Đây là quà của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất gởi đến bà con, không liên quan gì đến nhà nước này.
Bà con vỗ tay và hoan hỷ nhận quà ra về.
Đoàn tiếp tục lên đường đi Quảng Nam.
Điểm phát quà tiếp theo là xã Duy Vinh huyện Duy Xuyên và xã Đại Quang huyện Đại Lộc. Đây là những nơi bị tàn phá nặng nề , cuộc sống người dân lại quá nghèo, nhiều nhà vẫn còn mái tôn vách nứa.
Lực lượng an ninh vẫn tiếp tục theo dõi một cách công khai với máy ảnh và camera trên tay cho đến khi mọi việc hoàn tất và đoàn cứu trợ ra về.
Đi cứu trợ bão lụt mới thấy người dân mình nghèo nàn bất hạnh như thế nào.
Việt nam là thiên đường của những người Cộng sản và là nơi tối tăm cùng khổ của người dân.
© Huỳnh Ngọc Tuấn
© Đàn Chim Việt

Copy từ: Đàn Chim Việt


.......................

Lời dặn nhau


Trở về nhà trên xe của bộ Công an sau 18 tiếng "làm việc" cùng cơ quan an ninh, tôi đã có một cuộc tranh luận nho nhỏ ngoài biên bản với các chiến sỹ an ninh về tự do ngôn luận, tự do biểu đạt, chuyện trao Tuyên bố 258... Chuyện thì cũng vui vui thôi, nhưng đến cuối cùng chị T cục A67* nhắc nhẹ: "...Anh lưu ý, nói là một chuyện, làm là một chuyện khác nhé..."
Lời dặn dò cuối cùng cứ văng vẳng trong đầu làm tôi suy nghĩ mãi, không biết lời dặn này có phải là có ý cho phép tôi cứ nói đi, còn làm nên dè chừng...??! Có một câu chuyện vui thế này: "Cả thế giới đều phải kiêng nể người Mỹ vì người Mỹ đã nói là làm. Nhưng người Mỹ lại sợ người Nhật vì người Nhật làm rồi mới nói. Người Nhật lại sợ Trung Quốc vì Trung Quốc không nói mà làm. Nhưng rồi tất cả chúng nó sợ ai??? Xin thưa, sợ nhất Việt Nam vì Việt Nam nói một đằng làm một nẻo…".
Nói đùa thì là như vậy, nhưng nói thật, tôi vẫn nhớ như in khẩu hiệu "Người cày có ruộng" năm xưa và hình ảnh đám lính mờ mờ cầm khiên đi cưỡng chế đất trên cánh đồng Văn Giang năm 2012. Tôi không thể quên lời hát "có sách mới áo hoa đây là nhờ ơn..." và hình ảnh đám trẻ con dân oan nheo nhóc ngoài vườn hoa hôm nay. Hôm trước thì trên Facebook có bạn nào đó nhắc lại chuyện năm 2010, một vị "tứ trụ" khẳng định tập đoàn Vinashin năm 2013 sẽ có lãi... Cách đây mươi ngày, tập đoàn này lặng lẽ quay về mô hình tổng công ty, và nợ thì chưa biết sẽ thế nào!
Tôi bối rối lắm, trả lời phỏng vấn mấy đài quốc tế rõ ràng rồi mà nhiều bạn bè Facebook cứ trách móc, sao ông chẳng lên tiếng gì nữa, hay là ông đã có thỏa thuận gì chăng? Hình như họ muốn tôi phải hô to lên để tố cáo chế độ, hét to lên để buộc tội chính quyền cầm tù tôi 18 tiếng đồng hồ. Chuyện của tôi nhỏ lắm, đâu đáng nói bằng bao nhiêu việc oan trái trên đất nước này.
Dù thế nào thì một điều rõ ràng là họ đã sợ. Họ sợ cả những điều tôi và bạn bè đã nói và những việc chúng tôi đã làm. Họ rất quan tâm xem tôi gặp ai, ở đâu, làm gì. Họ có thể tạm chấp nhận thả cho tôi tự do một thời gian vì sức ép của truyền thông quốc tế và hoàn toàn có thể bắt tôi trở lại bất cứ lúc nào mà họ muốn bằng những bản án nặng nề. Vâng, tôi biết... Tôi biết quá rõ những bản án trước đây cho những con người, chỉ vì muốn nói, muốn hát, hay muốn gửi gắm khát vọng vào thơ ca mà phải trả giá bằng cả cuộc đời trong tù ngục. Tôi biết quá rõ những điều tôi nói, những việc tôi làm mà chỉ bị câu lưu thế này là một sự "nhân nhượng" không hề nhẹ... Cảm ơn các anh chị đã lắng nghe và ghi chép tỉ mỉ từng lời nói của tôi, ít ra ta đã được nói với nhau một lần sòng phẳng. Nhưng có lẽ các anh chị vẫn tiếc là bằng ngần ấy thời gian, nhưng chẳng thể thuyết phục gì ở tôi... và tôi thì cũng tiếc, tiếc là tôi nói còn kém quá, chắc là anh chị cũng chẳng thay đổi được chút gì. Tôi biết công việc của các anh chị vất vả vô cùng, phải có một tình yêu và niềm tin mãnh liệt thế nào thì các anh chị mới ngày đêm làm việc như thế được. Nhưng xin các anh chị hãy hiểu, những gì tôi nói, những việc tôi đã làm cũng chỉ vì có những kẻ đáng ra phải làm được những gì như đã nói, đáng ra phải biết xấu hổ trước nhân dân... họ đã tự tước bỏ niềm tin từ tôi và bao nhiêu người khác nữa mất rồi.


Là những người có trọng trách trong ngành an ninh, chắc hẳn các anh chị được đào tạo bài bản và biết rất rõ về Karl Marx. Mộ của Karl Marx nằm trong nghĩa trang Highgate tại London vì ông đã sống lưu vong và qua đời tại đây. Đó là một nghĩa trang rất thanh bình với những kiến trúc Gothic tuyệt đẹp thời Victoria. Là cha đẻ của chủ nghĩa xã hội, trên bia mộ của ông có khắc một dòng chữ rất nổi tiếng: Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!** Nhưng ít người để ý bên dưới tấm bia này còn khắc một dòng chữ khác: Nhà triết học chỉ cố gắng kiến giải thế giới theo nhiều cách khác nhau, nhưng điều quan trọng là phải cải tạo nó.***



Tôi thì không có tham vọng cải tạo thế giới. Tôi chỉ muốn làm làm gì đó để người nông dân mình không còn bị mất đất, trẻ em chúng ta không bị tiêm chủng nhầm thuốc co giãn tử cung và ngư dân ra biển của mình đánh cá mà không phải lạy thằng Tàu... Tôi không đánh giá cao kết quả thực tiễn những lý thuyết của ông Marx, nhưng tôi sẽ nghe ông ấy về chuyện là phải hành động. Chỉ nói không thôi chưa đủ giải quyết vấn đề.
Tôi là người vô thần, tôi tôn trọng niềm tin hay tín ngưỡng của người khác. Nhưng nếu bắt tôi phải tin vào những điều mà tôi không phục, bắt tôi phải yêu những điều mà tôi ghét... thì không bao giờ các anh chị nhé!
Chào thân ái và quyết thắng!
_________________________
* A67: Cục Bảo vệ chính trị VI (Chống khủng bố, phản động trong nước)
** Workers of all lands, unite
*** The philosopher have only interpreted the world in the various ways. The point however is to change it

Copy từ: Nguyễn Lân Thắng (RFA’blog)


....................

Đất nước của chiêu lừa " 4T"



Nguyễn Mộng Hoài 
Trong thời điểm rất căng thẳng, rất nhiễu nhương của đất nước ta hiện nay, người dân đi đến đâu, vào bất cứ "cửa" nào, cũng có thể bị lừa. Nhận biết qua các loại thông tin hằng ngày, tôi tạm nêu lên "4 chiêu lừa" có tính chất tổng quát những nét lớn. Đó là "4T", "lừa tâm linh", "lừa tiền", "lừa tình" và "lừa tư tưởng !". Chỉ cần điểm qua thôi đã thấy rùng mình, người nào cũng sợ bị lừa, có người dày dạn kinh nghiệm sống thì bị lừa ít, hoặc nhẹ đòn, người nào tham lam và nhẹ dạ, có điều kiện thì bị lừa "nặng" hơn.
Nhưng tóm lại, là dường như ai cũng bị lừa. Trong số đó có người chủ tâm đi lừa người khác, rồi lại bị người khác lừa, có người "chóp bu" lợi dụng danh nghĩa này nọ để lừa trên, dối dưới, nhưng cuối cùng chính bản thân cũng bị lừa. Té ra, tất cả đều bị lừa. Hiện trạng bây giờ là như vậy. Ta thử đi vào từng "T" một xem sao.

 Thứ nhất "lừa tâm linh". Lừa tâm linh bao gồm cả một đội ngũ rất đông đảo những "nhà ngoại cảm" thày cúng, thày mo, cô đồng, cung văn, cò mồi ở các nhà thờ, chùa chiền, các nơi thờ tự khu danh lam thắng cảnh v.v...Gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các trang mạng xã hội rộ lên những "tấm gương" điển hình của các nhà ngoại cảm. Trong số các nhà ngoại cảm hiện nay, có thể có người "làm ăn tương đối đứng đắn", nhưng lại xuất hiện nhiều nhà ngoại cảm "rởm" từ cấp quốc gia đến cấp xã thôn. Nhiều địa phương nhan nhản các nhà ngoại cảm, chủ yếu là tìm mộ liệt sĩ, tìm mộ người thân đã mất...Bên canh các nhà ngoại cảm thường tự đánh bóng tên tuổi của mình, xuất hiện một đội ngũ khá đông đảo các "thày cúng", "cô đồng", "sư hổ mang", thày cò ở các chùa chiến miếu mạo, các tổ cung văn mạo danh hoặc dựa vào khai thác vốn cổ, có mặt nhan nhản khắp hang cùng ngõ hẻm, với một mục đích duy nhất: kiếm tiền, kiếm thật nhiều tiền. Mà muốn kiếm tiền kiểu lừa tâm linh này thì phải "học" phải tích lũy kinh nghiệm và nhất thiết phải có "tính đồng bóng". Ở địa phương chúng tôi, độ khoảng hơn 20 năm trở lại đây có một ông thày cúng xuất thân là một giáo viên về hưu, nhà nghèo, lương hưu thấp, những trình độ lừa lại rất cao. Cả xã có đến ba ngôi chùa được phục dựng gần như cùng một thời điểm, bằng nhiều loại tiền, trị giá lúc phục dựng khoảng gần 5 tỷ đồng, hằng ngày thu hút khá đông các thiện nam tín nữ, các con nhang đệ tử trong và ngoài xã đến lễ bái cầu phúc. Tóm lại chỉ cho tiền chảy vào chỗ trũng làm giầu cho mấy nhà sư trụ trì, và đời sống mấy nhà sư này vừa giầu có vừa "xả láng". Đằng sau tiếng tụng kinh gõ mõ là cả một xã hội thối tha ghê tởm lập lờ khi tỏ khi mờ diễn ra. Một sư nữ chùa làng tôi mỗi tháng mất 5 triệu đồng "thuê" người trông nom giúp con nhỏ ! Một sư nam chùa bên cạnh lúc nào cũng có "đệ tử" là các cô tiểu hầu hạ gọi dạ bảo vâng ! Còn "ông nhà giáo về hưu" làm cách nào đó kiếm được mấy xuất đất, khôi phục một ngôi chùa nhỏ trước đây do một tư nhân xây thành ngôi chùa khá khang trang thu hút không ít người quen thói "bụt chùa nhà không thiêng". Nhờ làm thày cúng và "kinh doanh" chùa HK, vị chủ chùa này đã có tiền xây mấy căn nhà cao tầng "cho con cho cháu" với đầy đủ tiện nghi đắt tiền ! Không phải chỉ có một vài người "mê muội" bị lừa tâm linh mà cả đến các vị "tai to mặt lớn" cũng bị lừa cũng đổ núi của vào "thế giới tâm linh" đầy huyễn hoặc này ! Nổi lên là các nhà ngoại cảm. Đánh trung tâm lý những gia đình nóng lòng muốn tìm hài cốt người thân hi sinh chiến trận, nhờ ai ? Nhờ nhà ngoại cảm là đáng tin nhất. 75 triệu một lần tìm hài cốt liệt sĩ như "Cậu Thủy" (đã bị bắt) cũng vẫn cố gắng và chỉ trong một thời gian ngắn, "cậu Thủy" đã "lên đời" và gần đây cậu đã bị bắt vì tội lừa đảo tâm linh nói trên !

Thứ hai là "lừa tiền" thì eo ôi sao nó lại phổ biến đến thế. Từ lừa tiền giả mua mớ rau của bà già nhà quê, đến cắt hàng chục hàng trăm tỷ đồng để mua đồ rờm về cho phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã lừa của Nhà nước, của các Ngân hàng, của các doanh nghiệp lớn nhỏ không biết bao nhiêu mà kể. Đủ mọi thủ đoạn từ ngon ngọt đến to tiếng, từ đi đêm đến tiếp khách đàng hoàng từ đấu thầu, đến "làm hợp đồng" chỗ nào, việc gì cũng có "lừa tiền" Làm sao thời đại này, dân Việt Nam, nhất là hệ thống cán bộ công quyền, cán bộ doanh nghiệp, cấp chức này nọ "hám tiền" và đi lừa nhiều tiền đến thế. Tiền vào túi các vị ấy khác nào bỏ vào cái thùng không đáy, biết bao giờ cho đầy. Chạy chức, chạy quyền, chạy án, chạy trường, chay chợ, chạy tội...tất cả đều phải có tiền. Ở bất kỳ một ngành nào một cơ quan công ích dính đến dân đều có mánh khóe lừa tiền. Như Bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan một lần đã nói "người ta ăn không từ một cái gì" nghĩa là ăn bẩn ăn sạch ăn nhiều ăn ít, ăn đêm ăn ngày...xơi tất. Có người sửa lại cho Bà Phó chủ tịch là đừng nói "người ta" mà phải nói là "chúng ta". Rồi thấy từ "chúng ta không ổn, lại nói "kiểm điểm đi kiểm điểm lại hóa ra chúng mình !" Có hẳn những luật chống tham ô lãng phí, phòng, chông tham nhũng hẳn hoi, ấy vậy mà nạn ăn tiền, nạn hối lộ ăn hối lộ, bôi trơn, lót tay vẫn cứ hoành hành rất tinh vi và dữ dội ?

Thứ ba là "lừa tình" điều này thì đã diễn ra, đang diễn ra, và sẽ còn diễn ra dài dài nữa. Tỉnh nào, cơ quan nào cũng có chuyện lừa tình, lừa cá nhân, lừa tập thể, lừa người trẻ, lừa người già, lừa quan chức và quan chức lừa, chỗ nào cũng thấy có "lừa tình" Từ một "ông vua" đến một quan chức cấp xã cấp thôn đều có chuyện lừa tình. Bí thư đảng ủy có chuyện "bắt bồ với một nữ nhân viên cùng cơ quan đến nỗi làm vợ chồng nó phải ly thân. Quan đầu tỉnh một tỉnh nọ cặp "anh em nuôi" với một "đồng chí phó phòng"  có thai và khi bị phát hiện nhanh chóng xin được "hạ cánh an toàn". Một chủ tịch tịch tỉnh "liên kết" với một hiệu trưởng trường trung học cơ sở ở địa phương để "lừa tình" với 5 cháu học sinh cấp hai...vân vân và vân vân. Dường như thời đại hiện nay, làm "sếp" bất kỳ ở đâu cũng cần có "bồ" và cặp bồ" thậm chí cho cả vợ đẹp còn trẻ đi cặp bồ với sếp để có điều kiện thăng quan tiến chức và có thêm tiền sắm đồ đắt tiền ! Ấy là chưa nói đến chuyện "tình công sở" thì eo ôi nó phổ biến đến không thể theo dõi nổi, không thể nêu lên hết, trở thành chuyên thường ngày ở huyện" "chuyện thường ngày ở cơ quan !"

Thứ tư là "lừa tư tưởng" chuyện này rất động trời, nhưng người ta lại cho là sáng kiến và trở thành nghị quyết hẳn hoi. Đó là cái bệnh "nói một đằng làm một nẻo" "nói như rồng leo làm như mèo mửa" hứa hão, hứa xuông trở thành phổ biến đến nỗi bất cứ chỗ nào cũng có, trở thành cái tật nói dối từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trường học ra ngoài dân chúng. Chỗ nào cũng thấy nói dối, cũng thấy "lừa tư tưởng". Mới bị bão lụt làm hại người và tài sản, phát động quyên góp từng đồng từng gói mì tôm, vậy mà chỉ sợ không đến được tận tay người bị nạn thiên tai ! Lừa từ chủ nghĩa đến các cặp phạm trù. Lừa cả nguồi sống lẫn người đã chết, từ cái lý luận đang tồn tại đến cái lý thuyết đã bị cáo chung.

Tôi ước ao cấp nào đó có điều kiện mở những cuộc "hội thảo" về các chiêu lừa trong xã hội ta hiện nay, tôi già thì già cũng xin được chống gậy đến nghe và nói đôi điều mình thấy, mình nghĩ. Làm sao mà xã hội xã hội chủ nghĩa tươi đẹp của chúng ta lại có nhiều "chiêu lừa" đến thế. Rất đau đầu và bế tắc !
Tác giả gửi : Quê Choa

..........................

Cánh Cò: Dân Hỏi, Đại Biểu Trả Lời Đi.


Cánh Cò - 4.11.2013: Trong lần họp Quốc hội vào tháng 10 năm 2013 này, là người dân có quan tâm và hiểu biết ít nhiều về chức năng, trách nhiệm và quyền hạn của Quốc hội tôi cảm thấy có bổn phận đưa ra mấy điều mà hàng xóm, nơi tôi làm việc cũng như những cộng đồng nhỏ thân cận với gia đình chúng tôi quan tâm. Những điều này gói lại trong vài câu hỏi mà tôi tin rằng có hàng triệu cử tri muốn hỏi như tôi.

Là người được bầu lên, không ít thì nhiều đại biểu đã ý thức được tầm quan trọng của mình trước lá phiếu cử tri và từ ý thức đó chúng tôi tin rằng lời nói của các ông bà đại biểu trong nghị trường quốc hội biểu hiện năng lực, tư duy, trình độ kể cả lòng tự trọng, phẩm giá đạo đức và nhiều khi là sự can đảm.

Từ khi Quốc hội khai mạc, cử tri chúng tôi nhận thấy một đề tài cực kỳ quan trọng được trình lên đại biểu xem xét đó là Dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992. Dự thảo này được ông Phan Trung Lý đại diện ngầm cho đảng đưa lên mà khi xem tường thuật qua báo chí, truyền hình cử tri hết sức bất mãn nếu không muốn nói là tuyệt vọng. Chúng tôi cảm thấy bị phản bội, bị lừa như những đứa trẻ con lớn tuổi.

Đại biểu quốc hội và hiến pháp là một ràng buộc hết sức ý nghĩa, bởi người làm luật chính là các đại biểu trực tiếp bỏ phiếu thông qua nó. Hiến pháp sẽ không cần sửa đổi nếu người dân thấy nó phục vụ đắt lực cho đất nước, con người nếu nó hướng dẫn và hoàn thiện xã hội bằng những quy định hợp lý không thể thay thế. Khi xuất hiện một vấn đề lỗi thời cần cập nhật trong bản hiến pháp thì sự sửa đổi là cần thiết và lúc ấy đại biểu một lần nữa sẽ là người xem xét để bản hiến pháp của quốc gia hoàn thiện và hiệu quả hơn.

Người có quyền bỏ phiếu sửa đổi hiến pháp không ai khác hơn là toàn bộ đại biểu Quốc hội. Không phải chỉ có các ông Tổng Bí thư hay ông Thủ tướng, Chủ tịch nước, mặc dù các ông ấy cũng kiêm luôn đại biểu Quốc hội. Đã bao năm nay các ông ấy đã nhiều lần vượt tuyến, lấn áp lá phiếu của đại biểu Quốc hội một cách vô tư thông qua lời lời nói hay lệnh ngầm.

Hiến pháp 1992 lần này được chú ý vì nó đã tỏ ra quá lỗi thời ở nhiều điều và người dân khi nghe tin nó sẽ được sửa đổi thì làn sóng phấn khích nổi lên khắp nơi, chứng tỏ rằng đất nước không phải lúc nào cũng trầm tư trong tư thế cam chịu như nhiều người vẫn nghĩ. Nổi bật hơn hết là kiến nghị 72 mà tôi tin không đại biểu Quốc hội nào mà không biết đến.

Kiến nghị 72 ấy đã thực sự làm một cuộc cách mạng trả lại cho người dân ý thức quyền lực trong một bản hiến pháp. Nó chỉ ra các sai sót mà trước đây nhiều năm do hoàn cảnh ý thức hệ, do chiến tranh và do cả sự chiếm hữu của chủ thuyết cộng sản đã khiến Hiến pháp trở thành tấm khiên che chở những sai lầm cho nhà nước hơn là giúp cho nhà nước thi hành bổn phận của mình trong khuôn khổ pháp luật mà hiến pháp quy định.

Hiến pháp ấy phải thay đổi là tất yếu, bởi thay đổi là sự vận động của một nền chính trị đặt nền tảng dân chủ làm hướng đi và khó thể nói rằng lúc này chưa thích hợp hay lúc kia sẽ xem xét.

Ông Tổng bí thư đã nói như thế khi Quốc hội chưa khai mạc và sau khi khai mạc, ông Phan Trung Lý một lần nữa nói theo ông Tổng.

Còn các đại biểu Quốc hội thì sao?

Các vị đều biết rằng trong kiến nghị 72 đó đã đề nghị sửa đổi hầu như tất cả những vấn đề hệ trọng đang trói buộc đất nước trên con đường phát triển. Chế độ chính trị, tên nước, vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng cầm quyền, bản chất lực lượng vũ trang, chế độ sở hữu toàn dân cùng một số vấn đề cấp bách khác. Từ bản Dự thảo sửa đổi hiến pháp do kiến nghị 72 đề nghị người dân có quyền hy vọng rằng một chế độ thực sự vì mình mà làm việc sẽ xuất hiện.

Theo báo chí tường thuật thì ở các buổi thảo luận nhóm về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp của ông Phan Trung Lý chuyển đạt lên hoàn toàn không có nội dung nào của kiến nghị 72 và thái độ của đại biểu là ‘đa số tán thành’ hoặc ‘không còn nhiều vấn đề lớn gây tranh cãi’.

Ông Phan Trung Lý thay cho đảng nói: Về tên nước thì ủy ban sửa Hiến pháp thấy rằng cần giữ lại quốc hiệu hiện nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì ‘nhất quán với con đường mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn’ và ‘đã thân quen với nhân dân ta’.

Câu hỏi thứ nhất cho đại biểu: Có ai hỏi ông Lý giúp cử tri chúng tôi rằng nhân dân nào lựa chọn tên nước với cái đầu đề vô nghĩa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, khi chính ông Nguyễn Phú Trọng mới đây đã buột miệng thừa nhận là đến cuối thế kỷ này chưa chắc đã thấy cái chủ nghĩa hư vô ấy. Vậy cử tri chúng tôi phải nhắm mắt làm lừa chở cái hệ thống nặng nề ấy trên lưng cả trăm năm nữa thì có phí phạm quá hay không?

Ngay cả nếu chúng tôi có ngu ngốc chọn nó đi chăng nữa thì lần sửa đổi hiến pháp này phải cho chúng tôi tự nguyện sửa lại theo đúng tinh thần tỉnh thức. Nhà nước không có quyền lợi dụng sự u mê của chúng tôi trong quá khứ để buộc cổ người dân vào cỗ xe cọc cạch này mãi. Đó là chưa nói sự u mê ấy do chính nhà nước chỉ đạo, khuynh loát và thực hiện.

Câu thứ hai, dân hỏi: Vai trò lãnh đạo của đảng là tuyệt đối thông qua điều 4 vẫn không bị gạt ra lần này và đại biểu tán thành cho nó là vì sao?

Nếu bỏ phiếu cho điều 4 hiến pháp tồn tại có nghĩa là bỏ phiếu thuận cho vai trò của đại biểu tuột xuống hàng thứ cấp, tiếp tục chịu sự sai khiến của đảng như từ bao lâu nay và cơ hội này sẽ không bao giờ tới nữa, ngoại trừ một cuộc cách mạng nổ ra tẩy chay đảng lẫn người chịu sự chi phối của nó là đại biểu Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.

Câu thứ ba, dân hỏi: Chế độ sở hữu toàn dân có phải là công cụ hữu hiệu và hợp lý nhất trong vấn đề đất đai hay không? và nếu hợp lý hợp tình tại sao người dân khiếu kiện đất đai khắp nước vẫn ngày một nhiều hơn, mức độ trưng thu đất của dân ngày một dày dặc hơn và biểu ngữ treo trước quốc hội ngay trong khóa này đang làm xốn xang mọi cặp mắt khi nhìn thấy nó?

Nó đây: "Quốc hội phản bội lại dân, vô trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, làm ngơ cho chính quyền cướp đất của dân Dương Nội Hà Đông".

Chỉ cần bước ra khỏi hội trường vài con đường là tấm biều ngữ màu đen chữ trắng này sẽ nói cho đại biểu biết tại sao nó được viết ra, treo lên và làm chứng cho những gì mà người dân muốn nói: sự vô trách nhiệm của các đại biểu quốc hội khiến người nông dân mất đất đã không ngần ngại gọi các đại biểu là những kẻ phản bội. Cách gọi này có khi quá lời nhưng nếu so với mất mát của họ thì vẫn không thấm vào đâu.

Muốn không mang tiếng phản bội họ thì đại biểu chỉ cần bỏ phiếu chống lại Dự thảo sửa đổi hiến pháp của ông Phan Trung Lý và đòi hỏi hiến pháp phải được viết lại theo đúng tinh thần vì dân, thay vì vì đảng mà phục vụ.

Hãy xem kỹ cái dự thảo này từng chữ để biết rằng họ đang phù phép ngôn ngữ để đánh lận những đại biểu có tầm nhìn dưới thắt lưng. Về luật đất đai, trong dự thảo sửa đổi họ viết: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.

Đại biểu thấy gì ở cụm từ phát triển kinh tế-xã hội núp sau cái bóng quốc gia?

Nếu có đại biểu nào lên tiếng cho rằng mình đã phát biểu mạnh mẽ về nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đặc biệt là các biểu hiện xuống cấp đạo đức hồi gần đây thì xin thưa ngay với những vị ấy: Đại biểu đang lấy rổ múc nước. Dù nước có đọng lại trong rổ chút ít thì cũng chỉ lấp lánh, làm dáng chứ không hề giải quyết được gì nếu điều 4 hiến pháp và đất đai sở hữu toàn dân vẫn còn nằm đó thách thức cả nước vì sự thiếu can đảm của đại biểu.

Dân hỏi, các đại biểu khóa này trả lời đi đừng tránh né bằng các tuyên bố mang tính chất "câu view".
 Nguồn: Canhco Blog
Copy từ: Thanh Niên Công Giáo



...................

Hành xử của an ninh và phản ứng của người dân


Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-11-04

000_Hkg9055048-305.jpg
An ninh làm hàng rào ngăn chặn người dân đến dự phiên xử LS. Lê Quốc Quân hôm 02/10/2013 tại Hà Nội.
AFP photo


Một số người tại Việt Nam do có những hành động yêu nước công khai cũng như dám đứng ra giúp đỡ, bênh vực cho những người dân oan khiếu kiện đã bị đánh đập, sách nhiễu một cách vô cớ.

Bị đánh do hành động yêu nước

Phiên xử án facebooker Đinh Nhật Uy hồi ngày 29 tháng 10 vừa qua thu hút sự chú ý của những người quan tâm. Lý do theo những người này anh Đinh Nhật Uy không làm gì vi phạm pháp luật, thậm chí hành động của anh này còn chứng tỏ lòng yêu nước, chống Trung Quốc gây hấn xâm lấn Việt Nam, cũng như tệ nạn tham nhũng gây hại cho quốc gia...
Trong số những thanh niên trẻ về Long An từ đêm hôm trước để dự phiên xử , có anh Peter Bùi đã bị lực lượng chức năng bắt lên xe và đánh khi anh này hô các khẩu hiệu đòi công lý, tự do và chống bất công xã hội tại Việt Nam. Anh này kể lại sự việc đó:

"Sau khi bị nhốt lên xe, tôi mở cửa sổ thò đầu ra để hô tiếp những câu khẩu hiệu, do lúc đó xe đang đứng ở ngã tư có rất nhiều người xung quanh. Tôi hô ‘Tự do cho Đinh Nhật Uy, tự do cho những người yêu nước, tự do cho dân tộc Việt Nam. Hoàng Sa- Trường Sa- Việt Nam. Có một viên an ninh đang cầm máy quay tiến lại đấm tôi  một cái vào mặt. Tôi rất đau vì lúc đó ở trên xe, mọi người giữ phía sau tôi lại, tôi chỉ chồm được một đầu ra thôi. Choáng quá tôi lấy tay che mặt, thì người đó đánh tôi thêm một cái vào mang tai bên kia nữa."

Họ sợ bên ngoài nhìn thấy nên cùm chân chúng tôi và kéo lên tầng trên tra tấn chúng tôi, xích tay đánh. Kết quả tôi bị gãy 3 xương sườn, anh Lê Thiện Nhân bị đánh đến sưng hết cả đầu, cả mặt.
- Ông Trương Văn Dũng
Ông Lưu Trọng Kiệt, một người từ Sài Gòn về Long An dự phiên tòa xử Đinh Nhật Uy cũng bị đánh một cách vô vớ như lời kể của ông này:

"Hôm đó trên facebook có thông báo về cuộc xử một blogger ở dưới Tòa án Long An, một vụ xử công khai. Nghe nói vụ xử công khai tôi cũng xuống để xem phiên xử công khai một blogger đầu tiên dính vào điều 258. Tôi xuống không thấy dân đâu mà thấy toàn công an, an ninh với dân phòng. Tôi lấy máy ra tính chụp hình thì mấy ông an ninh mặc đồ dân sự ‘bay’ lại bẻ tay, giật máy và đánh tôi. Họ đánh mấy phút rồi khiêng lên xe Jeep đưa về Phường 7, ở đó họ đánh tôi một trận nữa."

Bị sách nhiễu do công khai chống ngoại bang xâm lược

Đôi vợ chồng Paulo Thành Nguyễn - Trịnh Kim Tiến, người có cha bị công an đánh chết, luôn bị địa phương sách nhiễu. Cả hai người này là thành phần từng tích cực tham gia các hoạt động yêu nước như biểu tình chống Trung Quốc gây hấn, xâm lược Việt Nam, kêu gọi tẩy chay những hàng hóa độc hại của Trung Quốc cũng như lên tiếng cho công lý, hòa bình tại Việt Nam. Họ thường xuyên bị sách nhiễu bằng những hành vi theo dõi, ném sơn vào nhà và gần đây là áp lực chủ nhà không cho họ thuê trọ.
Anh Paulo Thành Nguyễn cho biết:

"Việc ném sơn đến bây giờ vẫn không biết được ai làm, mặc dù mình đã đưa tất cả thông tin camera quay nhưng vẫn chưa biết ai làm. Còn việc mới đây nhất phải chuyển nhà có tác động của địa phương, công an địa phương. Người ta làm khó chủ nhà đủ mọi chuyện. Thật ra khi hỏi họ về quyền tạm trú thì họ không nói đến điều đó mà cứ vòng vo rằng không cấm ở mà có cái này, cái kia chưa được. Họ áp lực chủ nhà bắt mình phải dọn đi. Chủ nhà có công ty nên công an ‘hù’ nếu mình ở đó họ sẽ kiểm tra công ty... nên chủ nhà cũng lo sợ.

Công an còn lui tới chụp hình tại căn nhà nơi chúng tôi đang ở. Họ cũng đến đánh tiếng hỏi bảo vệ đã dọn đi chưa khiến cho những người đang ở đó hoang mang, không biết chúng tôi thuộc thành phần nào mà ‘rắc rối’ như vậy. Chủ nhà sợ nên bắt buộc phải dọn ngay trong đêm không được ở thêm tiếng nào!"

Bị đánh đến thương tật do giúp dân oan

Một trường hợp bị đánh đến bị thương nhiều lần và lần gần nhất gãy xương sườn ngay tại đồn Công an Thụy Khuê hồi tối ngày 25 tháng 10 vừa qua là ông Trương Văn Dũng khi ông này cùng một số người khác đến hỏi về những tài sản giúp cho bà con H’mong xuống Hà Nội khiếu kiện và bị lực lượng chức năng bắt đưa về lại địa phương.
Trong khi đang phải dưỡng thương tại nhà, ông Trương Văn Dũng kể lại sự việc như sau:

"Chuyện ở công an Thụy Khuê, theo tôi nghĩ đầu tiên cũng không có gì. Hồi ngày 23 tháng 10 rạng ngày 24, lúc 11 giờ đêm tôi nghe điện thoại báo của bà con và tôi đến thì thấy họ đã bắt hết bà con đưa lên xe về Ngô Thì Nhậm. Sau đó tôi tìm hiểu về số chiếu cá nhân mà bà con giúp gần 100 chiếc, với thông tin nhận được là số chiếu này bị đưa về công an phường Thụy Khuê.
000_Hkg9055046-250.jpg
Một nữ tu Phật giáo yêu cầu trả tự do cho LS. Lê Quốc Quân hôm 02/10/2013 trước TAND Hà Nội. AFP photo
Khoảng 3:30 chiều ngày 25 tôi cùng anh Lê Thiện Nhân cùng hai chị dân oan đến Công an phường Thụy Khuê. Đến đó, anh Lê Thiện Nhân vào trước hỏi xin lại số đồ mua để giúp cho bà con H’mông. (Công an) họ trả lời rất xấc láo ‘Ở đây không thu!’. Nghe câu trả lời như thế chúng tôi rất khó chịu, nhưng anh Lê Thiện Nhân vẫn nhẫn nại hỏi ‘Thế các anh có biết ở đâu thu không?’. Họ trả lời ‘Không biết, tự đi mà tìm’. Họ trả lời thế, chúng tôi cũng không nói câu gì thêm.
Tôi thấy bức xúc quá, nên lấy máy ảnh ra quay chụp những lời nói, hành động xấc xược vì chúng tôi đáng tuổi cha, chú các anh ấy mà trả lời những câu như thế. Tôi lấy máy ảnh ra thì họ lao vào cướp máy ảnh bảo rằng ‘Ở đây không được quay phim, chụp ảnh’. Lời qua tiếng lại, họ lôi vào chúng tôi vào đồn, chúng tôi phản đối nên họ đánh chúng tôi. Sau đó họ cùm tôi với anh Lê Thiện Nhân lại. Họ sợ bên ngoài nhìn thấy nên cùm chân chúng tôi và kéo lên tầng trên tra tấn chúng tôi, xích tay đánh. Kết quả tôi bị gãy 3 xương sườn, anh Lê Thiện Nhân bị đánh đến sưng hết cả đầu, cả mặt."

Vào sáng ngày 4 tháng 10, chúng tôi gọi điện đến số của ông trưởng công an phường Thụy Khuê để hỏi thông tin mà ông Trương Văn Dũng vừa trình bày, thì sau một lúc máy reo, khi người trả lời được hỏi có phải ông Thi, trưởng Công an phường Thụy Khuê Hà Nội hay không, thì được trả lời là nhầm số.

Khiếu nại

Ông Lưu Trọng Kiệt, người bị lực lượng chức năng tại thành phố Tân An, tỉnh Long An đánh đến rạn xương má hồi ngày 29 tháng 10 vừa qua cho biết khi bình phục ông sẽ có đơn khiếu nại về việc đánh ông một cách vô cớ trên đường, cũng như tại Công an Phường 7, thị xã Tân An khi lực lượng chức năng đưa ông về đó:

"Tôi đang xin giấy chứng thương để kiện chính quyền dưới đó."
Ông Trương Văn Dũng, người bị công an tại phường Thụy Khuê, thành phố Hà Nội đánh gãy ba xương sườn hồi ngày 25 tháng 10, lại cho biết việc khiếu kiện cơ quan này cũng mất công vì từ lâu ông từng chứng kiến bao cảnh người dân khiếu kiện rơi vào tỉnh cảnh ‘con kiến mà kiện củ khoai’. Ông nói:
Tôi luôn nghĩ những việc mình làm và quan điểm mình sống là cách sống của mình rồi, mình không thể nào từ chối cách sống của mình được.
- Anh Paulo Thành Nguyễn
"Lần trước chúng tôi đưa hình ảnh lên truyền thông để tố cáo hành vi của họ. Tôi nghĩ trường hợp của tôi cũng như hằng bao nhiêu người dân khác họ; khiếu nại không ăn nhằm gì với họ. Kể cả đánh chết trong đồn công an mà họ phủi tay. Họ chối hết, chẳng làm gì được họ. Chính quyền của họ là một hết!"
Anh Paulo Thành Nguyễn cũng chỉ ra hình thức làm việc thiếu minh bạch của cơ quan chức năng khiến cho việc khiếu kiện họ không dễ dàng gì:

"Thực ra khiếu kiện cũng khó vì hành động họ làm đều lén lút và bằng miệng nên khi mình kiện không có cơ sở; thậm chí họ còn kiện lại mình. Khi hỏi họ chối, thoái thác. Mình chỉ cho họ biết dù họ làm gì mình vẫn sống. Đến lúc họ thấy không làm gì được  mình thì họ cũng xấu hổ về những hành động của họ."
Ông Lưu Trọng Kiệt thì cho rằng dù không tin đơn kiện của ông được giải quyết, nhưng bản thân ông phải làm thế để chứng tỏ cho chính quyền biết là người dân không còn sợ sệt trước những hành xử phi pháp, vô cớ của cơ quan chức năng; đồng thời kêu gọi người khác phải vượt qua nỗi sợ hãi trong họ lâu nay:

"Tôi không tin họ giải quyết, nhưng tôi vẫn phải làm đơn khiếu kiện để báo động cho họ biết nếu nhà cầm quyền làm sai dân có thể khiếu kiện. Mình phải làm cho người dân vượt qua nổi sợ hãi. Đa số dân Việt Nam chưa vượt qua sợ hãi, nhưng mình và ai đó làm thì người ta bắt chước làm theo. Hy vọng từ từ họ hiểu và vượt qua nỗi sợ hãi đó. Qua trang mạng như Dân Làm Báo, tôi biết và thấy được nhà cầm quyền đánh dân vô cớ. Có nhiều chuyện mà không thể nói về nhà cầm quyền này."

Không khuất phục

000_Hkg8650243-250.jpg
An ninh mặc thường phục đàn áp, bắt bớ người biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội hôm 02/6/2013. AFP photo
Anh Paulo Thành Nguyễn cũng cho biết các biện pháp mà chính quyền liên tục thực hiện đối với hai vợ chồng anh không thể nào buộc bản thân anh này phải thay đổi những việc làm lâu nay mà họ cho là đúng. Anh nói:
"Tôi luôn nghĩ những việc mình làm và quan điểm mình sống là cách sống của mình rồi, mình không thể nào từ chối cách sống của mình được. Dù xảy ra chuyện gì và  họ có sách nhiễu ở mức độ cao hơn nữa, tôi thấy vẫn bình thường. Khi mình đã xác nhận cuộc sống của mình là sống cho sự thật và sống cho đúng lương tâm của mình, thì hình thức xấu nhất tôi cũng đã nghĩ tới, nên vấn đề sách nhiễu đối với tôi là bình thường, và có trả giá theo cách sống của mình thôi! Nhưng trong mọi hoàn cảnh tôi thấy rất bình an vì lương tâm mình rất ‘nhẹ’. Họ có làm gì mình cũng thấy bình thường.

Hôm tối dọn nhà, thực tế chẳng không ai biết, nhưng có 4-5 an ninh mật vụ theo rất sát, từ chiều đến tối luôn. Họ xem làm gì, khi ra ngoài họ hỏi dọn đi chưa. Đến 12 giờ dọn xong họ vẫn theo sát; tôi đến nói chuyện với họ theo từ sáng đến giờ có mệt không. Tôi hỏi họ đang học hay đã ra trường. Họ nói làm bên thành phố và trẻ nên mới có thể theo tôi."

Tôi không tin họ giải quyết, nhưng tôi vẫn phải làm đơn khiếu kiện để báo động cho họ biết nếu nhà cầm quyền làm sai dân có thể khiếu kiện. Mình phải làm cho người dân vượt qua nỗi sợ hãi.
- Ông Lưu Trọng Kiệt
Ông Trương Văn Dũng cho biết dù bị đánh đập đến thương tích qua những lần đi giúp dân oan hay tham dự phiên xử như xử ông Đoàn Văn Vươn, nhưng ông lại được nhiều người thậm chí không quen biết chia xẻ, giúp đỡ, động viên. Ông cho biết:
"Nói thật đợt vừa rồi tôi bị hao tổn về sức khỏe, nhưng tinh thần vui và ấm lòng vì anh em, bạn bè đến hỏi thăm, giúp đỡ cả về tinh thần và vật chất. Nhiều bà con Việt Kiều hải ngoại không biết mặt, biết tên nhưng họ lên mạng biết đến tôi cũng đã điện thoại, chia xẻ gửi quà cho tôi. Những điều đó khiến tôi vui, hạnh phúc vì mọi người nghĩ đến tôi. Trong thâm tâm tôi nghĩ phải làm sao làm những điều tốt hơn trước đây đã làm. Những người nghĩ đến tôi mà tôi chưa hề biết họ, cũng như giúp họ; câu nói của họ làm cho tinh thần tôi được nâng lên một bước là ‘dù ở hoàn cảnh nào, hằng ngày chúng tôi cũng theo dõi từng bước chân của các anh chị, và không để các anh chị đơn độc’. Câu nói đó làm tôi rất cảm kích và rất xúc động."

Những trường hợp được nêu ra mà quí thính giả vừa nghe không phải là cá biệt tại Việt Nam, rất nhiều người phải gánh chịu các hành xử vô lý, bất công từ phía cơ quan chức năng chỉ vì họ là những người yêu nước chân chính, những tiếng nói chống lại cường quyền, bất công và vì công lý, công bằng, sự thật cho tất cả đồng bào của họ.

Copy từ: RFA


....................

Cụ ông Tôn Thất Tần - người bị chế độ CS bỏ tù 30 năm đã qua đời


Danlambao - Bố vợ nhà thơ Trần Mạnh Hảo là cụ ông Tôn Thất Tần vừa qua đời hôm 4/11/2013 tại Sài Gòn, hưởng thọ 96 tuổi. Cụ ông Tôn Thất Tần sinh năm 1918 trong một gia đình hoàng tộc tại Huế, từng bị chế độ CS bỏ tù với thời gian kỷ lục lên đến 30 năm tù vì tội danh có tên 'phản cách mạng'.

Được xem một trong những người tù cộng sản phải chịu án lâu nhất tại Việt Nam, trong suốt thời gian từ năm 1946 đến 1976, cụ ông Tôn Thất Tần đã phải trải qua những nhà tù khắc nghiệt nhất tại miền Bắc. 
Trong hồi ký Đêm giữa ban ngày của nhà văn Vũ Thư Hiên, người tù Tôn Thất Tần được mệnh danh là "Jean Valjean gọi bằng cụ" vì sức chịu đựng ghê gớm với thời gian ở tù kỷ lục.
Nhà thơ quá cố Nguyễn Chí Thiện, tác giả Hoa Địa Ngục cũng nhiều lần nhắc đến trường hợp người tù Tôn Thất Tần để dẫn chứng về sự tàn ác, vô nhân đạo của chế độ lao tù cộng sản. 
Hiện nay, người tù chính trị bị chế độ CS bỏ tù lâu nhất tại Việt Nam là ông Nguyễn Hữu Cầu, hiện đang ở tù tổng cộng 37 năm tại trại giam Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

Copy từ: Dân Làm Báo


...................

BA TÔI BỊ ĐỘI ĐỘI CCRĐ BẮN NHƯ THẾ NÀO ?

Ba tôi là ông Ngô Văn Thắng, một ngư dân có chữ ở làng Thượng Luật. Tôi không biết ông học ở đâu và học đến cấp nào, nhưng tôi thấy,  mỗi khi rỗi việc , ông ngồi lấy bút lông chấm mực tàu , cặm cụi viết chữ Nôm (hay Hán ?) lên những tờ giấy  bổi, rồi cất vào cái tráp sơn mài đen láng. Ông  giữ chức lý trưởng làng Thượng Luật thời Chính phủ Lâm thời của Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng, trong hai năm, từ  năm 1947- 1948.  Hồi đó  làm lý trưởng phải được sắc phong . Ông hay nhâm nhi rươụ nói chuyện  văn chương thời cuộc cùng các cụ trong làng. Mới  53 tuổi  mà ông đã để râu trắng dài, nói cười  vuốt râu như lão trượng. Mỗi bữa ăn, ông ngồi một mình hoặc với khách một mâm trên sập gụ. Năm mạ con tôi ngồi  mâm trải chiếu dưới sàn nhà. Phong độ, vóc dáng nho nhã , trí thức thế nhưng ông lại làm nghề đánh cá chuyên nghiệp. Ông là người đi biển giỏi .Thời ba mươi tuổi ông  đi biển  suốt ngày đêm, nên có tiền để mua thuyền lưới thuê bạn  chài cùng đi biển. Ngày đi biển, đêm về ông  thắp đèn dầu ngồi đọc sách.

        Ông làm lý trưởng  cho chính phủ thân Pháp nhưng ông lại ủng hộ Việt Minh. Thời sau cải cách, các anh tôi thường khai trong lý lịch việc ông làm lý trưởng là để nguỵ trang việc ủng hộ Việt Minh. Vì thời chống Pháp, ông có một căm hầm bí mật  nuôi bộ đội, cán bộ kháng chiến xã Hưng  Đạo  ( tức ba xã Hưng Thuỷ, Ngư Thuỷ, Sen Thuỷ thuộc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình bây giờ) ngay ở trong nhà. Có lần cả trung đội Việt Minh về ở ngày trong hầm nhà tôi để đi đánh đồn Hoà Luật ở xã Cam Thuỷ trên đường Quốc lộ 1A, hay đồn Sen Bàng, đồn Dốc Sỏi. Mạ tôi ở trong Hội mẹ chiên  sĩ, cùng ba bốn mẹ nữ như mẹ Thiệt, Mẹ Nồng, Mẹ Tá …thường gánh chổi  rèng ( một loại cây có mùi thơm, mọc nhiều trên cát , người  ta chặt về đạp cho rụng hết lá rồi bó thành chổi quét sân, đem bán) , cùng ba bốn  anh Việt Minh quân báo đóng giả con gái  cùng gánh chổi  rèng  đi với các mẹ . Dưới chổi rèng là súng lục và lựu đạn , về chợ Cưỡi để tiêu diệt tên ác ôn tên là Tao, là đứa chuyên cướp bóc bà con đi chợ , ăn chặn và hãm  hiếp phụ nữ. Phục kích mấy tuần liền cuối cùng Việt Minh đã diệt được tên Tao khốn nạn, làm chấn động cả vùng.

          Từ giữa năm 1952 cho đến cuối năm 1953, căn nhà của ba mạ tôi như một trạm quân y dã chiến. Bộ đội, thương binh, bệnh binh thường  được chuyển về trong nhà tôi  điều trị, an  dưỡng. Ba anh em tôi là Thạnh, Thường, Cường  được đi học  trường tư thục ở làng . Ba tôi cùng mấy ông  gọi là có của trong làng bỏ tiền ra thuê thầy, nuôi thầy  ngay ở trong nhà để dạy học. Một tuần thầy ở và dạy ở nhà  này, tuần khác thì  thầy  dạy ở nhà khác. Bộ đội Việt Minh ở trong nhà tôi thường  chép tặng  ba anh em tôi  những bài hát kháng chiến. Các anh còn tặng  chúng tôi ảnh của lãnh tụ  như Malencốp , Hồ Chủ tịch, Mao Trạch Đông cắt từ các báo. Tất cả những bài hát, ảnh tặng đó ba anh em đều  bỏ  trong các xắc đựng sách vở chung . Vào khoảng trung tuần tháng 7 năm 1953, bọn Pháp mở trận càn lớn về làng tôi . Lúc đó trong nhà tôi có một tiểu đội  bộ đội ta bị thương đang điều trị. Khoảng 12 giờ đêm, các anh  quân báo đã báo có địch, nhưng các anh bộ đội chủ quan, cứ  ngủ yên. . Khoảng  4 giờ sáng chị Ngô Thị Vượng cuả tôi dậy để lo cơm nước  cho các anh và gia đình . Chị vừa ra suối lấy nước, thì phát hiện  ra bọn địch  đang càn vào làng. Tiếng chó sủa  khắp cả  xóm.  Chị  hốt hoảng chạy vô nhà đánh thức  các anh  thương binh dậy. Một tiếng sau thì địch đã vây làng. Lúc đó  ở nhà tôi các lại trang  phục vủa  Việt Minh như  quần áo ướt , vòng nguỵ trang,  súng ống, ruột tượng gạo … vứt bừa bãi. Ba tôi  thức dậy, ra đứng gác tước cửa để các anh chuẩn bị súng ống, lưu đạn để đối phó với địch. Sàn nhà tôi lát bằng ván gỗ, nên ba tôi  cạy ván lên bảo các anh ném tất cả những thứ quần áo ướt, ruột tượng  gạo… và những gì không  mang theo xuống dưới ván rồi đóng lại như cũ. Ba tôi hướng dẫn cho  tiểu đội thương binh rút khỏi nhà tôi, ra  sau bờ  dứa cách đó  cây số. Chị Vượng trong lúc  hoảng loạn đã mang cả các xắc đựng sách vở cùng với  các bài hát Việt Minh và anh lãnh tụ cộng sản của ba em , chạy ra đầu làng  tránh giặc. Địch bán rát, chị hoảng quá, vứt  luôn cả cái xắc  bên đường. Thế là bọn địch nhặt được.                

       Anh Dũng, người Cảnh Dương, Quảng Trạch, tiểu đội trưởng cùng anh em rút ra sau làng. Tiểu đội thương binh đã gặp địch và hai bên đánh nhau tới hai tiếng đồng hồ . Nhưng vì  là thương binh, sức yếu , vũ khí chỉ có  hai khẩu  súng trường và năm  qưả lựu đạn , cuối cùng các anh Phúc, Doan và Cẩn  hi sinh ( mộ các anh hiện đã được quy tập về Nghĩa trang Liệt sĩ huyện lệ Thuỷ ở xã Mai Thuỷ )  còn lại  bị địch bắt. Anh Dũng, tiểu đội trưởng bị cụt một cánh tay  ở làng Thượng Luật quê tôi . Sau khi bắt được  mấy người Việt Minh, bọn địch bắt dân tập trung lên Động Cao là động cát phía tây làng. Chứng  giơ cái xắc chị Vượng  đã vứt bên đường ,  hỏi dân làng  nhà ai có cái xắc này . Một cái xắc của  ba học sinh  mới lớp  một , lớp  bốn  mà đã  chứa đầy tài  liệu Việt Minh . Chúng thề là  sẽ tìm ra  ba thằng Việt Minh nhóc này. Nhưng cả làng không ai nói gì, nên  doạ nạt  một hồi rồi chúng  rút về, cầm theo cái xắc.

          Năm 1980, anh Dũng, tiểu đội  trưởng bị bắt trong trận càn 1953 ở làng tôi  dẫn một đoàn tàu đánh cả từ Cảnh Dương,  Quảng Trạch  gần Đèo Ngang về cập bến làng tôi.  Anh hỏi thăm nhà mẹ Vượng ( tức nhà tôi, quê tôi thường xưng danh  theo tên con đầu)  . Gặp mạ tôi, anh đã khóc. Anh cụt một tay, đang là  huyện uỷ viên Huyện Quảng Trạch  trực tiếp chỉ đạo nghề cá, đang dẫn đoàn tàu  của huyện đi tìm ngư trường thí điểm . Anh kể rằng , năm 1953, mấy anh trong tiểu đội anh cùng với  anh bị  địch bắt  đem về giam ở đồn Hoà Luật . Một  năm sau  thì được trao tả tù binh  sau chiến thắng Điện Biên Phủ . 

          Ba tôi không vô đảng công sản, nhưung ông nỏ tiền mua lựu đạn, súng để cho bộ đội đi đánh đồn Hoà Luật, lại bảo  mạ tôi  giấu dưới  cá, mắm gánh lên chợ Chè ( xã Hồng Thuỷ) giao cho bộ đội đánh đồn. Ông bỏ tiền ra mua hai khẩu  móc-chê 60 ly ( súng cối) tặng cho du kích xã Hưng Đạo. Do  việc ủng hộ  tiền của , súng ống cho Việt Minh mà trong Cải cách ruộng đất, Đội đã quy cho ba tôi là ủng hộ Quốc dân Đảng. Thật vô lý. Y như các ông Đội  này không phải là Việt Minh vậy.  Các ông  Khuyên, ông Đồng, người Sen Thuỷ là lãnh đạo xã Hưng Đạo, rất nhiều  thời gian ở  nhà tôi, sau này một thời làm lãnh đạo chủ chốt của Khu vực Vĩnh Linh đã nhiều lần kể lại việc đó. Ông Khuyên , ông Đồng  trong Cải Cách ruộng đất cũng bị quy là địa chủ, bị đấu  tố cực nhục. Ở xã Sen Thuỷ , Đội nêu khẩu hiệu :” Toàn dân căm ghét Khuyên , Đồng”. May là hai ông  không bị xử bắn. Sau này, nhờ thành tích kháng chiến đó , mạ tôi đã được Chính phủ tặng “Huy chương Kháng chiến  chống Pháp hạng ” do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký.

           Có lẽ vì thế mà các anh tôi khai ba làm lý trưởng là để nguỵ trang, đóng kịch với giặc . Nhưng tôi lại nghĩ, lý trưởng thời đó phải có trình độ mới được sắc phong. Ba tôi thường cho người  nghèo trong làng thóc, gạo, tiền.  Ông sắm  xe đạp, đèn pin cho hai anh Khương, Ninh lên vùng tự do ở Dương Thuỷ cách làng bảy cây số học văn hoá.   Ông có một ngôi nhà rường ba gian hai chái lợp tranh, hai chiếc thuyền đánh cá cho khoảng 20 bạn nghề  đi biển kiếm ăn hàng ngày. Khi thiếu  người đi  biển, ông  cũng đi với  các bạn nghề. Khi đủ  người thì ông suốt ngày đi quăng chài  ven biển bắt cá đối, cá buôi, cá ong…Tôi nhớ có lần ông xách về cả đạy ( cái túi lưới) đầy cá đối cho mạ tôi chạy chợ. Ba tôi là người rất hăng hái trong việc cúng Miếu thờ Thành Hoàng làng, Âm Hồn làng, cúng  miếu thờ Cái Voi ở Cồn Dinh… cầu mong thần linh cho  làng xóm yên ổn, dân làng làm ăn ngày càng khấm khá.

          Nói đến tín ngưỡng  thờ cúng, ở làng Thượng Luật của tôi từ năm 1957 trở về trước có miếu thờ Thành Hoàng làng và nhiều  loại miếu thờ thần khác ở Rú Mạ, Rú Con. Đó là những khu rừng trên cát xanh tốt rậm rạp, nhiều  cây gỗ to  và dây leo chằng chịt như rừng nguyên sinh ở phía bắc làng. Tuổi thơ  chúng tôi hay  ra chui vào rừng  để tìm tổ chím, hay háí củi. Cứ rằm tháng Bảy, bà con ngư dân làng tôi thường có lễ cúng thắp nhang ở các miếu thờ này. Nhưng  lớn nhất là Âm Hồn và  miếu thờ cá Voi ở Cồn Dinh. Âm Hồn là một khoảnh đất vuông vắn ở đầu làng, có bệ thờ, bàn cúng  dùng để làng cúng tế những người chết thiêng, chết đường chết chợ, chết trôi trên biển…, nghĩa là chết không có mồ mả, nên hồn lang thang khắp nơi , quấy rối cuộc sống trần gian. Mỗi năm cứ đến ngày xá tội vong nhân ( rằm tháng Bảy) là cả làng đóng góp tiền bạc gạo thịt để cúng tế. Còn Cồn Dinh là một cái  cồn đất cao to đắp bằng đất  thịt  gánh từ trong miền nông ra, do triều đình Nhà Nguyễn sức dân đắp để làm trạm thông tin liên lạc đường biển. Khi có tình hình gì đặc biệt xuất hiện, hay có giặc giã  thì đốt lửa báo hiệu. Từ Huế ra rất  nhiều Cồn Dinh như thế. Thông tin từ cồn  này truyền qua cồn khác.  Triều đình đốt lửa báo cho địa phương, hay địa phương đốt lửa báo về triều tình, theo ám hiệu sẽ  biết chuyện dữ hay lành. Nhờ đó mà triều đình biết sớm để đối phó. Đường bộ cũng có các Dinh để làm trạm ngựa chạy thư. Như Dinh 10 ở huyện Quảng Ninh quê nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh là một trạm ngụa triều đình mà cái tên còn  đến hôm nay. Năm đó  ở làng tôi có con cá voi lớn dạt vào mắc cạn rồi chết. Cá voi , gọi là Cá Ông là loại cá thiêng, ngư dân không bao giờ ăn thịt mà  làm lễ tang chôn cất đàng hoàng. Trưởng thôn phải đội mũ rơm, chống gậy đi trước như đưa đám  ông bà vậy. Vì thế ở Cồn Dinh  có một cái mộ Cá Ông và làng lập cái miếu thờ. Nghe nói miếu thiêng lắm. Nhưng thiết chế văn hoá tín ngưỡng tâm linh đó tạo ra  những quy tắc, tập tục  sống và ứng xử của cộng đồng dân làng Thượng Luật rất chặh chẽ. Nhưng rồi  chính quyền cách mạng lúc đó cho là mê tính dị đoan nên cho dân quân đập phá tan tành tất cả các miếu thờ, Âm Hồn cũng không cho cúng nữa. Những  Miếu thờ thần linh chôn vùi  xuống cát. Làng tôi vô thần từ đó. Tôn  ti trật tự theo thiết chế tín ngưỡng tâm  linh bị đảo lộn. Vô thần  nên lũ ma cô không còn sợ ai. Và làng tôi cũng tan nát, xác xơ từ đó ! Rú Mạ, Rú Con bị  chặt phá tan tành, bây giờ không còn dấu vết.. Cồn Dinh, Mộ Cá Voi không  ai lo trồng cây bảo vệ nên bị sóng biển  tấn công sạt lở, rồi  biến mất ! Làng tôi mất dần màu xanh, cộng thêm  máy bay Mỹ ném bom huỷ diệt mấy lần,  làng trở nên xác xơ hoang lạnh như trên sa mạc.

           Trở lại chuyện ba tôi. Ông coi tử vi , đoán vận hạn , biết mình sắp bị nạn  lớn vào tuổi 53 , nên  ba rôi lặng lẽ lên xã xin đổi tên bốn anh em tôi là Ngô Văn Thạnh, Ngô Văn Thường, Ngô Văn Cường, Ngô Văn Cần ( ông là nhà nho, đặt tên con theo chữ nho,  Thạnh-Thường-Cường Cần - tức là gia đình khả giả là nhờ lao động  cường cần mà có )  thành Ngô Văn  Khương, Ngô Văn Ninh, Ngô Văn Khôi, Ngô Văn Phục . Khương – Ninh- Khôi- Phục – nghĩa là hai anh đầu  phải vững vàng chắc chắn để hai em sau tựa vào đó mà phục hồi danh dự gia đình.  Tôi tên khai sinh là Ngô Văn Cường, sau đổi là Ngô Văn Khôi . Khi đi học tôi  học theo bọn trẻ trong làng đổi thành Ngô Minh Khôi. Thế mà sau này thấy tôi học giỏi, thành đạt, là người  đi đại học đầu tiên của xã, lại  là nhà văn , nên mấy thế hệ con cháu của tám nhánh họ Ngô ở làng tôi sau này đều  lấy chữ lót khi  làm  giấy khai sinh  là Ngô Minh…cả.

            Năm 1956 , quả  nhiên ba tôi bị đại nạn thật. Ông bị nạn lúc 53 tuổi. Bốn chín chưa qua, năm ba đã tới. Một buổi  chiều, một tốp  dân quân súng ông  giương lê , mặt sát khí đằng đằng đến nhà bắt trói giật  khuỷ tay ba tôi và anh Khương dẫn đi cùng với các ông Ngô Văn Thung, Ngô  Văn Dung , Ngô Văn Toản ở xóm Thượng Nam, là những người chẳng phải giàu có gì, nhưng  tương dối có của ăn của để và có chữ nhất làng. Sau này tôi mới hay họ bắt địa chủ theo chỉ đạo của Đội Cải cách Trung ương theo tỷ lệ 5% dân số.  Họ xô ba tôi về phía trước. Ba vừa đứng thẳng  lại để giữ thăng bằng họ lấy báng súng thúc , quát nạt:” Thằng địa chủ cường hào ni, mày chống cự hả !”. Tôi lúc đó mới bảy tuổi, không  thể hiểu được tại sao ba tôi hiền lành và đàng hoàng thế lại  bỗng dưng tai ương ập đến khủng khiếp như vậy. Anh Khương lúc đó mới 17 tuổi cũng bị bắt trói khuỷ tay dẫn đi. Họ bảo là bắt  bọn địa chủ cường hào ác bá  theo Quốc Dân Đảng. Họ lấy  luôn tất các tấm ảnh  ba tôi  chụp đây đó và cả cái tráp đựng các tập giấy bổi ghi chữ Hán của ông . Họ cho đó là tài liệu phản động Quốc Dân Đảng.  Sau này  lớn lên tôi nghĩ  đó có khi là những bài thơ ông sáng tác. Từ đó đến nay gia đình tôi không  có ảnh ông để thờ.  Họ giam ba và anh tôi  trong một căn nhà tranh lụp xụp cuối xóm trong. Mỗi người bị bắt họ giam một nơi . Sau một thời gian họ tha cho anh Khương về . Có lẽ vì anh lúc đó mới 17 tuổi, chưa đến  tuổi vị thành niên.

           Tôi đến thăm ba, thấy ba bị cùm cả hai chân, ngồi một chỗ không đứng lên được. Ba nhìn tôi  nước mắt lưng tròng. Ông quàng tay ôm tôi vào lòng liền bị tên đội quát :” Đụ mạ, thằng địa chủ cường hào kia…”. Cái cùm cùm ba tôi là một thanh ván gõ lên nước đỏ au,  khoét hai lỗ thò bàn chân vào được, rồi  họ xẻ dọc, một phía  đóng chốt, một phía bắt khoá. Người ta làm ăn thì  đói rách, ngu đần, nhưng nghĩ ra cách hại người thì vô cùng giỏi. Người bị  cùm phải mở được khoá mới co chân lại được. Tôi đọc sách Tàu nghe nói đến gông-cùm mà chưa hình dung ra nó như thế nào. Đi bới cơm cho ba bị bắt, tôi mới biết hình thù cái cùm . Cùm là thứ để xích chân, còn gông là thứ  để xích cổ, dành cho người tù  khi bị giải đi .  Một lần mạ tôi vắt cơm để tôi đi bới cho ba. Mạ dặn là trưa đứng bóng mới đi . Nhưng tôi nhớ ba, muốn đi sớm. Thế là xách mo cơm chạy. Đến cửa , thằng lính Đội đứng gác đỏ mặt dang tay quát :

-         Mày đi mô ?

-         Dạ con mang cơm cho ba?

-         Đồ con địa chủ, chưa tới giờ . Đến để tiếp tế tài liệu cho bọn phản động cường hào hả ?

Nói rồi  nó tung chân đá  mo cơm  trong tay tôi bay xuống cát. Những hột cơm, những con cá nục mạ tôi kho bay tung toé trên cát. Tôi ôm mặt khóc chạy về nhà sà vào  lòng mạ. Thế là hai mạ con cùng khóc. Tôi không biết thái độ ba tôi như thế nào khi ông  ngồi trong  chỗ giam nhìn ra sân  thấy cảnh con bị đá như thế. Chắc là ông đau lòng lắm.

           Trong tuổi thơ tôi đó là lần đầu tiên tôi  biết thế nào là cái ác, thế nào là  người ác. Không phải người ác làm sao lại thất nhân tâm đến vậy ? Ký ức đó tạc vào tâm khảm, đến già cũng không phai. Mỗi lần nhớ lại là nổi  gai ốc. Ngôi nhà rường ba gian hai chái ba tôi đổ  bao nhiêu công sức, tiền của để làm bị Đội tháo dở, chia “quả thực” cho bần cố nông. Người kèo, người  cột, kẻ xuyên, trếng, rồi bàn khoa, cửa đố, rồi  đôi câu đối sơn son thếp vàng trên gỗ...,  họ giành nhau từng tấm phản,  tháo ra vác chaỵ như vớ được vàng . Làng tôi nghèo, chỉ nhà tôi cùng vài nhà nữa mới có sàn nhà  bằng ván gỗ , còn cả làng là nhà  gỗ  dương lợp cỏ rười, trong nhà toàn cát, nên cướp được tấm phản  họ mừng lắm. Họ tranh nhau xúc sạch cả rương thóc, gạo nhà tôi. Mạ tôi van lạy “ Lạy các ông ác bà, Xin các ông các bà  cho mạ con tui lại một ít cấu (gạo) để sống…”, mà chẳng ai thèm nghe. Mấy thùng đựng muối họ cũng  khuân ra sân chia nhau vung vãi. Còn các loại  nồi đồng, mâm đồng, thạp đồng, mâm thau, chậu thau, bát sứ Giang Tây, rồi  mấy bức hoành phi, câu đối treo  ở cột nhà.v.v… Cả bộ ngũ sự trên bàn thờ tiên tổ nhà tôi  hàng trăm bần cố nông  xông vào cướp giật, tranh giành, đánh nhau chí choé. Tay nào là rễ, chuỗi ( từ chỉ cơ sở nồng cốt của Đội cải cách, từ cội rễ mới  xâu chuỗi ) thì được  chia nhiều thứ hơn. Đội bắt mạ con tôi  phải xuống ở nhà bếp . Hai chiếc thuyền  lưới thì  bị tịch  thu đưa cho bần cố nông đi biển . May họ không biết chữ , nên tủ sách ba tôi  để lại họ chỉ vứt lung tung chỏng chơ đầy sân  cát để lấy cái kệ tủ , phá ra từng mảnh chia nhau. Sau khi họ đi rồi, mạ tôi  nhặt lên vuốt ve từng cuốn sách rồi xếp vào những cái thúng rách…Hồi đó  ba tôi mua sách  nhiều lắm. Những Hồng Lâu Mộng, Rừng thẳm tuyết dày, Tam quốc diễn nghĩa... của Trung Quốc, những Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Người người lớp lớp của Trần Dần, Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng, Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, Tố Tâm của Hiàng Ngọc Phách, Bức Tranh Quê của Anh Thơ, Truyện Kiều , rồi những cuốn truyện thơ Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa.v.v.. Những sách đó ba tôi mua mỗi khi đi chơi Đồng Hới, hay đi họp lý trưởng ở Huế. Nhìn cảnh đi  tranh giành quả thực, tôi cứ nghĩ đến một lũ ăn mày đói khát lâu năm đang vớ được cái ăn trên trời rơi xuống. Thật khốn khổ cho những kiếp người ! Sau này hỏi các ông già trong làng tôi mới biết, Đội trưởng Đôị Cải cách  ruộng đất  là do Trung ương cử về, không qua tỉnh, huyện. Họ có toàn quyền giết ai, tha ai, ngủ với cô nào....  Họ vẫy  tay là con gái nhà lành tối tối phải hiến thân cho họ. Đúng  là trên Đội dưới Trời , không có ai  to hơn.

            Sau đó ba tôi bị dẫn đi hết nới này đến nơi khác đấu tố. Đội Cải cách mở lớp “học tập”, dạy cho các“chuỗi rễ” cách chỉ tay vào mặt, cách tát, cách giơ nắm đấm và  từng câu đấu tố địa chủ để học thuộc. Người này thì đấu tố  nội dung này, người khác thì  chửi bới nội dung khác. Tất cả các câu hỏi và đấu tố đều được Ban Cải cách Trung ương soạn sẵn từ Hà Nội. Những người đấu tố toàn lũ trẻ hai lăm bốn  mươi tuổi. Các ông bà già bảy tám chục , hiểu  sự đời, thì nhìn ba tôi bị đấu tố là quay mặt đi. Mà  toàn bọn tố điêu, vu khống. Tôi không hiểu tại sao họ lại dạy cho con người lấy chuyện điêu toa, dối trá, vu khống trắng trợn người khác làm lẽ sống như  thế ? Chuyện đấu tố địa chủ đã làm cho cuộc sống  làng quê ngàn đời bình yên, thân thuộc  bỗng dưng bị tan tác, chia rẻ, nghi kỵ, thù oán lẫn nhau . Cả làng tôi từ ngày có Đội bỗng tắt ngóm tiếng cười đùa , tiếng hát. Cả làng như có tang. Đêm đêm gió nồm thổi  qua rặng  dương liễu ù  ù như ngoài chiến địa.  Bọn con trai thì tố  “mày bóc lột tao”, “mày đánh đập tao”,” mày là thằng chó đẻ”… Con gái thì tố “mày cho tao ăn cơm thiu thối”, “mày hiếp tao lần này lần khác”, dù mặt mũi , thân hình họ không mảy may làm cho bất cứ người đàn ông xúc động. Có đứa phụ nữ còn tốc váy  lên  vừa vỗ bôm bốp vào hĩm vừa  chỉ vào mặt ba tôi rủa :” Dòng họ nhà mày răng bằng cái  l. của bà ! Trí , phú , cương , hào  đào tận gốc, tróc tận rễ…”…Những người mà cả  gia đình họ hàng mấy chục năm sống nhờ vào thuyền lưới , cơm cá nhà tôi cũng tố :” Mày bòn rút xương tuỷ nhà tao”, “tao nghèo là do mày “.v.v..Điêù kỳ lạ là những đứa tố điêu, vu khống chẳng hề biết ngượng ngùng,  xấu hổ là gì. Họ tố điều gì ba tôi cũng bị Đội bắt phải cúi đầu  xưng :“Dạ. Thưa  ông . Con biết”. Mỗi lần ba tôi im lặng không nói tức thì báng súng thúc vào hông :” Đồ địa chủ  ác bá, sao mày không đội ơn ông nông dân đi con !”. Ba tôi khi bị dẫn đi gặp ai Đội cũng bắt  phải cúi đầu thưa “ Thưa ông , thưa bà nông dân”. Những ngày đó mạ con tôi chẳng dám ra đường.

           Sau  năm tháng gông cùm, tra khảo, đấu  tố,  sáng ngày mùng 6 tháng 5 âm lịch năm 1956, họ đưa ba tôi ra đầu làng xử bắn. Có người chứng kiến  cuộc xử bắn “địa chủ” kể lại rằng : Đội  bắt người đi chặt  cây tre to làm cọc chôn sâu xuống cát. Họ trói ba tôi vào cột, bịt mắt. Một tiểu đội du kích 12 người cầm súng trường đứng cách mấy mét. Không có bản án  tử hình được công bố, không có bản luận tội. Phạm nhân không được tự bào chữa, hay thuê luật sư bào chữa.  Sau mười hai phát đạn nổ định tai, cha tôi gục xuống. Máu tươi lênh  láng cát làng. Lúc đó mạ con tôi ở nhà, vì Đội  cấm không cho ra nơi xử án. Nghe tiếng súng nổ, mạ tôi khóc nấc lên, ngất  lịm đi  rồi bỗng khóc gào thật to, hai tay bới cào tay xuống cát. “Ôi ông ơi, sao ông sống hiền hậu, nhân đức thế mà người  ta nỡ giết ông, ông ơi”, “Trời ơi sao trời lại sinh ra bọn quỷ mặt người độc  ác như thế, trời ơi , Trời có biết không ?”  Hình như mạ tôi muốn  gào bới cho Trời Đất nghe thấy nỗi đau đớn oan khiên này. Sáng  hôm sau thì người chạy thư trên huyện đưa về cái lệnh ”dừng việc xử bắn địa chủ”. Thế là mấy cụ bị bắt cùng ba tôi  như hai ông Huyên, Hứa ( Ngô Văn Thung, Ngô Văn Dung), ông anh con cô con cậu với tôi là Ngô Văn Toản  thoát án  xử tử hình. Từ đó tôi đến trường với cái biệt danh: “con địa  chủ bị bắn trong CCRĐ”. Đội Cải cách bắn ba tôi xong họ bó vào mảnh chiếu rách rồi chôn lấp sơ sài ở một góc đồi cát. Sau khi dừng chuyện cải cách, bắn giết, mấy ông anh  con bác và anh Khương mới  đưa hài cốt ba tôi  về chôn ở  cuối khu mộ của các cố tôi. Nghĩa là ba tôi chết không có một mảnh ván quan tài, không có điếu văn, tang lễ, không có trống kèn đánh thổi, không có con cháu khóc lóc tiễn đưa  như tất cả những đám tang ở làng tôi hồi ấy. Sao sô phận của ba tôi lại bi thảm đến thế hỡ trời!. Sao lại có bọn người gọi là “cách mạng” mà lại giết hại cả những người  từng hết lòng ủng hộ sự nghiệp của mình như vậy ? Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không  thể hiểu  nổi.

           Những ngày đó ai  tiếp  xúc với  gia đình tôi đều sợ  bị liên luỵ. Bà con họ hàng nội thân nhà tôi như gia đình anh Thiểu, anh Hiểu, chỉ Hổ, chị Hỷ… đêm đêm thường lén lút  cho con cháu mang sang cho mạ tôi khi năm ba lon gạo, khi vài củ khoai, khúc sắn, khi chục con cá nục. Phải lén lút đợi khuya mới ném  vào góc lều, vì Đội cấm. Lính của Đội canh gác, rình mò  ghê lắm. Ai mà tiếp  tế cho địa chủ cường hào cũng là kẻ thù của  giai cấp, sẽ bị tiêu diệt, gia đình sẽ bị bắt ngay. Anh Ngô Tấn Ninh, lúc đó 12 tuổi hỏi mạ:” Tại sao gia đình mình có tí thuyền lưới hơn người, lại bị giết  hở mạ ? Có  phải họ ghen tức vì không được như nhà mình ?”. Mạ bảo :” Đội thì biết gì mà ghen  với tức. Đội muốn  giết ai thì giết !”

            Làng tôi có anh Hảo. bà con gọi là Hảo Điên.  Do thất tình với một người đẹp trong làng anh bị  điên. Đêm ngủ , anh mơ gì đó , thế là bấu, rựt đứt luôn  con cu của mình, phải đi viện cấp cứu . Từ đó suốt ngày anh cởi truồng đi khoe con cu cụt khắp xóm Thượng Bắc, Thượng Nam,  múa hát và đái. Mỗi  lần anh đái phải ba tiếng đồng hồ mới xong, vì  lỗ đái bị tịt. Theo tôi thì anh  Hảo  không hoàn toàn điên. Vì có một buổi sáng đàn ông cả làng tôi ra biển. Không hiểu lửa củi thế nào mà nhà  tay xã đội trưởng  bốc cháy đùng đùng. Đúng lúc đó anh Hảo đi ngang qua. Thấy lửa , anh  liền xông vào  khuân hết súng và cả thùng lựu đạn ra bỏ dưới gốc cây dương liễu, rồi lại  đi xăng xái  múa hát như không có chuyện gì xảy ra. Không có anh hôm ấy, lựu đạn mà nổ thì nhất định không ít  người trong xóm thương vong. Mỗi khi đi ngang sau lưng lều tranh của  mẹ con tôi bao giờ anh cũng cười khanh khách , rồi chửi lớn :” Tiên sư bọn ngu dốt, người giỏi  bây giết thì  ai bày cho cách làm để có cái mà đút vào mồn  hả !”.Anh  vung tay chửi đi chửi lại rồi lại cười hực hực. Chửi  xong anh lại vắt  chiếc quần  nâu lên vai, ngồi bệt bên  lối đi đái tới chiều. Vì anh điên nên Đội Cải cách chẳng làm gì được anh cả. Bảo đi đấu tố anh  cũng chẳng đi.

         Lại có anh tên là Chắc, một tay thơ phú vần vè, nói lối giỏi nhất làng, khi vừa có lệnh “ngừng bắn địa chủ”, đã  không còn đấu tố nữa , anh đi đường hát nghêu ngao mấy câu đồng dao tự anh ứng tác :

     Người giỏi thì giết

     Thằng đần lên ông

Rồi thì bốc cứt

Mà ăn ơi làng…

 

Người giàu thì giết

Thằng bần thì nuôi

Rồi thì chết đói

Cả làng mất thôi…

 

Người giaù giết hết

Cả nước bần hàn

Đời chi lạ rứa

Ơi giống Lạc Hồng…

                 

         Cũng phải nói thêm điều này: Đáng  lẽ diệt được địa chủ cường  hào rồi, ruộng đất, thuyền lưới về tay nông dân rồi thì  họ sẽ no đủ hoặc  giàu có lên mới phải chứ. Nhưng không . Tất cả những người đã hăng hái  đấu tố, được  chia nhiều  quả thực từ gia đình tôi , sau đó  họ  không giàu lên mà cứ nghèo dần đi. Nghèo  quá phải mang  mấy  thứ quả thực Đội chia  cho đi chợ bán kiến tiền đong gạo nấu cháo ăn qua ngày. Nghèo đến độ chỉ năm sau họ lại đến nhà  xin mạ tôi từng lon gạo. Thuyền lưới nhà tôi bị tịch thu đưa cho bần cố nông, nhưng họ không biết quản lý, không có vốn để sữa chữa, đại tu, không tiền để  mua lưới mới rồi  thuyền  trở thành củi mục , lưới thành tả rách từ bao giờ không ai biết nữa. Thế là Cải cách ruộng đất bị  biến thành cuộc sát phạt  những trí thức, người giàu có, chứ chẳng có  ý nghĩa “người cày có ruộng” gì cả !.  Sau này đọc sách  báo, tôi mới biết cuộc sát phạt này bắt nguồn từ tư tưởng “đấu tranh giai cấp” của Quốc Tế Ba do Stalin chi phối. Sau chiến thắng phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ II, Stalin đã ra lệnh  giết  hại hoặc bắt đi đày tận Xibêri cho đến chết hàng chục vạn trí thức ưu tú của Nga vì ông  nghi ngờ trí thức luôn đối lập, không theo đường lối đấu tranh  giai cấp của mình. Rồi đến  Mao Trạch Đông ở Trung Quốc  với hàng chục cuộc thanh trừng như  “Cải cách ruộng đất”, “chống  phái hữu” rồi “Cách mạng văn hoá” đẫm máu và nước mắt. Hàng mấy chục triệu  trí thức Trung Quốc bị giết, bị đưa đi cải tạo lao động rồi chết dần chết mòn ở các vùng nông thôn  hẻo lánh. Tư tưởng độc tài này phát triển cực điểm ở Cămpuchia khi Đảng gọi là Cộng sản của tên đồ tể Ponpot lên nắm chính quyền sau năm 1975. Hơn hai triệu trí thức, người dân thành thị Cămphuchia đã bị tàn sát thảm khốc bằng cuốc, xẻng, dao rựa đập vào đầu, tạo nên những cánh đồng chết, những hồ chôn người tập thể. Thật khủng khiếp. Ở nước ta bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên là “địa chủ” bị xử bắn đầu tiên năm 1953. Bà Năm là một địa chủ  giàu có nhưng vô cùng yêu nước.  Bà đã giúp đỡ  cách mạng nhiều tiền ,vàng. Bà nuôi trong nhà rất nhiều  cán bộ là lãnh tụ của Việt Minh. Rứa mà Đội Cải cách đem bà Năm ra xử bắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh can :” Chẳng lẽ cách mạng ruộng đất lại mở đầu bằng việc giết một phụ nữ, lại là người đã giúp đỡ cách mạng ?” . Đội  lĩnh ý Cụ Hồ, mang hỏi  các ông cố vấn Tàu. Cố vấn phán :” Giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thế là bà Năm bị tử hình. Câu chuyện  này tôi đã nghe nhiều người kể , và mới đây đã được nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã viết ở trong tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường vừa xuất bản của ông. May mà Cụ Hồ đã phát hiện ra sai lầm, ra lệnh dừng việc đấu tố bắn  giết địa chủ đang làm tan nát nông thôn . Sau đó tiến  hành mấy đợt sửa sai. Sửa sai cũng  chỉ hô hào, rồi  đổi thành phần là địa chủ xuống trung nông, chứ nhà cửa, tài sản, danh dự chẳng ai trả lại cho ba mạ tôi cả. Phải  nói  rằng, ba  năm CCRĐ, nông thôn miền Bắc đã mất đi hàng vạn người giỏi : lao động giỏi , kinh doanh giỏi, học  hành  giỏi, là chỗ dựa vững chắc cho  cuộc mưu sinh  của  bà con nông dân ở các làng quê. Vì cả miền Bắc lúc đó có  hàng vạn làng, mà mỗi làng như làng Thượng Luật quê tôi có tới 4 người  bị quy là địa chủ , bị bắt  giam cầm và đấu tố đều là người giỏi, trí thức của làng. Nếu không  dừng việc đấu tố, mà cứ nghe theo lời các cô vấn , chắc chắn nông thôn miền Bắc sẽ  hàng vạn người làm ăn giỏi bị giết. Cầu mong Trời Phật làm sao trên đất nước thân yêu này không sinh ra bọn Đội quyền cao hơn Trời ấy một lần nữa !

              Điều tâm linh nữa là tất cả những người du kích đã cầm súng bắn vào ba tôi  trong  cuộc xử án hôm đó, sau này  hầu hết đều chết vì bị  bom đạn chiến tranh. Có người bị chết cả nhà một lúc. Có người sống đến  hoà bình lại chết vì cá mập trên biển. Hương hồn ba tôi nhân hậu, thương người chắc là ông không bao giờ trả thù ai. Nhưng lưới trời lồng lộng. Những  kẻ ác  không bao giờ thoát khỏi lưới trời trừng phạt. Người ta gọi đó là “quả báo” hay “ác giả ác báo”. Trong  số những người du kích cầm súng  xử bắn ba tôi thời đó, có một người còn sống đến hôm nay, lại trở thành su gia với gia đình anh Ngô Tấn  Nình. Hai bên gả con cho nhau và  sống hoà thuận, sinh cháu ngoan hiền vui vẻ. Có giỗ chạp gì hai nhà lại đến  cùng nhau. Có lẽ lúc đó  ông ta đã bắn không trúng hoặc chỉa súng bắn lên  trời chăng ? Điều đó minh chứng rằng, anh em  chũng tôi không hề lấy việc đau thương mất mát của gia đình làm thù oán. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng có  quy luật của nó : Ở hiền  gặp lành ! Đó là điều  mạ tôi  thường dạy anh em tôi mỗi tối.

  Những tháng ngày khổ đau buồn  bã đó, đêm về mạ tôi thường  mời anh Yêng , một người có giọng ngâm thơ rất tốt vào nhà cùng anh Khương đọc Truyện Kiều, truyện thơ Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cức Hoa  hay Lục Vân Tiên  cho mạ nghe. Mạ vừa  nghe thơ vừa  bỏm bẻm nhai trâù. Dường như thơ đã an ủi chia sẻ  với mạ những tang thương  gia đình. Nhưng lúc đó  tôi luôn ngồi bên mạ. Những âm điệu buồn của giọng ngâm thơ của anh Yêng đã ngấm vào  tâm hồn tôi từ bao giờ…

 

( trích sách 100 NGÀY VƯỢT TRƯỜNG SƠN)


Copy từ: Ngô Minh’ blog


.....................