CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014

Bị công an thẩm vấn vì tưởng niệm trận Gạc Ma


Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ 2014-03-14
truopngsa-305.jpg
Ngày 14/3/2013, người dân biểu tình tưởng niệm ngày TQ thảm sát 64 chiến sĩ đảo Gạc Ma hôm 14/3/1988.
Courtesy of huynhngocchenhblog


Cựu tù nhân chính trị Nguyễn Bá Đăng ở huyện Nam Sách, Hải Dương bị công an bắt đi thẩm vấn trong hai ngày 13 và 14 tháng 3 vì ông này có ý định tổ chức cuộc tưởng niệm 64 chiến sĩ Việt Nam hy sinh tại đảo Gạc ma hồi ngày 14 tháng 3 năm 1988.
Sau khi được về nhà, vào lúc 8:40 phút tối ngày 14 tháng 3, ông Nguyễn Bá Đăng cho RFA biết:
Suốt hai hôm qua họ luôn tra vấn tôi- cả ngày và cả đêm qua và ngày hôm nay. Họ cho là tôi tổ chức biểu tình, xuống đường ngày 14 tháng 3. Và họ đưa ra  hơn chục bài viết của tôi và muốn biết về nội dung hơn chục bài viết đó.
Gia Minh: Hôm nay mới là ngày 14 tháng 3, vậy chuyện tổ chức biểu tình đó như thế nào?
Ông Nguyễn Bá Đăng: Họ chủ động bắt tôi trước ngày 14 tháng 3 để ngăn cản không cho tôi tiếp xúc với những người dân khác trong nước để tổ chức kỷ niệm ngày 14 tháng 3- ngày mà các đảo Gạc ma, Cô Lin trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc xâm lấn. Mục đích là họ muốn phá không cho xuống đường để tưởng nhớ ngày Trung Quốc xâm lấn biển đảo của chúng ta.
Gia Minh: Trước việc họ nói ông tổ chức tưởng niệm ngày 14 tháng 3 và những bài viết trên facebook của ông, thì ông trình bày lại với họ thế nào.
Ông Nguyễn Bá Đăng: Tôi đã hoàn toàn không hợp tác với họ và trả lời họ rằng việc chúng tôi và người dân Việt Nam xuống đường là để tưởng nhớ đến những ngày mà đảo của chúng ta bị mất về tay Trung Cộng.
Tôi đã hoàn toàn không hợp tác với họ và trả lời họ rằng việc chúng tôi và người dân Việt Nam xuống đường là để tưởng nhớ đến những ngày mà đảo của chúng ta bị mất về tay Trung Cộng.
- Ông Nguyễn Bá Đăng
Tôi cũng có viết những bài viết nói lên hiện tình của đất nước.
Tôi hoàn toàn không hợp tác với họ, và họ không đủ tư cách để tra vấn và làm việc với tôi.
Gia Minh: Ông có thể cho biết những người làm việc với ông là những ai?
Ông Nguyễn Bá Đăng: Họ thay phiên nhau làm việc, họ rất đông khoảng từ 15 đến 20 người. Họ luôn bao vây quanh tôi để áp đảo. Trong đó tôi có nhớ một số tên công an, đó là công an Dương, công an Khương, công an Bình, công an Phong, công an Nho. Một số những nhân vật không mặc quân phục, mặc thường phục tôi không nhớ.
Gia Minh: Trong hai ngày và một đêm làm việc như thế thì sinh hoạt ăn, ngủ, nghỉ ra sao?
Ông Nguyễn Bá Đăng: Đêm hôm qua họ không cho tôi ngũ, bắt phải làm việc nên tôi phản đối rất kịch liệt. Tôi nói làm việc phải có giờ giấc, trong một ngày chỉ được làm việc 8 tiếng, không được kéo dài suốt đêm để ảnh hưởng đến sức khỏe của tôi và sức khỏe của người khác. Họ có cho tôi ăn tối và ăn sáng, nhưng họ luôn làm buổi tra vấn rất căng thẳng. Họ đập bàn, đập ghế, họ dọa nạt, đe dọa tôi với một lực lượng hùng hậu rất đông.
Gia Minh: Được biết từ khi mãn hạn tù cho đến nay ông về ở tại gia đình, địa phương;  vậy lực lượng chức năng có những hành xử thế nào với ông?
Ông Nguyễn Bá Đăng: Từ ngày tôi ra khỏi nhà tù nhỏ để vào nhà tù lớn thì được hơn một năm rồi; nhưng tôi thường xuyên bị chính quyền và công an các cấp luôn canh gác quanh nhà tôi. Tôi đi đâu họ cũng theo dõi và gây rất nhiều khó khăn đối với tôi và gia đình tôi.
Gia Minh: Lâu nay ông có tiếp xúc được với những người từng đấu tranh với ông trước đây và những người hiện nay công khai lên tiếng cho dân chủ- nhân quyền và quyền của con người tại Việt Nam không?
Ông Nguyễn Bá Đăng: Tôi luôn bị canh gác như vậy, nhưng luôn cố gắng lúc nào có thể được là vượt vòng vây của họ để cùng với những anh em cùng chung lý tưởng đấu tranh cho dân chủ- nhân quyền tại Việt Nam. Chúng tôi trong nước gặp rất nhiều khó khăn, họ luôn đe dọa chúng tôi.
Hiện nay họ sử dụng mọi thủ thuật đàn áp, đánh người và thậm chí họ sẽ tìm cách thủ tiêu. Hiện nay họ sẽ có nhiều phương cách tàn bạo hơn.
- Ông Nguyễn Bá Đăng
Gia Minh: Là người từng bị kết án tù, ông thấy tình hình hoạt động trước đây và hiện nay có những chuyển biến tích cực hay tiêu cực gì thưa ông?
Ông Nguyễn Bá Đăng: Trước đây trong thời gian tôi hoạt động cũng như hiện nay, nhà cầm quyền luôn tìm cách đàn áp và bóp từ trong trứng nước các nhà hoạt động vì dân chủ- nhân quyền của Việt Nam. Theo tôi từ trước cho đến nay họ càng đàn áp tinh vi hơn, tàn bạo. Hiện nay họ sử dụng mọi thủ thuật đàn áp, đánh người và thậm chí họ sẽ tìm cách thủ tiêu. Hiện nay họ sẽ có nhiều phương cách tàn bạo hơn.
Gia Minh: Nhưng ông thấy phong trào, và những người tham gia phong trào nhất là những người hoạt động ngoài đường phố, có thêm người không thưa ông?
Ông Nguyễn Bá Đăng: Phong trào dân chủ của Việt Nam hiện nay mạnh mẽ, đông đảo hơn trước rất nhiều. Sự sợ hãi cuả người dân và các nhà đấu tranh dân chủ- nhân quyền và các dân oan trước bạo quyền đã vươn xa hơn, họ cũng đã không còn những sự sợ hãi như trước đây. Mà nhiều người đấu tranh quyết liệt cho một tổ quốc Việt nam được dân chủ, tự do.
Gia Minh: Cám ơn ông Nguyễn Bá Đăng.
Xin phép được nhắc lại, ông Nguyễn Bá Đăng năm nay 50 tuổi. Ông từng bị bắt bốn lần vào các năm 2003, 2007, 2008 và 2010. Năm 2010, ông bị kết án 3 năm tù về tội ‘tuyên truyền chống Nhà Nước’.
 
 

Copy từ: RFI


...............

Cuộc Đời Trẻ Em Mồ Côi Dưới Thiên Đường Cộng Sản


Uyển Thi (Danlambao) - Ở Sài Gòn trẻ em và người lớn thường mua sắm cho quần áo mới mỗi dịp tết đến xuân về. Nên nhóm thanh niên công giáo chúng tôi có một kế hoạch là hễ chúng tôi quen ai, thường xin những bộ quần cũ vào dịp cuối năm để đem về nhà giặc sạch đem ủi để cuối năm hoặc một ngày chúa nhật thuận tiện, sẽ đem đến các trại cô nhi viện hoặc viện dưỡng lão để tặng lại cho các em và các cụ mặc. Trong dịp cuối năm vừa rồi khi đem số quần áo đến trại cô nhi viện để tặng tôi phát hiện một em trai có khuôn mặt, và ánh mắt buồn hơn tất cả những đứa trẻ khác tôi hỏi gì em cũng không nói mà chỉ lăn hai hàng nước mắt dài nhễ nhại, tôi đành hỏi sơ bề trên về hoàn cảnh đặc biệt của em?

Sơ bề trên kể sở dĩ em Tuấn có khuôn mặt và ánh mắt buồn là bởi cha em bị bệnh mất sớm mẹ bị người ta bán sang nước lạ, nhà cửa ruộng vườn thì bị qui hoạch với lại còn nhỏ cũng chẳng thể lao động được, họ hàng chẳng còn ai nên hai chị em phải dẫn nhau đi ăn xin để nuôi nhau được khoản ba năm. Nhưng mới cách đây hơn một tháng chị em bị tông xe ngất ra đường giữa đêm tối, và người ngây ra tai nạn thấy không có ai ngoại trừ một đứa nhỏ thì bỏ chạy đi mất. Khi người ta đưa chị em đến bệnh viện thì bác sỹ đã bảo chị em đã chết. Vì em Tuấn còn quá nhỏ nên khi em nói người tông chị em có mặc quân phục nên chúng tôi không thể tin ngay được, mong cơ quan điều tra sớm xác minh.

Vì hoàn cảnh đặc biệt của em và được sự giới thiệu của bệnh viên, nên cô nhi mới nhận em về ngôi nhà chung cho đến nay. Biết được hoàn cảnh của em rất đặc biệt tôi có ngỏ ý với sơ sẽ viết bài về em, nhưng sơ nhất định không chịu vì sợ liên lụy và nhất quyết không cho tôi chụp một bức ảnh nào về cô nhi viện của mình, và căn dặn không được viết tên cháu nhỡ may chính quyền đến làm phiền bởi cháu đã quá khổ rồi. Đúng là CS đã không giúp đỡ gì cho em bé và cô nhi viện công giáo thì thôi còn lại làm phiền, Tôi có hứa với sơ là sẽ không viết gì cả câu chuyện cũng dần quên đi, cho đến hôm qua khi tôi ra phố bắt gặp hình ảnh của hai chị em khác, cũng dẫn nhau đi xin nên nhớ ánh mắt buồn của đứa bé mà tôi đã gặp trong cô nhị viện lại hiện lên, nên tôi đặt bút viết tặng em một bài thơ dù có muộn

Và cũng để giữ lời hứa với sơ tôi không nói tên cô nhi viện mà có em Tuấn ở đó, cái tên Tuấn là do tôi đã sửa và những hình ảnh kèm theo chỉ mang tính chất minh họa, để mong bù đắp những gì uất hận mà em không thể nói ra thành lời, mà chỉ diễn tả bằng đôi mắt thật buồn và đầy lệ rơi

Đời Mồ Côi

Em sinh ra đã không hề biết mẹ
Hàng ngày Em theo chị để ăn xin
Ngày đầu đường đêm ghế đá công viên
Sống lay lắt nhờ đồng tiền thiên hạ.



Nhiều khi đói sữa thay bằng nước lã
Hai chị em vật vã dạ cồn cào
Dế ve Sầu nướng lót dạ đêm thâu
Mong trời sáng xin cơm thừa hàng quán.



Cha chết sớm mẹ bị người ta bán
Sang bên Tàu vào động bán dâm
Nhà cửa ruộng nương
Đảng qui hoạch chẳng bồi thường
Nghe người nói cán bộ phường chia chác



Mình sống được nhờ tấm lòng cô bác
Nín đi nào chị sẽ hát ầu ơ
Mất mẹ cha đời đói rét bơ vơ
Đừng khóc nữa em thơ xin hãy hiểu.



Chuyện xui xẻo đẩy đưa đời cô lựu
Chị bị tông xe nằm ngất bên đường
Khi mọi người đưa chị đến nhà thương
Chị đã chết từ trên đường nhập viện.



Kẻ tông chị là đảng viên say xỉn
Sợ liên quan chúng đã biến vào đêm
Hết họ hàng giờ chỉ còn mình em
Nên ánh mắt mới buồn lên đến thế.



Anh xin lỗi mấy tháng rổi mới kể
Chỉ mong sao ánh mắt bé vơi buồn
Trẻ ăn mày không được đảng yêu thương
Nhưng còn có những trại cô nhi viện

Uyển Thi
danlambaovn.blogspot.com
- See more at: http://thanhnienconggiao.blogspot.com/2014/03/cuoc-oi-tre-em-mo-coi-duoi-thien-uong.html#sthash.qNYKljbv.dpuf
Copy từ: Thanh Niên Công Giáo


.............

Bangkok phạt vạ người Duy Ngô Nhĩ nhập cư trái phép

Những người nhập cư lậu được cho là thuộc sắc tộc Duy Ngô Nhĩ đến từ Tân Cương Trung Quốc bị phát hiện tại tỉnh Songkla miền nam Thái Lan ngày 14/3/2014.
Những người nhập cư lậu được cho là thuộc sắc tộc Duy Ngô Nhĩ đến từ Tân Cương Trung Quốc bị phát hiện tại tỉnh Songkla miền nam Thái Lan ngày 14/3/2014.
REUTERS/Athit Perawongmetha

Thụy My
Thái Lan hôm nay 15/03/2014 đã phạt vạ những người Duy Ngô Nhĩ tị nạn từ Tân Cương vì nhập cư bất hợp pháp, dù Hoa Kỳ kêu gọi bảo vệ họ. Bangkok đang chịu đựng các áp lực quốc tế yêu cầu không gởi trả 220 người Duy Ngô Nhĩ về Trung Quốc.

Một tòa án miền nam Thái Lan đã phạt khoảng 120 người lớn trong số 220 người Duy Ngô Nhĩ trên số tiền 4.000 bath (124 đô la) mỗi người. Cảnh sát cho biết đang nhận diện các gia đình trước khi quyết định về số phận của họ.
Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ và Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc đang giúp đỡ cho những người Duy Ngô Nhĩ này, và hôm qua Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đề nghị Thái Lan « bảo vệ tối đa » những người tị nạn. 
Từ Bangkok, thông tín viên RFI Arnaud Dubus cho biết thêm chi tiết : 
"Thái Lan ở vào thế khó xử. Từ hôm thứ Năm, 220 người Duy Ngô Nhĩ gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em đã bị cảnh sát bắt giữ sau vụ bố ráp một khu lán trại nằm sâu trong rừng ở miền nam nước Thái. Ban đầu, những người nhập cư không có hộ chiếu này khẳng định họ là công dân Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng thực tế nhanh chóng cho thấy họ là những người Duy Ngô Nhĩ đến từ Tân Cương, Trung Quốc, muốn xin tị nạn tại Thổ Nhĩ Kỳ. 
Các nhà ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ đã có mặt tại chỗ và trao đổi với những người Duy Ngô Nhĩ, mà ngôn ngữ rất gần với tiếng Thổ. Một nhà ngoại giao Trung Quốc cũng được gởi đến miền nam Thái Lan, nhưng tự giới hạn ở việc bàn bạc với chính quyền địa phương. Hôm nay, Human Rights Watch đã yêu cầu Thái Lan không nên gởi trả người Duy Ngô Nhĩ về Trung Quốc.

Tổ chức bảo vệ nhân quyền giải thích, trong những trường hợp trước đây, những người Duy Ngô Nhĩ bị Malaysia hay Cam Bốt gởi trả về Trung Quốc đã phải lãnh những bản án tù giam nặng nề, và đôi khi còn bị tra tấn. Washington cũng yêu cầu Bangkok đáp ứng nhu cầu nhân đạo cho những người Duy Ngô Nhĩ này. 
Hiện thời Bắc Kinh, vốn lên án một số nhóm Duy Ngô Nhĩ là ly khai và khủng bố, chưa có phản ứng chính thức".
Trong những năm gần đây, dưới sức ép của Bắc Kinh, các quốc gia khác như Thái Lan, Cam Bốt, Malaysia, Pakistan thường gởi trả những người tị nạn Duy Ngô Nhĩ về Trung Quốc. Báo cáo nhân quyền mới nhất của Mỹ cho biết Trung Quốc « công khai đàn áp nghiêm trọng » người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, kể cả tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng.


Copy từ: RFI

.............

Con trai út của vua Bảo Đại – Bảo Ân


Huy Phương biên soạn Theo Văn học nguồn cội 
 
“Hoàng tử” Bảo Ân
NQL: Công nhận quá nhiều chuyện bây giờ mình mới biết!
Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.


Ðó là ông Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ tỵ nạn, Westminster.

Chúng tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng (1).
Ðiều đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm 2012.
“Mệ” Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày 4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh, vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.
Sau ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia, trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian, trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.
Cũng theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối xử tệ bạc này.

Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo đạo Chúa khác.

phi anh
Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)

Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn vị gốc.

Cố gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Sau năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm 1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải sống dưới chế độ cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.
163296-BAO DAI 1B.400
Hai nhân vật cuối cùng của giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh Luân (cháu nội của Bảo Ân). (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)

Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.
Con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)
*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.
*Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.
* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).
* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).
“Họa vô đơn chí!”
 Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Ngày 30 Tháng Tư, nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế, tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7. Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở 213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi phải dọn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc Loan.
163634-DP-130325-ChoTroi-1-400
Bức hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu của gia đình)

Tôi không biết Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại, chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất Ðính, chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.

Giấy tờ nhà đất chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để chứng minh là nhà này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang được gì thì mang, còn những gì nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.
Vào một buổi sáng thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại, nay không cánh mà bay. Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho Me tôi để lại, đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số vốn để buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để mặc.
Sống ở nhà Me tôi cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và chị Phương Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan Văn Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm thì mở mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo leo sang nhà bên cạnh trốn cho mau.
Me tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền đang tuyên truyền nói xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp, vay mượn cho chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.
Tôi đi vượt biên tổng cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị mất vàng chứ không bị bắt vào tù.
Hết tiền, bà và chị Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một chiếc khi tôi vào đại học.
Gian nan chốn chợ Trời
Vợ chồng tôi bắt đầu ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món hàng mua cả năm rồi mà không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả dạng cho người khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau đó có những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
co troi
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời. (Hình: Tư liệu của gia đình)

Thấy coi bộ bán Chợ Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11, được biết người bà con này có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, chúng tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến Thành.

Tôi đứng ở ngoài giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương một thời gian, chính quyền không cho xe ba bánh lưu thông những con đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng tôi bàn nhau đổi nghề một lần nữa.
Số là khi đi lấy nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ xong, nếu còn dư họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải chờ đợi 3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi đem những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ lớn.
Sau một thời gian quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai vợ chồng. Bán dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng bây giờ chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?
Tôi thì lo cho vợ tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt được thì đi tù là cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.
Trong một dịp tình cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại anh bạn thương phế binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc. Hiện nay, anh đang mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.
Sáng chúng tôi đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
163634-DP-130325-ChoTroi-3-400
“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)

Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi, đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận coi hàng nên không thể chở Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an và quản lý thị trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn bán, thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc cuộc sống của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên thằng con đang nằm ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn Thái Bình vắng tanh không còn một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ “đem con bỏ chợ!”

Quân theo gia đình đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.
Gian nan những chuyến đi
Khoảng cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin cho toàn gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi không thành.
bao An va Mong Diep
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004)

Năm 1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984. Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.

Mãi đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005 gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?
Ông Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
bao an va mo bao dai
Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha

Nghĩa trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,) họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)… Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất này cho ngài. Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài. Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Ông Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.
Một chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
bao an va cont rai
Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.

Gây quỹ
Tốn phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực hiện được. Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.
Năm 2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”
Việc ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
164028-DP-130401-BaoDai-8-400
Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.

Ngoài các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”(*) khắc trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của nó. Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.

Con trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại, ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người không ai muốn.
Ghi chú:
(*) Theo nhà biên khảo Võ Hương An, 4 chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trong kim khánh trên bia của lăng Vua Bảo Ðại tại nghĩa trang ở Paris, nhìn thì đẹp nhưng không có nghĩa. Hai chữ sắc tứ (hay có khi là ân tứ) được dùng khi vua ban thưởng một vật gì đó cho bầy tôi; ở đây, Vua Bảo Ðại đã là vua rồi thì không viết “Bảo Ðại Sắc Tứ” được. Nếu muốn trang trí thì nên ghi “Bảo Ðại Hoàng Ðế”.
Trong bài báo này chúng tôi dùng tiếng “mộ” để chỉ nơi an nghỉ của Cựu Hoàng Bảo Ðại. Nhưng theo sách vở triều Nguyễn, mộ của Hoàng Ðế, Hoàng Hậu, Thái Hậu được gọi là “lăng,” còn ngoài ra, dân thường và quan lại, dù đến nhất phẩm triều đình cũng chỉ được gọi là “mộ.”
Những đoạn đời gian truân
Ông Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như chúng tôi.
Một thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê. Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”
Trong thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.
Ông Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện này, cũng đã rất thông cảm.
Năm 1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm 1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung.
Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Câu hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ trương, chính sách của cấp trên?
164412-DP-BD11-400
Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.

Ông Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch thu” của:

- Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
- Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại. – Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
- Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…
Chúng ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung, diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho đến khi bà qua đời.
Sống lưu vong, chết nghèo khó
Theo lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị truất phế, bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Ông nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi ra khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ được. Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời” (nguyên văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới trở về với bà Mộng Ðiệp.
Cũng theo lời tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không muốn tin ai nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến khi đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi ông đi đâu thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải bảo Hoàng Tử Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu hoàng, thì ông giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện thoại cho Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa.”
Thứ Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm 1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo khổ và cô đơn
Năm 1967, Công Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp, nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc này cựu hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực, nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh chừng đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương Minh cũng chỉ gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo Thăng và các công chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc Trưởng Bảo Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia đình.
bao dai
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)

Ðời sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi làm tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung gởi qua. Mặc dầu các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài không bao giờ đề cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm miền Nam. Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.
Ở Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở với bà Monique trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến để cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp, bà Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ phi, nhưng nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà Monique đã đưa đến chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến thăm viếng ông nữa và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống trong cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại, Bảo Ðại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân, cùng đi với cựu hoàng có bà Monique.
Sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh không lui tới, thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy sự hiện diện của thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối cùng ở bên cạnh, với cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp.
‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể kết thúc 5 kỳ báo viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của ông, được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc trong lễ khánh thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng: “Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”
“Nói về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)

Copy từ: Quê Choa’ blog

.........

Thủ tướng Malaysia: Máy bay bay thêm 7 giờ, ngừng tìm trên biển Đông


Thứ Bảy, 15/03/2014 12:36

(NLĐO) – Tại cuộc họp báo ngắn gọn trưa 15-3, Thủ tướng Malaysia Najib Razak không xác nhận chiếc máy bay mang số hiệu MH370 của Malaysia Airlines bị không tặc. Đồng thời, ông tuyên bố chấm dứt tìm kiếm trên biển Đông.



13 giờ 33 (giờ VN): Cuộc họp báo kết thúc nhanh chóng mà không có câu hỏi nào được đưa ra. Kết luận lại, Thủ tướng Razak xác nhận máy bay đã bay một quãng đường dài ra khỏi lộ trình ban đầu trong vòng 7 giờ. Trong suốt thời gian đó, các hệ thống trên máy bay lần lượt bị tắt đi.
Ông Razak nói máy bay có thể bay theo 2 con đường khác nhau hoàn toàn, một là hướng xuống phía Nam Ấn Độ Dương và hai là... gần Thổ Nhĩ Kỳ. Tuyên bố này của thủ tướng Malaysia được báo Telegraph (Anh) gọi là "gây sửng sốt".
Ông cũng tuyên bố chấm dứt tìm kiếm trên biển Đông.

Thủ tướng Najib Razak (thứ hai từ phải sang) và quyền Bộ trưởng Giao thông Hishammuddin Hussein 
(thứ hai từ trái sang) trong họp báo. Ảnh: The Malaysian Insider
Thủ tướng Najib Razak (thứ hai từ phải sang) và quyền Bộ trưởng Giao thông Hishammuddin Hussein
(thứ hai từ trái sang) trong họp báo. Ảnh: The Malaysian Insider

13 giờ 30: Thủ tướng Razak tỏ ra rất cẩn trọng và tránh dùng từ "không tặc" nhưng có nói các hệ thống trên máy bay đã bị "vô hiệu hóa", phù hợp với "hành động có tính toán".
Ông nói các báo cáo khẳng định chắc máy bay bị không tặc là hấp tấp. "Tôi muốn nói rõ ràng rằng chúng tôi vẫn đang điều tra mọi khả năng. Các nhà chức trách đã quay lại điều tra phi hành đoàn và hành khách" - ông nói.
13 giờ 27: Thủ tướng Razak cho hay các hoạt động của MH370 "phù hợp với một hành động có tính toán của ai đó trên máy bay".Ông nói thêm: "Chúng tôi chưa thể xác định chính xác vị trí máy bay khi lần cuối cùng nó liên lạc với vệ tinh".
Theo điều tra mới nhất, tín hiệu của MH370 được ghi nhận bằng vệ tinh lần cuối là vào lúc 8 giờ 11 phút (giờ Malaysia) sáng 8-3, tức 7 giờ sau ước tính ban đầu.

Người thân của hành khách trên MH370 xem trực tiếp Thủ tướng Malaysia Najib Razak phát biểu tại Bắc Kinh. Ảnh: Reuters

Theo báo chí địa phương, cuộc họp báo được tổ chức lúc 12 giờ 30 phút ngày 15-3 (giờ Việt Nam) tại khách sạn Sama-Sama, Kuala Lumpur. Tuy nhiên, họp báo bắt đầu trễ hơn 45 phút. Thủ tướng Malaysia Razak Najib chỉ đọc một thông báo ngắn và không nhận trả lời câu hỏi nào
13 giờ 23: Thủ tướng Razak trình bày về các giai đoạn ban đầu của cuộc điều tra và phạm tìm kiếm được mở rộng ra biển Andaman. "Chúng tôi có thể tuyên bố chắc chắn rằng hệ thống báo cáo liên lạc trên máy bay bị vô hiệu hóa trước khi nó đến bờ biển phía Đông của Malaysia".
Ông cũng xác nhận chiếc máy bay được radar quân đội Malaysia ghi nhận ở phía bắc eo biển Malacca chính là MH370.
Theo ông, các dữ liệu vệ tinh cho thấy MH370 có thể bay theo 2 đường: về phía Bắc thì từ phía Bắc Thái Lan đến Kazakhstan, hoặc về phía Nam thì từ Indonesia đến phía Nam Ấn Độ Dương.
Do đó, cuộc tìm kiếm nay mở rộng ra các khu vực từ Thái Lan đến Kazakhstan, Turkmenistan (ở phía Bắc) và Indonesia rồi sâu hơn xuống phía Nam Ấn Độ Dương (ở phía Nam).
13 giờ 20: Thủ tướng Razak đến họp báo. Ông nói: "Đây là thời gian cực kỳ khó khăn cho các gia đình có người thân trên máy bay. Tình thế lúc này là chưa từng có tiền lệ. Chúng tôi hiểu nỗi khao khát có thông tin mới song chúng tôi có trách nhiệm phải cung cấp thông tin đã qua kiểm chứng".

Phóng viên chờ đợi bên ngoài phòng họp báo ở Malaysia. Ảnh: The Star
Phóng viên chờ đợi bên ngoài phòng họp báo ở Malaysia. Ảnh: The Star

Tại khách sạn Everly Putrajaya ở Kuala Lumpur, một số thân nhân cũng tập trung quanh 2 màn hình tivi ở hành lang để chuẩn bị theo dõi cuộc họp báo. Nhiều người tỏ ra hồi hộp, một số khóc khi nói về thân nhân.
Tại Bắc Kinh, các gia đình cũng tập trung tại khách sạn Lido để chờ cuộc họp báo được tường thuật trực tiếp.
Bên trong phòng họp báo có thân nhân, các nhà ngoại giao. Theo báo The Star (Malaysia), phóng viên được chọn lọc cho vào trong phòng. Ai cũng hy vọng có câu trả lời rõ ràng từ Thủ tướng Razak sau quá nhiều thông tin mâu thuẫn từ các quan chức Malaysia.
Ngay trước cuộc họp báo, hãng tin AP dẫn lời một quan chức chính phủ Malaysia nói các nhà điều tra đã kết luận chính một trong số các viên phi công, hoặc ai đó có kinh nghiệm bay đã cướp chiếc máy bay mất tích này.
Quan chức trên nói chưa thể xác định về động cơ của vụ không tặc cũng như chưa rõ chiếc máy bay bị đưa đi đâu. Ông nói vụ cướp máy bay này không còn là giả thuyết, và nhấn mạnh: "Đây là một kết luận".
Tuy nhiên, ngay sau đó, ông Azharuddin Abdul Rahman, người đứng đầu nhóm điều tra máy bay mất tích đã lên tiếng bác bỏ. “Nó chưa được kết luận. Tôi dẫn đầu cuộc điều tra và không một ai phát biểu như thế. Nó không phải sự thật!”- ông Rahman, Cục trưởng Cục Hàng không dân dụng Malaysia (DCA), bác bỏ.

Máy bay CN235 của không quân Malaysia tìm kiếm ở eo biển Malacca ngày 14-3. Ảnh: Malaysia Insider
Máy bay CN235 của không quân Malaysia tìm kiếm ở eo biển Malacca ngày 14-3. Ảnh: Malaysia Insider

Trước đó, công tác điều tra của Malaysia về chiếc máy bay mất tích đã tập trung nhiều hơn vào khả năng tội phạm vì chứng cứ cho thấy máy bay đã cố tình bay ngoài lộ trình hàng trăm dặm. Một quan chức quân sự cấp cao Malaysia giấu tên cho biết giới chức nước này tin rằng chiếc máy bay mất tích có thể đã bị một người thành thạo về kiến thức bay và nắm rõ các vị trí của radar cố tình chuyển hướng về phía Ấn Độ Dương.
Cuộc tìm kiếm MH370 đã bước vào tuần thứ hai với sự tham gia của 57 tàu và 48 máy bay đến từ 13 nước.


Hải Ngọc - M.Khuê (Theo The Star, Malaysian Insider, Telegraph)


Copy từ: Người Lao Động

........