CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Những người chiến sĩ trong thời bình



Khánh Trâm

Ngày 18 tháng 3 năm 1979 khi nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố trước thế giới rút quân khỏi biên giới phía Bắc nước ta, kết thúc 30 ngày đêm của thứ chiến tranh lấy thịt đè người, lớn bắt nạt bé (mà ông Đặng Tiểu Bình ngang nhiên tuyên bố là “dạy cho Việt Nam một bài học”), và những trận đánh cảm tử mà nổi bật là trận chiến Lão Sơn-Hà Giang (1984) hay trận chiến Gạc Ma ngoài biển Đông (1988), kể từ đó tiếng súng chiến tranh không còn vang lên trên lãnh thổ nước ta và từ đây Việt Nam mới thực sự bình yên (nói một cách tương đối) để bắt tay xây dựng đất nước. Tính ra suốt từ những năm 60 của thế kỷ XIX cho đến những năm 80 của thế kỷ thế kỷ XX, thời gian chỉ hơn một thế kỷ thế mà cái mảnh đất bé nhỏ hình chữ S này liên miên ngập tràn trong các cuộc chiến rất tang thương để rồi hơn 5 triệu người thiệt mạng (bằng dân số Phần Lan hiện nay). Trong thời chiến, vũ khí của những người lính và nhân dân là súng đạn, là lòng can đảm, là mưu trí, là tình yêu tổ quốc quê hương.
Hôm nay, chúng ta được hưởng những năm tháng không tiếng súng đã ba thập kỷ, một khoảng thời gian mà nước Nhật sau đại chiến thế giới thứ 2 tan hoang là thế, vậy mà họ đã vực dậy kiến thiết xây dựng lại đất nước của thần mặt trời trở thành cường quốc số 1 ở Châu Á, và cùng với Nhật các nước khác như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Malaysia, Đài Loan... cũng kịp vươn lên trở thành những nền kinh tế lớn của khu vực. So sánh như vậy để thấy Việt Nam mình hiện đang ở đâu. Nếu bỏ qua cái tính tự ty để mà nhìn thẳng vào sự thật thì chúng ta hiện đang tụt hậu rất xa so với các nước láng giềng về mọi mặt. Có lẽ bài vè trong dân gian “Việt Nam bây giờ mọi thứ đều nhất thế giới” đã nói lên tất cả: “Vợ rẻ nhất thế giới/ sữa đắt nhất thế giới/ xăng cao nhất thế giới/ xe hơi đắt nhất thế giới/ thuốc tây đắt nhất thế giới/ uống rượu nhiều nhất thế giới/ đánh bạc, số đề nhiều nhất thế giới/ trẻ em thất học, bỏ học nhiều nhất thế giới/ tai nạn giao thông nhiều nhất thế giới/ tham nhũng nhiều nhất thế giới/ dân lại nghèo nhất thế giới / bởi vô cảm và dối trá nhiều nhất thế giới (!)”. Hàng ngày chúng ta đọc báo, nghe đài, xem tivi… và nếu chịu khó xâu chuỗi những nội dung truyền tải trên các phương tiện truyền thông ấy sẽ thấy cái bức tranh tổng kết của dân gian qua bài vè kia là khá chính xác. Có thể nói chưa thời nào người phụ nữ Việt Nam lại chịu cái cảnh nhục nhã đứng xếp hàng cho người ngoại quốc chọn vợ, người công nhân bị các ông chủ ngoại quốc đánh đập, số khác phải ra nước ngoài làm thuê bị nhốt trong những xưởng may hay công trường xây dựng và phải làm việc đến kiệt sức, người dân nghèo ở các miền quê bản thân còn không đủ ăn mà phải cõng trên lưng nhiều thứ “đóng góp” bắt buộc, trẻ em miền núi thiếu đạm phải ăn thịt chuột, miền đồng bằng phải ăn khoai lang thay cơm, trẻ sơ sinh thì chết oan vì bác sỹ thiếu y đức… trong khi đó quan chức thì đánh cờ bạc tỷ, cảnh sát giao thông thì “làm luật” trắng trợn, hiệu trưởng thì môi giới bán dâm học trò, Việt Nam được thế giới cho đứng vào danh sách đầu bảng về các quốc gia tham nhũng nhất thế giới (ông chủ tịch nước thẳng thắn công nhận là “một bầy sâu”), đất nước đứng trên bờ vực thẳm về mọi mặt, thế nhưng những người thoát được cái “sợ” để cất tiếng nói thì đang phải chịu án hình sự vì “Việt nam không có tù nhân lương tâm”… Ôi, nếu còn kể tiếp thì người có trái tim sắt đá cũng cảm thấy choáng váng!
Đứng trước thực tại rất đau lòng này, những người công dân còn chút lương tri không thể không ngậm ngùi. Nhiều người vẫn cất tiếng nói. Vâng, thời bình cũng rất cần những “chiến sỹ” để “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” để “sánh vai với các cường quốc năm châu”… Thứ vũ khí của người chiến sỹ thời bình là gì? Đó là cây bút, là trí tuệ, là lương tri, là lòng can đảm, và tất cả cũng chỉ vì tình yêu tổ quốc quê hương.
Tôi ngồi lặng lẽ ngắm nhìn những người chiến sỹ trên các “mặt trận”: từ văn hóa, giáo dục, môi trường, đấu tranh dân chủ đến bảo vệ chủ quyền biển đảo. Trong số họ có đầy đủ nam, phụ, lão, ấu. Nhiều người còn khá trẻ nhưng cũng có nhiều người “mái đầu sương điểm” hay “phơ phơ đầu bạc”. Nhiều người hữu danh, nhiều người vô danh. Họ là những chiến sỹ thầm lặng nhưng trên đôi vai của họ cũng nén đầy trách nhiệm, hệt như những người ở hậu phương trong chiến tranh khi xưa cùng có chung mục đích “tất cả cho tiền tuyến”.
Về văn hóa giáo dục: Trong vài năm trở lại đây, đứng trước hiện trạng giáo dục ngày càng xuống cấp, giáo trình giáo khoa nặng về hình thức, quá tải về nội dung và những người chịu trách nhiệm trong ngành giáo dục vẫn duy trì việc “đem con em nhân dân ra làm thí nghiệm” hết năm này đến năm khác, thập kỷ này đến thập kỷ khác, một nhóm chuyên gia và giáo viên có kinh nghiệm và tâm huyết với giáo dục đứng đầu là nhà giáo Phạm Toàn đảm nhiệm chức năng trưởng nhóm, đã thành lập nhóm viết sách giáo khoa mang tên Cánh Buồm. Nhóm ra đời từ năm 2009 với mục tiêu làm ra một bộ sách giáo khoa (bắt đầu từ bậc tiểu học) nhằm “ hiện đại hóa nền giáo dục Việt nam” và “ đảm bảo hạnh phúc đi học cho trẻ em ”. Cho đến nay nhóm đã đưa ra xã hội, đã “trình làng” những sản phẩm cụ thể, đó là các bộ sách: Văn (lớp 1,2,3,4,5); Tiếng Việt (lớp 1,2,3,4,5); Lối sống (1,2,3); Tiếng Anh (lớp 1,2,3); Khoa học-Công nghệ (lớp 1,2)… và đã tổ chức được nhiều hội thảo để lấy ý kiến của các chuyên gia giáo dục và cha mẹ học sinh: “ Hiểu trẻ em-Dạy trẻ em” (2009); “ Chào lớp Một ” (2010); “ Tự học- Tự giáo dục ” (2011); “ Một cánh buồm-Một nhà trường hiện đại ” (2012); “ Nhìn bằng con mắt trẻ thơ ” (2013). Tiếp nối là các hoạt động khác. Tháng 7/2013 Cánh Buồm đã cho ra mắt “Ngày sư phạm Cánh Buồm ” là buổi sinh hoạt thường kỳ một tháng một lần, nơi trao đổi và chia sẻ những vấn đề liên quan đến tâm lý trẻ em, cách trẻ em học thế nào, chơi ra sao hay thảo luận về phương pháp dạy… Đối tượng tham dự gồm có giáo viên các trường tiểu học, phụ huynh học sinh, sinh viên các trường sư phạm, các nhà nghiên cứu giáo dục, những người quan tâm đến lĩnh vực này. Ngoài ra còn có những lớp dạy học theo chương trình của nhóm biên soạn... Trẻ em đến với với học đầy hứng thú, say mê vì ở đó các em được đối thoại, được “học mà chơi-chơi mà học” chứ không bị nhồi nhét kiến thức một chiều. Nhìn vào những nỗ lực không ngừng nghỉ này, chắc chắn một ngày không xa, phương pháp và giáo trình của Cánh Buồm sẽ dần dần làm lu mờ, thậm chí góp phần đẩy lùi “ Bốn căn trọng bệnh của giáo dục Việt Nam: bệnh thành tích, bệnh cào bằng, bệnh gian dối, bệnh suy dinh dưỡng”.
Chúng ta gọi họ là những CHIẾN SỸ bởi lẽ những con người này làm việc thiện nguyện, không có lương, không có thù lao, không cơ sở vật chất… vậy mà suốt 4 năm qua vì thế hệ trẻ, họ đã làm được nhiều việc mà những người được giao trọng trách, được hưởng lương bổng, được nhận nhiều ưu đãi của xã hội cũng không làm được.
Về môi trường: Giở những trang báo giấy, báo điện tử đưa những tin tức về môi trường ta có nhận xét ngay: Việt Nam cũng là quốc gia “đi tiên phong” trong vấn đề hủy hoại sinh thái và tàn phá môi trường . Sau chiến tranh, tốc độ khai thác rừng còn gấp nhiều lần số diện tích rừng bị tàn phá do chất làm rụng lá. Chẳng thế mà câu hát “gỗ miền núi về xuôi xây đời mới/ thắm tình giữa miền xuôi và miền ngược ” (bài “Hà Giang quê tôi”) nay được dân gian chế lời mới: “gỗ miền núi từ nay không còn nữa/ hết tình giữa miền xuôi và miền ngược”. Ai nghe cũng cười nhưng cái cười thật chua xót ! Chính vì thế, nhiều người đã lên tiếng bảo vệ môi trường. Không chỉ là gỗ, là rừng mà việc tận dụng khai thác khoảng sản hiện nay cũng đang là nguyên nhân tàn phá, hủy diệt môi trường (thậm chí có nơi còn thậm nguy đến an ninh quốc gia). Có thể kể ra đây 2 thí dụ tiêu biều: Dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên (đang tiến hành mà kết quả thua lỗ nặng) và dự án xây dựng thủy điện 6, 6A đang trong quá trình thẩm định, nếu được phê duyệt sẽ tàn phá phần lớn diện tích cánh rừng Nam Cát Tiên và khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Ví dụ thứ nhất: Dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên, ngay từ năm 2009 là năm bắt đầu khởi công xây dựng nhà máy Nhân Cơ đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong giới tri thức và nhân dân vì nó “vi phạm luật di sản văn hóa và luật bảo vệ môi trường”. (Đơn kiện thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng của luật sư Cù Huy Hà Vũ). Ngay từ đầu ai cũng thấy dự án có nguy cơ thua lỗ về mặt kinh tế và tàn phá môi trường, là quả “bom hẹn giờ” treo trên đầu người dân ở hạ nguồn và làm ô nhiễm sông Đồng Nai… Hậu quả của nó thật là kinh khủng. Biết bao nhiêu bài viết khoa học, đầy trách nhiệm của các nhà khoa học có chuyên môn trong và ngoài nước, kể cả thư ngỏ của danh tướng Võ Nguyên Giáp nhưng vẫn không ngăn cản được bởi vì đó là “chủ trương lớn của Đảng và chính phủ, là quyết tâm của Bộ chính trị ”. Đứng trước thảm họa nhìn thấy sờ sờ này, nhóm Bauxite Việt Nam do ba người khởi xướng: Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nhà giáo Phạm Toàn và GS Tiến sỹ Nguyễn Thế Hùng đã đứng ra lập nên trang mạng phản biện của giới tri thức do GS Nguyễn Huệ Chi điều hành bắt chấp nguy hiểm bản thân và nhiều lần bị chính quyền gây khó dễ. Ngày 12/4/2009 nhóm đã thảo ra “Kiến nghị về quy hoạch và các dự án khai thác bauxite ở Việt Nam” gửi đến Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội, Thủ tướng chính phủ đề nghị cho dừng dự án và đã nhận được gần 2800 chữ ký ủng hộ của rất nhiều nhân sỹ tri thức và nhân dân trong và ngoài nước.
Nhóm Bauxite và những người phản đối dự án khai thác bauxite Tây Nguyên ( ký tên hoặc ủng hộ kiến nghị) là những người CHIẾN SỸ.
Ví dụ thứ hai: Năm 2012 truyền thông đưa tin Thạc sỹ Nguyễn Huỳnh Thuật gửi tâm thư lên chủ tịch nước để thỉnh cầu việc cần thiết ngăn chặn ngay dự án thủy điện 6, 6A cắt ngang rừng Nam Cát Tiên, mất đi diện tích 137 hecta rừng trong vùng lõi, ảnh hưởng đến Bầu Sấu (khu ngập nước Ramsar, khu dự trữ sinh quyển thế giới). Là cán bộ công tác ở Vườn Quốc gia Cát Tiên, chuyên gia về đa dạng sinh học, là người có chuyên môn, nhận thức được việc đe dọa làm mất mát không chỉ tài nguyên rừng mà còn xâm phạm nhiều di chỉ văn hóa của tộc người Mạ (di chỉ Óc Eo), Thạc sỹ Thuật đã cùng nhóm bạn lập ra trang thông tin điện tử “Savingcattiennationalpark.blogspot.com”. Nhóm lấy tên “ Yêu quý bảo vệ Rừng Cát Tiên” để đưa tin và kêu gọi người dân đồng hành phản đối 2 dự án thủy điện trên bởi “Vườn Quốc gia Cát Tiên là tài sản quốc gia, là tài sản chung, nếu ai cũng bỏ mặc thì tài nguyên Việt Nam sẽ nhanh chóng mất sạch, mà cuối cùng, chỉ có người dân gánh chịu hậu quả”. Lời kêu gọi đã thu hút được 4700 chữ ký ủng hộ. Là người gửi tâm thư, cùng bạn bè tập hợp các nguồn ý kiến, theo đuổi đến cùng công việc gìn giữ môi trường này, thạc sỹ Thuật chấp nhận hy sinh cá nhân (anh không còn công tác ở Vườn Quốc gia Nam Cát Tiên nữa).
Nhóm “ Yêu quý bảo vệ Rừng Cát Tiên” là những CHIẾN SỸ. Việc làm của các bạn là góp thêm viên gạch để xây dựng xã hội dân sự mà ở đó người dân được cất tiếng nói, được đóng góp xây dựng và gìn giữ môi trường sống.
Về đấu tranh dân chủ, xây dựng xã hội dân sự và bảo vệ tổ quốc: Những năm gần đây chúng ta được chứng kiến nhiều nhóm thiện nguyện, nhiều cá nhân đóng góp các hoạt động rất hữu ích cho xã hội. Đó là chương trình “ Sách hóa nông thôn ” của sáng lập viên (và trực tiếp điều hành) Nguyễn Quang Thạch. Đây là “thư viện của người dân” với các mô hình: tủ sách dòng họ, tủ sách phụ huynh, tủ sách giáo xứ. Bắt đầu từ năm 2007, cho đến nay anh Thạch đã vận động được các cá nhân, tổ chức chung tay đóng góp (dưới nhiều hình thức) và đã xây dựng được hơn 160 tủ sách ở 21 tỉnh trên cả nước. Người sáng lập viên này đã chấp nhận hy sinh cá nhân, nghỉ việc lương cao để dành toàn bộ thời gian, công sức vào công việc thiện nguyện này. Anh và những người chung tay đóng góp mang sách, mang tri thức về tận vùng quê để khai sáng văn hóa cho nhân dân và học trò xứng đáng là những người CHIẾN SỸ.
So với các khu vực khác, khu vực miền núi ở nước ta còn rất nghèo. Với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, bằng nguồn kinh phí quyên góp từ nhân dân hay các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước… Các nhóm “No-U”, “Cơm có Thịt”, “Vì ta cần nhau” …đã lên tận vùng biên xa xôi như Háng Đồng (Sơn La), Suối Giàng (Yên Bái), và các trường ở Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang… để hỗ trợ trẻ em vùng cao như xây trường, ủng hộ dụng cụ học tập, áo rét, chăn ấm, sửa chữa trường, lớp học…
Tất cả những con người có tấm lòng cao cả này là những CHIẾN SỸ.
Những năm đầu thế kỷ XXI này, xã hội Việt Nam xuống cấp về mọi mặt và chưa lúc nào đất nước trong thời kỳ “nước sôi lửa bỏng” như ngày hôm nay. Có lẽ một bức tranh xã hội, một dòng lịch sử khái quát nhất về chính quyền và đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng đã được nhà văn Phạm Đình Trọng, người chiến sỹ từ khói lửa chiến tranh năm xưa - người chiến sỹ cầm bút hôm nay khắc họa là tiêu biểu hơn cả. Chúng ta đọc để nghiền ngẫm, để chiêm nghiệm “đúng, sai”, để trả lời cho rất nhiều câu hỏi “VÌ SAO” tồn tại suốt hơn nửa thập kỷ qua, để…
Sau đây là những con chữ rất nóng của ông, cũng hiện ra các cặp phạm trù “được-mất”, “tốt-xấu”, “lưu manh-lương thiện”,“nguyên nhân-kết quả”,… để ông lý giải việc xuống cấp về mọi mặt của xã hội Việt Nam hôm nay là từ những “sai lầm lên tiếp trong quá khứ, tham nhũng không có điểm dừng trong hiện tại của đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ thảm họa này đến thảm họa khác:
Thảm họa cải cách ruộng đất đánh sập từ gốc rễ đạo lí Việt Nam, đánh tan tác văn hóa làng xã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, thảm họa ngụy tạo ra vụ Xét lại chống đảng đã giam cầm, đầy ải, giết dần giết mòn những tài năng, tinh hoa nhất của dân tộc Việt Nam.
Thảm họa cải tạo tư sản ở miền Bắc sau năm 1954, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975 tước đoạt quyền làm chủ của những chủ tư sản biết tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra việc làm cho người lao động, tạo ra của cải cho xã hội.
Thảm họa tập trung cải tạo thực chất là tù đày lực lương ưu tú nhất của xã hội miền Nam cũng là tài sản con người của dân tộc Việt Nam, đẩy một nửa dân tộc Việt Nam ra khỏi vòng tay Mẹ hiền Tổ Quốc Việt Nam. Từ đó dẫn đến thảm họa thuyền nhân vùi xác hơn nửa triệu người dân Việt Nam dưới đáy biển.
Thảm họa mất đất mất biển. Những mảnh đất mang hồn thiêng tổ tiên người Việt Nam, thấm đẫm máu nhiều thế hệ người Việt Nam, những tên đất chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã bị Nhà nước Cộng sản Việt Nam cắt sang đất Tàu Cộng!
Thảm họa khai thác bô xít Tây Nguyên tàn phá môi trường, tàn phá văn hóa Tây Nguyên, làm chảy máu lâu dài nền kinh tế đất nước. Dự án khai thác bô xít Tây Nguyên liên tục ngốn nguồn vốn lớn hàng chục ngàn tỉ, hàng trăm ngàn tỉ đồng của nền kinh tế đất nước nhưng không làm ra một đồng tiền lãi, không bao giờ có lãi ở thời hiện tại!
Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi.
Thảm họa tụt lại sau thế giới, lạc lõng với thế giới. Năm 1975 Thái Lan phải ngước nhìn lên sự phát triển của kinh tế, xã hội miền Nam Việt Nam thì nay Thái Lan phải ngoái lại phía sau nhìn sự ì ạch của kinh tế xã hội Việt Nam vì Thái Lan đã vượt xa Việt Nam vài chục năm rồi và càng ngày Thái Lan càng bỏ xa Việt Nam.
Thảm họa trách nhiệm. Ở các nước dân chủ, bằng lá phiếu và bằng tự do ngôn luận, tự do báo chí, người dân thực sự có vai trò quyết định đến việc chấp chính của đảng cầm quyền và người cầm quyền. Chỉ một đổ vỡ nhỏ trong đời sống xã hội hoặc đời sống kinh tế đất nước, người cầm quyền phải đứng ra nhận trách nhiệm bằng việc từ chức, đảng cầm quyền cũng mất quyền lãnh đạo. Ở ta những thảm họa lớn gây chết chóc hàng trăm ngàn người dân như thảm họa cải cách ruộng đất, giết chết cả nền văn học nghệ thuật như thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, làm đình đốn cả nền kinh tế như thảm họa Vinashin nhưng những người cầm quyền không ai chịu trách nhiệm, không ai rời vị trí quyền lực, cùng lắm là luân chuyển từ vị trí này sang vị trí khác như sau thảm họa cải cách ruộng đất. Đảng độc quyền thì cứ bình thản cầm quyền. Người yếu kém và có tội cứ thản nhiên nắm quyền. Thảm họa cứ tiếp diễn và lan rộng ra cả xã hội. Xã hội Việt Nam hôm nay thực sự là thảm họa đối với dân tộc Việt Nam văn hiến”.
Chúng ta, mỗi người sau khi “ngắm nhìn” cái bức tranh trên đây, phỏng có nghĩ gì???
Trước chúng ta đã có nhiều người lên tiếng và bị vùi dập, bị gây khó dễ trong cuộc sống, thậm chí bị trừng trị, mặc dù họ là những đảng viên quyền chức của chính phủ như Kim Ngọc, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách… hay những tri thức, những văn nghệ sỹ: Phan Đình Diệu, Lữ Phương, Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc, Hà Sỹ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh… Tất cả họ là lớp CHIẾN SỸ đầu tiên đi tiên phong trên mặt trận đấu tranh dân chủ cho đất nước.
Tiếp nối truyền thống ấy là hàng trăm, hàng nghìn những tên tuổi khác, đó là những con người của “Kiến nghị về dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên” (2010), “Kiến nghị trả tự do cho công dân Cù Huy Hà Vũ” (2011), “Kiến nghị về việc bảo vệ và phát triển đất nước” (2011),” “Thư ngỏ gửi các nhà lãnh đạo Việt Nam về hiểm họa ngoại bang và sức mạnh dân tộc” (của 36 nhân sỹ trí thức Việt Kiều, 2011), “Thư gửi chủ tịch nước Trương Tấn Sang –về công dân Bùi Thị Minh Hằng” (2011), “Tuyên bố về vụ cưỡng chế giải tỏa đất đai Văn Giang bằng vũ lực” (2012), “Thư khẩn gửi chủ tịch nước về vụ bắt Phương Uyên” (2012), “Lời kêu gọi thực thi quyền con người theo hiến pháp và pháp luật tại Việt Nam” (2012), “Kiến nghị 72” (kiến nghị về sửa đổi hiến pháp, 2013), “Thư khẩn gửi chủ tịch nước và chính phủ Việt Nam về việc giải quyết tuyệt thực của blogger Điếu Cày” ( 2013), “Tuyên bố công dân tự do” (2013), “Tuyên bố 258” (2013) , “Tuyên bố nghị định 72” (2013)…
Các bản Kiến nghị, Tuyên bố, Thư ngỏ, Lời kêu gọi… đã đại diện tiếng nói trung thực, can đảm của giới trí thức và nhân dân Việt Nam, nhấn mạnh vào nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị, đòi tôn trọng các quyền tự do dân chủ của nhân dân, yêu cầu chính quyền thượng tôn pháp luật, bãi bỏ điều 4 Hiến pháp, bãi bỏ các điều 88, 79, 258 Bộ luật hình sự, thực thi quyền con người theo các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tôn trọng hình thức đấu tranh ôn hòa của các tổ chức quần chúng nhân dân trước thế lực bành trướng Trung Cộng, bảo vệ ngư dân, bảo vệ tổ quốc. Tất cả những con ngưới ấy họ là những CHIẾN SỸ.
Những người CHIẾN SỸ hôm nay không chỉ thể hiện trách nhiệm bằng lời nói, bằng bài viết, bằng chữ ký… mà còn bằng hành động. Đó là hàng chục cuộc xuống đường ôn hòa thể hiện tình yêu tổ quốc, đó là những con người đấu tranh đòi giới chủ phải tôn trọng người lao động, đó là những tri thức dấn thân. Thế nhưng nhiều người trong số họ hiện đang bị cầm tù. Thân thể các CHIẾN SỸ ở trong lao, nhưng tên tuổi họ rực sáng. Đó là : Trần Huỳnh Duy Thức, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày- Nguyễn Văn Hải, Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Đinh Nguyên Kha, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đinh Nhật Uy,Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào… chưa kể những chiến sỹ đã chấp hành xong án phạt nay lại tiếp tục con đường tranh đấu: Phạm Hồng Sơn, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Thăng Long, Lê Công Định…và gần đây nhất là người chiến sỹ trẻ Nguyễn Phương Uyên của phiên tòa xử phúc thẩm 16/8/2013 tại Long An. Người “chiến sỹ” Phương Uyên đứng trước tòa thân cô, thế cô, không có người thân, không có luật sư, chỉ có đầy “quần chúng tự phát”, an ninh mật vụ vây trong, vây ngoài tòa án, vậy mà em dõng dạc từng lời, đầy bản lĩnh: “ Tôi không cần giảm án, tôi chỉ cần tòa xử đúng người đúng tội. Tôi cho rằng chống ĐCS không phải là chống phá đất nước, dân tộc. Các ông đừng có đánh đồng ”.
Tôi chỉ mong dân tộc ta có thêm nhiều CHIẾN SỸ trong thời bình như hình ảnh người con gái tuổi 20 này. Những người CHIẾN SỸ biết mình muốn gì và dân tộc mình cần gì… Tôi nhớ có câu nói khá nổi tiếng: “Thành công là một cuộc hành trình chứ không phải chỉ là đích đến”. Hành động thường quan trọng hơn kết quả là vậy (bởi nếu không có hành động thì làm sao có kết quả?). Tác giả của câu nói trên còn khuyên: “ Enjoy the journey! ” Hành trình dân chủ tuy nhiều chông gai, hiểm nguy (và đầy vật cản trên con đường ấy), nhưng tôi vẫn tin những “chiến sỹ” đã lựa chọn con đường này họ có cách vui hưởng hành trình của mình, bởi họ có niềm tin: “Nước nhà được độc lập mà người dân không được hưởng tự do thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”, chỉ có con đường dân chủ hóa đất nước mới mong có được Tự Do cho nhân dân.
Sài Gòn 8/2013
K.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho: Bauxite Việt Nam

Đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam?

LS Nguyễn Lệnh
29-08-2013


Trước khi Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ra đời năm 1946, có gần 30 tổ chức có mục đích chính trị, hoạt động công khai hay bí mật tùy theo đường lối, lập trường của tổ chức đó. Những tổ chức có mục đích chính trị này (không phải là tổ chức có mục đích kinh tế, xã hội…) thường đặt tên cho mình là hội, đảng, mặt trận, liên đoàn, liên minh, liên hiệp … Xin liệt kê tên các liên minh và đảng phái chính trị Việt Nam vào thời kỳ trước khi có Hiến pháp 1946 như sau: – Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội – Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội – Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội – Việt Nam Quang phục Hội – Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – Hội Phục Việt – Đảng Lập hiến Đông Dương – Tân Việt Cách mạng Đảng – Đảng Việt Nam Độc lập – Việt Nam Quốc dân Đảng – Đông Dương Cộng sản Đảng – An Nam Cộng sản Đảng – Đảng Cộng sản Việt Nam – Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng – Đại Việt Dân chính Đảng – Đại Việt Quốc dân Đảng – Đảng Dân chủ Đông Dương – Việt Nam Cách mệnh Đảng – Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng – Đảng Xã hội Việt Nam – Đại Việt Duy tân Cách mệnh Đảng – Đảng Dân chủ Việt Nam – Đông Dương Cộng sản Liên đoàn – Việt Nam Dân chúng Liên đoàn – Mặt trận Quốc gia Thống nhất – Mặt trận Quốc gia Liên hiệp – Đại Việt Quốc gia Liên minh …(*)

Như vậy, một “tổ chức chính trị” – tức là tổ chức có mục đích chính trị, trước năm 1946 có thể mang những tên khác nhau như: Đảng, Hội, Mặt trận, Liên đoàn, Liên minh, Liện hiệp … và để xác định xem hiện nay đã có đủ căn cứ pháp lý hay chưa cho việc thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta cần phải xem xét một cách đầy đủ các văn bản pháp luật đã được ban hành từ trước đến nay và còn hiệu lực về vấn đề này như sau:
1/ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 9/11/1946:
Hiến pháp 1946 quy định tại Điều 10: “Công dân Việt Nam có quyền: -Tự do ngôn luận – Tự do xuất bản – Tự do tổ chức và hội họp – Tự do tín ngưỡng – Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.”
Vì lúc bấy giờ chưa có Luật để giải thích “quyền tự do tổ chức” trong Hiến pháp 1946 là như thế nào nhưng có thể hiểu là: quyền tự do thành lập và tham gia những tổ chức hoạt động có mục đích chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp … Hiến pháp 1946 không có một dòng chữ nào đề cập đến vai trò của bất cứ tổ chức chính trị nào đang hoạt động kể cả Đảng Cộng sản Việt Nam.
2/ Hiệp định Genève 1954 phân chia nước Việt Nam thành 2 quốc gia với 2 chính thể khác nhau:
- Ở miền Nam: Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (1954 – 1975) tiếp tục áp dụng chế độ đa đảng trong 21 năm. Có tổng cộng 8 tổ chức chính trị, hợp pháp lẫn không hợp pháp là: – Đảng Dân chủ Nam Việt Nam – Đảng Cần lao Nhân vị – Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam – Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam – Đại Việt Quốc dân Đảng – Đại Việt Cách mạng Đảng – Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam – Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (*).
- Ở miền Bắc: Quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tiếp tục duy trì chế độ đa đảng cho đến khi ban hành Luật quy định quyền lập hội năm 1957, trong đó có quy định về việc “phải xin phép lại” đã làm giảm rất nhiều các tổ chức chính trị thành lập trước ngày ban hành luật này.
3/ Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 Quy định quyền lập hội:
“Quyền lập hội” là thuật ngữ được Luật ngày 20/5/1957 này sử dụng chính thức thay cho “Quyền tổ chức” trong Hiến pháp 1946 với những điều quy định quan trọng như sau:
- Điều 1: “Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”.
Quy định tại Điều 1 này không giới hạn lĩnh vực hoạt động của hội: chính trị, xã hội, nghề nghiệp …, miễn là “mục đích” phải “chính đáng, phù hợp với lọi ích nhân dân …”. Tuy nhiên, “quyền tự do tổ chức” tại Điều 10 Hiến pháp 1946 đã bị thu hẹp rất nhiều bởi các quy định tại Điều 3 và 4 về việc “lập hội phải xin phép” đối với hội mới và “phải xin phép lại” đối với hội cũ.
- Điều 3: “Để bảo đảm việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định.”
Với quy định của Điều 3 này, những ai muốn lập hội mới đã phải chờ đến 46 năm thì Chính phủ mới ban hành thể lệ lập hội (30/7/2003).
- Điều 4: “Những hội đã thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại.”
Với quy định tại Điều 4 này, hầu hết những tổ chức chính trị cũ đều không vượt qua được cửa quyền “cấp phép lại” này của Chính phủ.
- Điều 9: “Các đoàn thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi quy định của luật này.”
Với quy định của Điều 9 này là nhằm dành quyền “không phải xin phép lại” cho những tổ chức chính trị đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất (1930 – 1945) do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ xướng hình thành và là thành viên tích cực với vai trò lãnh đạo.
- Điều 10: “Các hội có mục đích kinh tế không thuộc phạm vi quy định của luật này.”
Với quy định của Điều 10 này có thể tạm định nghĩa hội theo Luật năm 1957 là những tổ chức hoạt động có các mục đích chính trị, xã hội, nghề nghiệp…nhưng không có mục đích kinh tế (vì lợi nhuận) và phải được Chính phủ cấp phép hoạt động.
Trên thực tế, từ ngày Luật quy định quyền lập hội được ban hành năm 1957 đến ngày Việt Nam thống nhất năm 1975, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn duy trì chế độ đa đảng nhưng chỉ còn lại 3 tổ chức chính trị. Đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam và Đảng Dân chủ Việt Nam.
Có thể nhận thấy Luật quy định quyền lập hội năm 1957 này đã quy định rất thoáng về điều kiện thành lập hội: Chỉ cần “có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”. Nhưng cũng với quy định về việc “phải xin phép lại” đối với hội đã thành lập và “lập hội phải xin phép” đối với hội mới – mà Chính phủ lại không ban hành “thể lệ lập hội” mới, nên đến năm 1975 chỉ còn lại có 3 đảng hoạt động hợp pháp nói trên.
4/ Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 31/12/1959:
Hiến pháp 1959 có nói đến vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 ở phần Lời nói đầu.
Quyền lập hội được quy định tại Điều 25 của Hiến pháp: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”
Như vậy là cả Hiến pháp 1959 và Luật quy định quyền lập hội 1957 đều thừa nhận chế độ đa đảng.
5/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 18/12/1980:
Điều 4 Hiến pháp 1980 quy định rằng: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Các tồ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.
Điều 67: “Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập lhội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân…”
Chính 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 này đã tạo nên chế độ “độc đảng”. Đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải “tự giải thể” vào năm 1988. Còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam.
6/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/4/1992:
Điều 2: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”
Nhà nước pháp quyền với định nghĩa căn bản nhất là không có ai ở trên luật hay mọi người phải tuân theo pháp luật.
Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng (bỏ 2 từ duy nhất) lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Trong Điều 4 này đã bỏ đi 2 từ duy nhất. Điều này có nghĩa là Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng mà Hiến pháp 1980 đã quy định dành cho Đảng Công sản Việt Nam và khiến cho 2 đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải tự giải thể năm 1988.
Điều 4 này cũng bổ sung thêm 2 từ “pháp luật” trong cụm từ “khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhằm tăng cường giám sát hoạt động của Đảng CSVN bằng pháp luật cho phù hợp với Điều 2 và làm giảm quyền hành quá lớn của Đảng CSVN theo Hiến pháp 1980.
7/ Tại sao Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng ?
Theo tôi, về mặt pháp lý, Hiến pháp 1992 phải sửa đổi, bỏ đi 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 của Hiến pháp 1980, mặc nhiên hủy bỏ chế độ độc đảng dành cho Đảng CSVN là vì 2 lý do sau:
- Đã có mâu thuẫn pháp lý ngay trong 2 điều của bản Hiến pháp năm 1980, đó là Điều 4 và Điều 67. Một khi Hiến pháp đã quy định là “Công dân có quyền tự do lập hội” – trong hội có bao gồm cả đảng, thì làm sao có thể chỉ có một đảng “duy nhất” được. Sự sai lầm của HIến pháp 1980 đã được Hiến pháp 1992 sửa sai.
- Ngày 24/9/1982 Việt Nam đã gia nhập “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị -1966″ nên phải thực hiện cam kết của mình bằng cách hủy bỏ 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 Hiến pháp 1980 nhằm thực hiện các quyền và tự do của con người theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong đó có quyền tự do lập hội. Xin trích Điều 2 khoản 2 của Công ước quốc tế này như sau: “Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiên bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này” .
8/ Bộ luật dân sự đầu tiên năm 1995:
Bộ luật dân sự năm 1995 là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về pháp nhân. Bên cạnh các quy định về điều kiện để được công nhận là pháp nhân (Điều 94) và pháp nhân được thành lập theo sáng kiến cá nhân, tổ chức hay theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 95) thì quy định của BLDS về các loại pháp nhân tại Điều 110 là rất đáng chú ý:
“Điều 110. Các loại pháp nhân:
1. Pháp nhân bao gồm các loại sau đây:
a/ Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang;
b/ Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội;
c/ Tổ chức kinh tế;
d/ Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp;
đ/ Quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
e/ Các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật này.
2. Quy chế tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định tùy thuộc vào mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân.” Căn cứ vào Điều 110 này của BLDS năm 1995 và căn cứ vào Điều 1 và Điều 10 của Luật quy định quyền lập hội năm 1957 thì có 6 loại pháp nhân sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền lập hội năm 1957. Đó là: 1. Tổ chức chính trị, 2.Tổ chức chính tri – xã hội, 3.Tổ chức xã hội, 4.Tổ chức xã hội-nghề nghiệp, 5.Quỹ xã hội, 6.Quỹ từ thiện.
Như vậy, một pháp nhân được xác định là tổ chức chính trị khi có mục đích hoạt động chính trị. Đảng là một tổ chức chính trị có tư cách pháp nhân theo quy định của BLDS. Đảng là 1 trong 6 loại pháp nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền lập hội năm 1957.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.”
“Mục đích hoạt động” chính là nội dung cơ bản để phân biệt các loại pháp nhân được Luật quy định quyền lập hội năm 1957 điều chỉnh.
9/ Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội:
Nghị định này căn cứ Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20/5/1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội.
Nghị định này chính là “thể lệ lập hội” mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 có quy định tại Điều 3 là “sẽ do Chính phủ quy định”. Một từ “sẽ” trong Luật quy định quyền lập hội 1957 lại bị Chính phủ kéo dài đến 46 năm (!).
Nghị định này của Chính phủ đã đưa ra một định nghĩa “khó hiểu” về hội tại Điều 2. Thậm chí, có thể nói là Nghị định đã bóp méo, đã làm sai lệch hoàn toàn ý nghĩa so với định nghĩa rất thoáng tại Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957. Xin trích dẫn Điều 2 của Nghị định:
“Điều 2. Hội 1.
Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên; hổ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
2. Hội có các tên gọi khác nhau: liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là hội)” .
Sự “khó hiểu” trong Nghị định chính là : – Điều 1 Luật quy định quyền lập hội 1957: “Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta” .
“Mục đích” trong Điều 1 Luật quy định quyền lập hội năm 1957 đã bị diễn giải hoàn toàn khác hẳn trong Điều 2 Nghị định Chính phủ năm 2003.
- Điều 110 Bộ luật dân sự 1995 khi phân loại các pháp nhân cũng quy định tại khoản 2 rằng: “Quy chế tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định và tùy thuộc vào mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân”.
“Mục đích hoạt động” bao gồm: chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp. Đó là tiêu chuẩn để phân loại tổ chức là pháp nhân theo BLDS.
Còn khoản 2 của Điều 2 Nghị định này lại cố ý chỉ định một số tên gọi như là hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ nhằm loại khỏi Nghị định tên gọi đảng là tổ chức chính trị thường được sử dụng mà chính Luật quy định quyền lập hội 1957 đã bao gồm trong đó. Điều quy định này của Nghị định là “khó hiểu” và trái với nội dung thể hiện trong Luật quy định quyền lập hội 1957.
Tuy nhiên, Nghị định này lại công nhận các “tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội nghề nghiệp” cũng là hội, tại khoản 2 Điều 4.
Trong hệ cấp các văn bản pháp luật thì Luật cao hơn Nghị định. Vì vậy, những điểm nào trong Nghị định không rõ ràng hoặc trái với Luật thì sẽ áp dụng quy định trong Luật.
Như vậy, Nghị định Chính phủ số 88/2003NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội đã ban hành “thể lệ lập hội” căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội năm 1957. Mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 lại tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của nhân dân. Người dân có quyền tự do lập hội, miễn là lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta như đã quy định tại Điều 1 của Luật này. Vì vậy, Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957 được áp dụng thay vì áp dụng Điều 2 Nghị định Chính phủ 2003.
10/ Các căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam:
Như trình bày nêu trên, đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Các căn cứ đó là:
- Các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) đều quy định quyền tự do lập hội của công dân.
- Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 quy định quyền lập hội trong đó có tổ chức đảng. Luật này quy định rõ rằng: “Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”. Mọi quy định trong văn bản dưới luật của Chính phủ khi ban hành “thể lệ lập hội” trái với Luật này đều bị coi là vi phạm Luật và bị hủy bỏ.
- Bộ luật dân sự năm 1995 đã phân ra 9 loại pháp nhân, trong đó có 6 loại pháp nhân được điều chỉnh bởi Luật quy định quyền lập hội là: – Tổ chức chính tri, Tổ chức chính trị – xã hội, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội – nghề nghiệp, Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện. Bộ luật dân sự năm 2005 có bổ sung thêm một loại pháp nhân nằm trong hội nữa là: Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp.
- Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Nghị định này căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội 1957 để ban hành “thể lệ lập hội”. Nghị định này được thay thế bởi Nghị định Chính phủ số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 với chút ít điều chỉnh, bổ sung.
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 mà nước Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982, cam kết thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này. Khoản 1 Điều 22 Công ước này quy định: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đòan để bảo vệ lợi ích của mình”.
- Đặc biệt là quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1980 rằng “Đảng CSVN … là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội…” đã bị Hiến pháp năm 1992 hủy bỏ 2 từ “duy nhất” tại Điều 4. Tức là Hiến pháp 1992 đã không thừa nhận chế độ “độc đảng” của Đảng Cộng sản VN trong Hiến pháp 1980.
Với những những điều trình bày trên cho thấy hệ thống pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế mà VN tham gia đã có đủ căn cứ pháp lý để công dân Việt nam thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là ý kiến cá nhân. Tôi mong có một hội thảo chính thức về vấn đề pháp lý này để mọi công dân Việt Nam được hiểu rõ hơn về một quyền chính trị rất quan trọng của mình.
———
(*) Theo Wikipedia tiếng Việt


Copy từ:Ba Sàm

MỘT BÀI VIẾT NÉ NGHỊ ĐỊNH 72

Nghị đinh 72 bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1.9, theo đó các trang cá nhân như blog của mình chỉ viết về chuyện cá nhân, không được phép đăng thông tin tổng hợp và cũng không được phép đăng lại cũng như dẫn nguồn từ các trang thông tin tổng hợp được phép khác. Mình đã có bài phản đối cũng như đã ký tên vào tuyên bố phản đối nghị định 72 sai trái, tuy nhiên nhà cầm quyền của mình quen kiểu muốn làm gì thì làm, hiếm khi nghe ý kiến của dân mà sửa đổi những điều sai trái. Vì vậy mà cái nghị định phi dân chủ, phi nhân quyền ấy vẫn có hiệu lực.
Là công dân luôn tôn trọng pháp luật, dù pháp luật có quá nhiều điều sai trái cần chỉnh sửa (mình cũng đã ký tên vào rất nhiều kiến nghị yêu cầu chỉnh sửa cũng như góp ý Hiến Pháp về những điêu sai trái đó), mình phải viết các "entries" trên blog nầy theo quy định mới, nghĩa là chỉ viết về những chuyện của cá nhân mình.
Sau đây là bài viết mang đầy tính cá nhân đó.

Sáng nay thức dậy, như thường lệ, lại uống một ly cà phê và mở máy vào mạng để theo dõi tin tức thời sự.
Từ hồi có mạng tới giờ, mình không mua báo giấy nữa vì báo giấy là độc quyền của nhà nước chịu sự lãnh đạo và kiểm tra chặt chẽ của Đảng, 700  cơ quan truyền thông nhưng chỉ có một tổng biên tập, chỉ đăng những gì có lợi cho đảng cho nên thông tin chỉ một chiều, phiến diện và có khi rất láo. Trên mạng thì vừa có báo lề đảng, vừa có báo lề dân lại vừa có mạng xã hội cũng như các trang cá nhân của các bạn bè khác nên thông tin rất phong phú, đa chiều, sinh động và quan trọng là phản ảnh cực nhanh, cực đúng với thực tế đang diễn ra trong cuộc sống.
Hôm nay dư luận về "chuyện tính sổ với đảng" và hô hào lập đảng đối lập của ông Lê Hiếu Đằng vẫn còn sôi sục trên mạng. Tập đoàn truyền thông lề đảng đã có trên 18 bài viết gọi là phản biện lại những ý kiến và hành động của ông Đằng. Mình lần lượt đọc qua các bài ấy trên trang Ba Sàm, một trang tổng hợp thông tin đa chiều thu hút hằng trăm ngàn lượt người đọc mỗi ngày, và cũng nhờ đăng lại trên trang nầy mình mới đọc chứ chỉ đăng trên các trang của đảng thì mình cũng như rất nhiều bạn bè khác cũng chẳng bao giờ đọc. Các trang truyền thông lề đảng ấy thường giấu biệt số lượt người đọc mỗi ngày, nhưng nhìn qua xếp hạng của họ trên mạng Alexa thì thấy ngay rằng chẳng có bao nhiêu người đọc.
Trở lại chuyện đọc qua các bài gọi là phản biện ấy, mình thấy sao những nhà lý luận cung đình chuyên hay không chuyên của đảng quá sức ấu trĩ và xơ cứng về tư duy. Trong các bài viết giống giống nhau ấy toàn thấy hô khẩu hiệu một cách ngang phè, chẳng thấy lập luận gì ra hồn. Có lẽ các vị nầy dù có bằng cấp thật thì cũng học "giả " hoặc do xuất thân họ quá kém về nền tảng văn hóa nên có học hành gì nhiều cũng không "đái qua khỏi ngọn cỏ" tư duy khoa học. Nhưng cũng tội cho họ, là họ có được lẽ phải đâu mà có lập luận vững mạnh để phản biện dù cho rằng có học hành, bằng cấp đàng hoàng.
Mình thấy thối nhất là cái chuyện phát hiện ra ông "Việt kiều" Amarin TX, làm ra bộ viết bài từ nước Mỹ, hung hăng hô khẩu hiệu đả đảo ông Đằng và chuyện đa đảng lại chính là tay Hoàng Văn Lễ, tiến sĩ (chắc cũng loại xây dựng đảng), nguyên tổng biên tập Tạp chí sổ tay Xây dựng Đảng. Phạm thị Hoài ở tận bên Đức lại còn phát hiện thêm ông nầy ký với rất nhiều tên khác nhau, thường là giả danh Việt kiều để viết bài trên các báo lề đảng ca ngợi sự trường tồn vĩnh viễn của đảng và lên giọng trấn áp triệt để các xu hướng dân chủ tiến bộ trong nước. he he. Ông tiến sĩ nầy thế mà hay, vừa lập công dâng đảng lại vừa kiếm thêm chút thu nhập qua nhuận bút của hàng loạt các bài báo nhân bản ngô nghê. Mình mà bắt chước như ông này thì mình viết vừa hay hơn, không cần nhân bản vẫn nhiều hơn do vậy sẽ kiếm được bọn tiền hơn. Lại thêm, sẽ được nhiều ưu đãi, không phải nơm nớp lo sợ côn đồ hành hung, không bị cấm đi ra nước ngoài một cách phi nhân quyền...
Cũng đọc trên báo mạng, đến nay, mình thấy có đến mấy chục bài viết phản biện lại các phản biện của báo lề đảng. Bài nào cũng hay, cũng đầy tính thuyết phục với lập luận vững chắc, logic và quan trọng là rất dũng mãnh, tự tin vì đã dựa trên nền tảng của lẽ phải. Tất cả những bài viết đều có ký tên tác giả với địa chỉ rõ ràng, không hề nặc danh, mạo danh hoặc ẩn núp một cách hèn hạ như những anh hùng núp của phía bên kia.
Đọc qua tên tuổi của các tác giả cũng như lập luận trong bài viết, mình đã thấy ngay lẽ phải và sự chính danh ở phía nào. Hồ Ngọc Nhuận, Phạm Đình Trọng, Hạ Đình nguyên, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu,Trần Vũ Hải, Hoàng Xuân Phú, Bùi Văn Bồng, Nguyễn Mộng Hoài, Phạm Thị Hoài, Trần Kỳ Trung, Hồng Lê Thọ, Phạm chí Dũng, Lê Diễn Đức, Song chi, Hà Văn Thịnh, Đào Tiến Thi, Phương Quỳnh, Đặng Ngữ, Giang Nam Lãng Tử, Tâm sự Y Giao, Huỳnh Phan, Ngọc Thu, Trung nghĩa, Thanh Tùng, Nguyễn Lệnh...
Rồi mình ghé mắt qua một số báo lề đảng quen thuộc trên mạng cũng như vài trang mạng xã hội, thấy dư luận đang phẫn nộ chuyện giám đốc các công ty công ích của TP HCM tự trả lương cho mình trên 2 tỉ mỗi năm. Nhất là ông giám đốc công ty thoát nước, làm dịch vụ rồi thu tiền từ ngân sách mà không hiểu tiền ở mô ra mà ông tự trả cho ông mỗi tháng trên 200 triệu, trong khi lương của một ông công chức cấp cao hơn ông hàng mấy chục lần là ông thủ tướng chỉ lãnh mỗi tháng có 17 triệu. Ông móc nước cống lên ăn hay sao mà nhiều thế? Đọc đến đây mình lại ngao ngán cho cái chính quyền nầy. Nêu lên lương thủ tướng chỉ có 17 triệu sao mà thấy sự chân thật nó thảm hại như một lời nói dối chân thành vậy. Ôi cái gì cũng giả tuốt. Lương của ông trên 200 triệu cũng giả mà lương của ông 17 triệu cũng giả luôn. Lại nhớ câu nói của ông Lê Hiếu Đằng: không có sự trung thực tồn tại trong cơ chế nầy.
Tức cười nhất là ông Lê Hoàng Quân, chủ tịch TP, sếp cao nhất của các công ty công ích, cho rằng rất choáng váng khi biết lương khủng của các vị thuộc cấp của mình, hứa sẽ trừng trị đến nơi đến chốn. He he, tại sao hơn mười mấy năm làm sếp cái thành phố này mà ông không hề hay biết các thuộc cấp mình công khai nhảy múa trên đống tiền thuế- phí của dân? Rồi không biết ông có trị được không? Mình lo cho anh bạn già nầy của mình quá, mấy chục năm làm quan chức cúc cung, luôn nói những lời nhỏ nhẹ, lần đầu tiên thấy hùng hổ lên gân...không biết kết cuộc sẽ ra sao? Que sera sera ????
Nhức đầu quá, không thể nào ngồi nêu ra hết các chuyện thị phi đang chất đống trong đầu mình.
Mà thôi, cà phê đã hết, mà thời gian buổi sáng cũng hết, mình tắt mạng và đi làm việc kiếm cơm đây. Đã về hưu rồi mà còn phải nai lưng ra làm việc. Không làm thì làm sao đủ sống. Lương đương chức của thủ tướng mà chỉ có 17 triệu thì lương hưu của mọi người là cái đinh gì, mà lại là lương thực nữa mới chết chứ.
 He he

Copy từ: Blog Huỳnh Ngọc Chênh

Nguyễn Văn Dũng bị bắt về tội ‘Giao cấu với trẻ vị thành niên’ - bài học cho những nhà đấu tranh trong nước

Biểu tình viên Nguyễn Văn Dũng bị bắt về tội ‘Giao cấu với trẻ vị thành niên’ - bài học cho những nhà đấu tranh trong nước

Lê Nguyên Hồng
Tin biểu tình viên Nguyễn Văn Dũng có nickname Facebook là Aduku Adk bị công an bắt ngày 21/08/2013 vì tội danh ‘Giao cấu với trẻ vị thành niên’, không phải tội ‘Hiếp dâm trẻ em’ vì theo mô tả thì người con gái được cho là nạn nhân của Nguyễn Văn Dũng đã 15 tuổi, tin này thực sự chấn động giới trẻ có tư tưởng cấp tiến tại Hà Nội nói riêng và Việt nam nói chung, nhất là Câu lạc Bộ bóng Đá NO-U mà Dũng là một thành viên nổi bật.

Nguyễn Văn Dũng tức Dũng Aduku Adk
Đối với vụ “Dũng Aduku Adk phạm tội giao cấu với trẻ vị thành niên” có chút gì đó khá giống với trường hợp blogger Lê Nguyên Hồng (người viết bài này). Tôi cũng bị vu cáo là phạm tội giao cấu với trẻ em năm 2006, bọn xấu đã dùng Phoshop làm ra hẳn một lệnh truy nãgiả mạo như thật đề năm 2007 tung lên Internet, nhưng thật may là tôi đã cóđủ tài liệu và bằng chứng bác bỏ cáo buộc này ngay lập tức, vì kẻ đã dựng chuyện không thể ngờ rằng tôi lại giữ được những tài liệu và bằng chứng tốt cho tôi đến như vậy.

Chuyện Dũng bị bắt thì đã rõ, sự thật thế nào thì thời gian sẽ làm sáng tỏ cả mọi đường. Những người quan sát chỉ có thể dựa vào tất cả các nguồn thông tin tin cậy để dự đoán. Nếu xem xét một cách khách quan thì rất có thể đây là một vụ án oan hoặc thủ phạm đã bị dụ vào chiếc bẫy đã giăng sẵn của công an an ninh Việt nam.

Trước hết Dũng Aduku Adk là một cái gai trong mắt công an vì anh luôn là một biểu tình viên đi đầu trong các cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lược Hoàng Sa và Trường Sa hồi năm 2011 tại Hà Nội. Dũng cũng là thành viên quan trọng của Nhóm NO-U – một tổ chức dân sự tự do hoạt động thể thao bằng môn bóng đá, và điểm nổi lên là nhóm này tập trung số đông những thanh niên có tư tưởng đấu tranh chống nhà cầm quyền do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.

Người ta không khó để nhận ra rằng cuộc chặn bắt Dũng Auku Adk và bạn gái, sau đó là việc khám nhà anh rầm rộ ngày 21/08/2013 cho thấy: Có mùi chính trị trong cuộc bắt giữ này!

Lúc bị bắt Dũng chỉ kịp nhắn tin là “bị công an bắt cùng bạn gái khi đang đi trên đường” và ngay sau đó là cuộc khám xét nhà đột ngột và hết sức đặc biệt: Theo mô tả của hàng xóm nhà Dũng thì công an cảnh sát và công an an ninh đã chốt chặn, khóa chặt thậm chí là cả hành lang khu nhà Dũng ở.

Đây là điểm bất thường đối với tội danh này và với vụ án này, vì thông thường ít nhất công an cũng phải mất vài ngày để tiến hành điều tra xét hỏi đương sự và nạn nhân, sau đó mới tiến hành khám nhà. Thậm chí trong rất nhiều trường hợp công an không khám nhà khi đã có đủ chứng cứ kết tội…

Việc bắt Dũng Aduku Adk chắcchắn đã được công an lên kế hoạch tỉ mỉ và việc khám nhà rầm rộ chủ yếu nhằm gây tiếng xấu trong dư luận để cùng lúc hạ bệ danh tiếng một thủ lĩnh đấu tranh song song với việc buộc anh phải ngồi tù.

Trong hầu hết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em được phát hiện, chủ yếu là do nạn nhân hoặc gia đình nạn nhân tố giác, nhưng trong vụ bắt giữ Dũng, nạn nhân lại bị bắt cùng thủ phạm trên đường đi chơi, trong khi đó thì công an hoàn toàn có thể bắt Dũng tại một thời điểm và địa điểm thích hợp hơn nhằm giữ bí mật danh tính nạn nhân (theo luật) để tránh tác động xấu đến đời sống tinh thần người bị hại là một trẻ vị thành niên.

Một giả thuyết được đưa ra: Nếu công an tuyển một gái mại dâm để cài bẫy Dũng thì chắc chắn Dũng sẽ dính đòn. Ở Việt Nam nếu muốn tìm một gái mại dâm vị thành niên thậm chí đã thập thành trong nghề là điều vô cùng đơn giản. Nhất là tại các vùng xa thành thị có hoạt động mại dâm, các em đều không hiểu biết pháp luật và dễ dàng bị dụ dỗ lôi kéo, lâu ngày sẽ dạn dĩ và trở thành “nhà nghề” như trườnghợp My Sói.

Thôi, dù là nữ công an giả dạng hay gái mại dâm trá hình trong vai “nạn nhân” của Dũng Aduka Adk, hoặc là chuyện luyến ái có thật thì việc cũng đã rồi. Chắc chắn đây là bài học xương máu cho giới đấu tranh trong nước, không khác là mấy về tính chất so với vụ blogger Điếu Cày bị tù vì tội “trốn thuế”, luật gia Cù Huy Hà vũ bị bắt vì tội “có hai bao cao su qua sử dụng trong khách sạn”.

Nhiều năm qua, một điều thấy rõ là công an Việt Nam đã không từ một thủ đoạn xấu xa nào nhằm đàn áp bằng được các nhà đấu tranh trong nước. Trước khi Dũng Aduka Adk bị bắt cũng đã có một biểu tình viên khác là anh Nguyễn Vũ Vỹ bị sát hại ngay tại phòng riêng ở khu nhà trọ Trại Cá – Hà Nội. Khi bị dư luận nghi ngờ là có bàn tay công an làm việc này thì ít ngày sau báo chí nhà nước vội vã đăng tin là công an đã bắt được thủ phạm giết Vỹ. Sự thật thế nào, nếu đúng thì sẽ phải có phiên tòa và có thủ phạm bằng xương bằng thịt chứ không thể chỉ là những mẩu tin mà dư luận không thể kiểm chứng?! Chưa nói đến sự thật rằng liệu có ai đứng đằng sau nghi phạm hay không…

Phàm làm người, không mấy ai “nắm tay cả ngày đến tối” sơ hở là chuyện thường. Nhưng có vẻ như Dũng Aduku Adk đã thiếu kinh nghiệm và thiếu cảnh giác. Cái giá phải trả sẽ là không nhỏ. Trong vụ này nếu anh biết phòng xa và nếu đây là cái bẫy thì công an đã không thể thành công…

Trường hợp của tôi thì nhẹ hơn và dễ bào chữa hơn Dũng Aduku Adk vì công an chẳng thể kiếm đâu ra nạn nhân trên đời này. Có thể những kẻ xấu chỉ dùng lệnh truy nã giả mạo đó để cầm chân tôi lại Thái Lan thêm một thời gian để chúng dễ bề ra tay trả thù chứ không có mục đích gì khác. Còn Dũng thì công an chỉ việc “nhét” lời khai của “bị hại” vào hồ sơ điều tra là Dũng không có cách gì gỡ tội được…

Tuy nhiên nếu đúng là Dũng bị mắc bẫy thì đây cũng chưa phải là thủ đoạn tinh vi nhất của công an nhằm triệt phá uy tín người đấu tranh. Trên thực tế họ còn có thể tung ra hàng loạt những nhân viên tuyển mộ hoặc chính quy để thâm nhập vào hàng ngũ đấu tranh, những nhân vật này sẽ cố gắng tạo ra vị trí đấu tranh nổi bật: Biểu tình, lên tiếng, gia nhập các tổ chức đấu tranh, viết bài chống Cộng.., họ cũng bị bắt giữ, bị đàn áp như thật. Khi những người này chiếm được cảm tình và tạo được uy tín thì họ sẽ tung ra những bài viết, bài phát biểu tấn công ngược những người đấu tranh hoặc tự tạo ra những vụ scandal phạm những tội kinh tởm để đánh vào niềm tin của quần chúng…

Nói cho cùng, mặc dù chuyện Nguyễn Văn Dũng bị bắt do bất kỳ nguyên nhân nào có dính dáng đến cô bạn gái trẻ thì lỗi trước hết là do chính anh ta thiếu kinh nghiệm sống. Một người có tư tưởng đấu tranh công khai ở Việt Nam đồng nghĩa với nguy cơ bị gán gép một tội hình sự nào đó rất bất ngờ. Nếu những nhà đấu tranh trong nước không chịu khó đề cao cảnh giác thì sẽ còn nhiều người bị lâm vào cảnh ngộ giống như Dũng Aduku Adk.

Lê Nguyên Hồng

Copy từ: Blog Lê Nguyên Hồng

HÃY ĐỂ ƯỚC NGUYỆN CỦA LÊ HIẾU ĐẰNG TRỞ THÀNH HIỆN THỰC

Nguyễn Thanh Giang


Tôi đã từng viết bài xiển dương những đảng viên Cộng sản phản tỉnh: Trần Dộ, Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Vi Đức Hồi, Vũ Cao Quận, Tô Hải, Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo, Trần Đại Sơn, Trần Lâm, Trần Nhơn, Phạm Đình Trọng ….Họ đều từng là những chiến sỹ Cộng sản kiên trung và cùng chiến tuyến với tôi qua mấy cuộc chiến: chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc.
Sự trân quý tương tự cũng từng được dành cho Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh, và nay là Lê Hiếu Đằng, khi tôi được đọc những dòng huyết lệ của ông viết từ giường bệnh. Sự phản tỉnh của Lê Hiếu Đằng muộn mằn hơn nhưng hơi thở hắt ra từ một người đang lâm bệnh hiểm nghèo, nghe như “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”, có sức lay động lòng người rất đáng kể, đặc biệt là trong tình hình hiện nay.

Tôi vừa quý trọng vừa cảm thương Lê Hiếu Đằng. Ông còn trẻ hơn tôi gần chục tuổi, nhưng lẽ nào …! Dẫu sao, trong cái bụi mận gai bệnh tật hiểm nghèo, ông cũng đã cố rướn mình hót tiếng hót rất hay. Tôi cứ nghĩ mọi người đều có khả năng thẩm âm tối thiểu để lắng nghe, để thưởng thức, để thấu hiểu được, ngõ hầu nếu không đồng thanh tương ứng mà cùng kêu gọi “Phá xiềng” như Hồ Ngọc Nhuận thì chí ít cũng ngỏ lời an ủi, góp liều thuốc tinh thần chung sức cùng y tế vực Lê Hiếu Đằng dậy mà chung lưng gánh trách nhiệm thực hiện hoài bão ông đề xướng.
Trớ trêu thay, tiếng hót thành tha ấy tuồng như đang bị chìm lấp trong ầm ĩ, nhao nhao những điều ong tiếng ve!
Dẫu biết khả năng thuyết giải rất không đáng kể, bài viết này, may chăng, mong được chia sẻ cùng luật gia Lê Hiếu Đằng – một người bệnh đang sống rất mạnh mẽ, rất ngoan cường.
Trong nhao nhao, ầm ĩ những điều ong tiếng ve kia, ngạc nhiên thay, không chỉ có tiếng của bọn bồi bút, của những kẻ đâm thuê chém mướn “chống diễn biến hòa bình” … mà cả những “ngài” nhân danh “dân chủ”, “chống Cộng”!
Những chiến sỹ tuyên giáo của Đảng, kể cả loại như giáo sư Vũ Minh Giang, nhà báo Trọng Đức … thì vì cái bệnh nói lấy được, nói không biết xấu hổ trước thực tiễn nên khó bề lọt tai, tuy nhiên, cái sự nhộn nhạo xô bồ, giả thực giả hư của đám người nhân danh “dân chủ”, “chống cộng” kia thì hiệu quả phá đám đôi khi nguy hại hơn nhiều.
Nói chung, lý lẽ của họ chẳng có gì đáng nghe. Điều rất đáng phàn nàn là vì “cùn” nên họ đành chơi trò “bỏ bóng đá người” .
Sao cứ phải ỷ eo lôi mãi chuyện lý lịch cổ xưa ra để chì chiết con người!
Ông Lê Hiếu Đằng – xưa  là Phó Tổng thư ký Uỷ ban Trung Ương Liên Minh các Lực lượng Dân tộc Dân Chủ và Hoà Bình Việt Nam, chống Mỹ, chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngay giữa Sàigòn với ông Lê Hiếu Đằng nay, Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thp HCM mà lại bất tuân chủ trương đường lối của ĐCSVN – đều xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân rất trong sáng, rất vị tha, rất cương cường. Con người ấy khả kính lắm chứ.
Phải dũng cảm và chân thành mà nhận rằng hầu hết tất cả chúng ta, trong đó có tôi và quý vị nói chung đều có tội đối với dân tộc, với đất nước; đều đã lầm lỗi. Lầm lỗi do tự lầm lẫn. Lầm lỗi do bị lường gạt.
Người Cộng sản từng lầm lỗi. Người Chống Cộng cũng từng lầm lỗi.
Trớ trêu sao, ta lầm lỗi chính vì ta yêu nước. Càng trớ trêu hơn khi lầm lỗi nặng hơn, tội lớn hơn lại gây bởi những người có tấm lòng yêu nước thiết tha hơn.
Làm sao có thể nghi ngờ lòng yêu nước thương nòi, ý chí chống cường quyền, mưu cầu độc lập của tuyệt đại đa số những người đã giơ nắm tay gầy guộc tuyên thệ dưới lá cờ búa liềm trước năm 1945. Khi ấy (và chỉ khi ấy), họ theo Mac-Lenin chủ yếu vì mục tiêu giành độc lập dân tộc, chống áp bức, bất công. Họ không mưu tính thấp hèn, cũng không dốt nát. Dốt nát sao được với những cái đầu như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Tạ Quang Bửu, Trần Dần …. Ông Đặng Văn Âu kể rằng: “Khi tôi gọi điện thoại về Việt Nam cho bác sĩ Nguyễn Khắc Viện để hỏi tại sao một người thông minh lỗi lạc như anh mà đi theo Đảng cộng sản, một đảng đã đấu tố thân phụ anh cho đến chết, ông đáp: “Vì mình chống bọn Thực dân, vì mình quá khao khát độc lập tự do nên mình ngây thơ” ”.
Cho nên tôi thật ngạc nhiên khi thấy một số người dám lớn tiếng chê bai, thậm chí rủa xả tất cả những người từng theo Cộng sản. Họ thật hợm hĩnh, thật hàm hồ!. Tôi rất đồng ý với Tổng Bí thư ĐCS Tiệp Khắc Milovan Djilas * khi ông nói: “20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản là không có cái đầu”.
Không phải tất cả, nhưng nghĩ rằng nhiều người đã không theo Cộng sản chỉ vi không có trái tim.
Tôi chưa từng là đảng viên ĐCS không phải vì tôi sáng suốt mà chỉ vì tôi không được Đảng kết nạp. Tôi đã từng uống nước căng bụng, mượn chiếc giây lưng to bản để đủ cân tuyển đi bộ đội chống Pháp, đã từng có thơ đăng trong tuyển tập thơ Chống Mỹ, đã từng phấn đấu đến mức được cơ sở đề nghị phong Anh hùng Lao động … nhưng không được kết nạp Đảng chỉ vì lý lịch gia điình (Ba tôi là nhân viên cơ quan USAID của Hoa Kỳ, ba em trai tôi đều là lính Việt Nam Cộng hòa). Dẫu vậy tôi vẫn tin vào lương tri của chủ nghĩa xã hội, mãi cho đến năm 1980, khi tôi được đến một nước tư bản để dự Hội thảo Quốc tế về Cổ Địa Từ học, và nhất là đến năm 1989, khi tôi được đến Washington để trình bầy một báo cáo tại Hội nghị Địa chất Quốc tế lần thứ 28.
Lời kêu gọi thành lập Đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng đã hợp thời chưa?
Hợp thời và rất cần thiết. Từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến nay, nhiều Hội đoàn, Đảng đối lập đã tuyên bố thành lập trong nước nhưng đều bị bóp chết từ trong trứng hoặc chỉ sống vật vờ, nhưng nay tình hình đã có nhiều yếu tố của “đêm trước”. Những sai lầm của chủ trương, đường lối ĐCSVN đã tích tạo nên nguy cơ bùng nổ xã hội. Nạn tham nhũng đục khoét tâm can mọi người. Chính sách ruộng đất phản hiện thực đang đẩy hàng đoàn nông dân ngày tiếp ngày kéo nhau đi biểu tình. Doanh nghiệp thoi thóp. Thanh niên, trí thức bị đẩy vào đường cùng càng sục sôi bức bối trước những bất công ngày càng phơi bầy nhức nhối. Nhờ internet, giác ngộ xã hội được bừng thức. Những bức xúc xã hội đang trở thành bức xúc chính trị. Những phản ứng tự phát đang mang yếu tố tự giác. Giới trẻ tham gia vào các hoạt động chính trị-xã hội với nhiều sáng kiến “thiên biến vạn hóa” đang mặc nhiên thiết lập xã hội công dân. Đặc biệt là tình trạng lãnh đạo Đảng đã phân hóa và đang trở nên rối ren, thối nát. Đảng không chỉ đối lập với nhân dân mà còn vô trách nhiệm với Tổ Quốc. Làm sao có thể chấp nhận được một ông Chủ tịch Quốc hội dám lấp liếm trước Quốc hội rằng “Biển Đông không có gì mới” trong khi Trung Quốc đã thành lập thành phố Tam Sa và xua đuổi, bắt bớ giết chóc ngư phủ Việt Nam ngay trên lãnh hải của ta. Làm sao có thể chấp nhận một ông Tổng Bí thư chủ trương mời công an Trung Quốc vào Việt Nam để “giữ gìn ổn định trong nước của mình” (chữ trong văn bản ký kết giữa TBT Nguyễn Phú Trọng với Hồ Cẩm Đào). Đã phát hiện được gián điệp Trung Quốc nhan nhản khắp hang cùng ngõ hẻm. Người ta còn ngờ rằng nội ứng Trung Quốc nằm ngay trong cơ quan đầu não của Đảng như những biểu hiện đã thấy.
Câu khẩu hiệu “Tổ quốc hay là chết” trong tình hình này phải được hiểu là “Đa đảng hay là chết”. Tổ quốc sẽ chết vì suy thoái toàn diện, vì tham nhũng …, và, cay đắng hơn, vì chui vào ách đô hộ của Trung Quốc nếu luẩn quẩn mãi trong những chủ trương đường lối tăm tối của ĐCSVN.
Sẽ có người hỏi vì sao câu khẩu hiệu không phải là “ĐCSVN phải chết để Tổ quốc được sống”.
Câu khẩu hiệu đó không nên nêu lên trong lúc này vì hai lý do:
Một là, chưa thể thực hiện được. Cho đến hiện nay chưa có tổ chức nào, lực lượng nào lật đổ được và thay thế được ĐCSVN, ngoại trừ, chính những người trong bộ phận lãnh đạo của ĐCSVN.
Hai là, câu khẩu hiệu ấy bộc lộ tính phản dân chủ. Tại sao nhất thiết phải có mày không tao? Tại sao cứ tao sống thì mày phải chết? Tại sao vướng vất mãi tinh thần “Đường vinh quang xây xác thù” thật ghê rợn!.
Ngay ở những nước dân chủ lâu đời ĐCS vẫn cứ được tồn tại đấy chứ.
Có sợ Đảng cuội, đối lập cuội không? (Chữ cuội ở đây được hiểu là cơ sở cứu hộ của ĐCSVN).
Mấy chữ “Đảng cuội”, “Đối lập cuội” chẳng qua do mấy ông bà “Dân chủ cuội”, “Chống Cộng cuội” nặn ra để khích bác nhau, vùi dập nhau. Trong thực tế mấy thập kỷ qua, ai có thể chứng minh một cách đứng đắn ông/bà A,B, tổ chức/hội đoàn X,Y nào là đối lập cuội không?
Nếu Đảng của ông Lê Hiếu Đằng có là do ông S, ông D nào đó xui lập ra thì vẫn nên ủng hộ. Nếu chưa được là Hai thì Một Phẩy đứng bên Một cũng là “đa” rồi. Chỉ Một thì cứ là Một mãi nhưng có Một Phẩy thì rất dễ chuyển hóa thành Hai, thành Ba …
Chính tôi đã từng thành khẩn khuyến nghị ĐCSVN nên chủ động thiết lập đa đảng bằng cách cho hình thành một vài đảng anh em của ĐCSVN kiểu như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội trước đây để tạo trạng thái cạnh tranh thân ái, lành mạnh, tránh sát phạt, đổ máu.
Có người phê phán đó là đường lối cải lương, nhưng hãy nhớ lại, trước đây cụ Phan Châu Trinh cũng đã từng bị những người Cộng sản phê phán là cải lương. Hẳn là, đối với những người Cộng sản, chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, “ỷ Pháp giành độc lập” lúc bấy giờ cũng chướng tai, cũng gây phẫn nộ như chủ trương “khuyến ĐCSVN thực hiện đa đảng” đối với những người chống Cộng mù quáng, chống Cộng bạt mạng ngày nay vậy. Nhưng, thử tưởng tượng xem, nếu dân tộc được dắt dẫn theo con đường Phan Châu Trinh thì ngày nay sẽ thế nào. Chắc chắn đã không có cảnh núi xương sông máu mà ít ra Việt Nam sẽ không phải đối mặt với sự tác oai tác quái của Trung Quốc như đang thấy.
Bởi vậy, tôi nhiệt liệt hoan nghênh ông Lê Hiếu Đằng và thành tâm chúc ông mau phục hồi sức khỏe để thực hiện ước nguyện cao cả của ông. Thúc giục một người bệnh dốc sức cho việc chung đôi khi là vô nhân đạo nhưng tôi hy vọng đấy cũng sẽ là một phương thuốc tinh thần kích thích nội năng để rồi ông có thể vượt qua và sẽ được ban thưởng xứng đáng.
Đề nghị ông hãy mau liên kết với nhiều thành phần, nhiều cá nhân không chỉ trong mà cả ngoài Đảng, đặc biệt là giới trẻ để gấp rút hình thành tổ chức và sớm công bố được bản cương lĩnh của đảng Xã hội Dân chủ Việt Nam trên cơ sở tham khảo các văn bản của “Phong trào Con đường Việt Nam” ở trong nước và của “Tập hợp Dân chủ Đa nguyên” ở ngoài nước.
Hà Nội 28 tháng 8 năm 2013
Nguyễn Thanh Giang, Số 6 Tập thể Địa Vật lý Máy bay, Trung Văn  Từ Liêm   Hà Nội, Mobi: 0984 724 165
* Ghi chú: Có một số độc giả liên lạc đề nghị đính chính về nhân vật Milovan Djilas, là Phó Tổng thống Nam Tư, chứ không phải là TBT ĐCS Tiệp Khắc như trong bài viết.  Mời xem chi tiết trên Wikipedia và Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư.


Copy từ: Ba Sàm

Thư gửi Hillary Clinton nhân chuyện lương bạc tỷ ở VN


Phụ nữ làm Tổng thống. Ảnh: HM
Phụ nữ làm Tổng thống. Ảnh: HM
Hôm qua (28-8-2013), kỷ niệm 50 năm “I Have a Dream” của MLK, tôi ngó ra National Mall một lúc. Chỗ cửa kiểm tra an ninh phía War II Wall có dòng chữ to tướng Ms. President 1872-2016. Có lẽ người ta muốn bầu chị Hillary Clinton vào Nhà Trắng năm 2016. Vì thế, tôi viết thư này, mong chị đừng ứng cử chức Tổng thống Mỹ nữa.

Chả là mấy hôm nay, dân nước tôi đang đồn ầm chuyện lương bổng của các quan ở Sài Gòn, lên mấy tỷ một năm, ai cũng tròn mắt. Hóa ra lương bên VN hơn cả lương Mỹ, dù giá cả bên Tây cao gấp nhiều lần giá ta.
Vụ tung bí mật lương bổng này cũng là đòn khá hiểm để các quan trị nhau. Nhìn vào thu nhập chính thức và số của cải, nhà cửa, xe hơi, kể cả nhà thờ họ xây mấy chục tỷ, con cái du học, tài khoản bí mật…có thể đoán ra tiền của từ đâu mà có. Đã từ lâu lắm rồi, người ta kêu gọi công khai tài sản của cán bộ ăn lương bằng thuế của nhân dân nhưng chẳng đi đến đâu.
Chị Hillary chắc còn nhớ thời làm Ngoại trưởng Mỹ. Lương của chị khoảng 180 ngàn đô la năm, tương đương 3,6 tỷ VNĐ, đóng thuế khoảng 40%. Phần lấy về nhà cho anh Bill và con gái Chelsea khoảng 2,1 tỷ VNĐ. So với lương của ông giám đốc Công ty thoát nước đô thị ở Sài Gòn là 2,6 tỷ VNĐ, ông chiếu sáng công cộng là 2,2 tỷ VNĐ, kế toán trưởng với lương 1,6 tỷ, thì Tổng Cua khuyên chị Hillary nên xin việc bên Việt Nam.
Chị hay đi chợ Safeway nên biết, một mớ thì là bên Mỹ giá 1,2$, đủ nấu một bát canh cá, bên xứ Việt với cùng số tiền có thể mua được một rổ, ăn cả chục cân cá basa.  Chủ Nhà Trắng mệt lắm. Làm tổng thống không xong bị dân đuổi đó.
Chị sang VN làm Giám đốc Thoát nước cho Hà Nội hay Sài Gòn, tha hồ mà sướng. Nước thoát hay không thoát, chả quan trọng. Mưa lụt khắp nơi, chị cứ mặc mẹ cho họ bơi. Làm bên ngành điện cứ tăng giá thoải mái,  bố thằng dân nào biểu tình. Ai ra đường  hò hét, chị cứ kêu công an đến bắt, liệt họ vào loại phần tử chống phá nhà nước, chống đảng, chống nhân dân. Phải im lặng để cho chị ăn thoải mái đã.
Lương cao chị cứ hưởng. Nhiệm vụ này do đảng phân công, cứ làm cho đến hết đời nha. Chả đâu sướng bằng làm cán bộ ở Việt Nam, nhiệm vụ không thành, đôi khi còn phá hoại, nhưng chẳng ai bị đuổi việc. Đó là nguyên tắc tổ chức. Có ông Thủ tướng cả đời chẳng kỷ luật ai.
Chỉ hơi bất tiện, khi sang VN chị Hillary phải học rất nhiều về đạo đức của người Cộng sản. Nước tôi bị ảnh hưởng của Khổng giáo rất nhiều. Cụ Khổng từng dạy trò “Lập đạo của trời nói âm và dương, lập đạo của đất nói nhu và cương, lập đạo của người nói nhân và nghĩa.” Tất cả các tính khác của con người đều do nhân và nghĩa mà nên, cũng như vạn vật, vạn việc trên trời dưới đất do âm dương, nhu cương tạo tạo thành vậy, con người bất nhân là ác, bất nghĩa là bạc, chính vì lẽ đó con người muốn được coi là “nhân” thì phải có nhân, nghĩa phải có lương tâm.”
Cán bộ đều thấm nhuần, nhất là cán bộ cao cấp. Có một thời nước tôi còn được phong là lương tâm thời đại, cả thế giới muốn làm người VN. Thế nhưng vốn kiến thức về đạo Khổng bị mai một dần với thời gian. Nhiều người thấy làm việc có lương tâm thì khó sống nên mới tách bạch hai chữ này thành hai nghĩa: lương là lương bổng, tâm là đạo đức, là có tâm.
Lương thấp và không hợp lý nên cần phải ăn cắp để bù vào, kéo theo tâm thấp. Bé ăn cắp kiểu bé, to ăn cắp kiểu to, người không ăn cắp được gì ăn cắp thời gian. Vì quen mùi rồi, lẽ ra lương cao rồi thì tâm cũng cao theo số tiền, nhưng thật đáng tiếc, lòng tham con người là vô cùng. Vì thế lương cao nhưng tâm vẫn thấp, có khi còn thấp lúc hơn cả lúc lương hẻo. Mới có chuyện Giám đốc ngành cấp thoát nước để thành phố lụt lội thường xuyên sau mưa mà lương vẫn cao hơn cả Ngoại trưởng Mỹ.
Chị nên khuyên chính phủ VN vay vốn ODA để trả lương thật cao cho cán bộ. Lương cao, nhưng pháp luật chặt chẽ như Singapore, báo chí có quyền được lên tiếng, bố bảo anh nào dám ăn cắp. Nếu cứ để thế này, đạo đức sẽ bị băng hoại, đất nước không thể phát triển, mà vốn vay và tiền thuế dân đóng vẫn bị xà xẻo bằng mọi cách. Tệ nạn mua quan bán chức kéo theo tham nhũng. Lương bạc tỷ như mấy ông cán bộ ở Sài Gòn chẳng làm ai ngạc nhiên. Nếu được phép tìm ra của chìm của các quan thì còn khối chuyện ối giời ôi.
Mong chị Hillary nghĩ thật kỹ trước khi tranh chức Tổng thống Mỹ hay sang Việt Nam làm cán bộ nguồn. Nếu được chọn vào chức to, công việc không trôi chảy, anh Bill và cháu Chelsea túng thiếu, chị cứ tách LƯƠNG và TÂM ra làm hai, thế là ổn ngay.

Kính chúc chị thành công.

HM. Cua Times. 29-8-2013
Xem thêm: Lương bổng, biết thế nào cho vừa


Copy từ: Blog Hiệu Minh


..........................

Tổng thống Philippines 'hủy chuyến thăm TQ'


Tổng thống Aquino ban đầu nói sẽ thăm hội chợ ở Trung Quốc
Philippines và Trung Quốc lại có tranh cãi ngoại giao sau khi Manila nói tổng thống nước họ hủy chuyến thăm một hội chợ thương mại ở Trung Quốc vì Bắc Kinh rút lại lời mời.
Trong khi đó, Trung Quốc nói chưa bao giờ ngỏ lời mời ông Aquino.
Bộ Ngoại giao Philippines nói Tổng thống Benigno Aquino hủy chuyến thăm vì Bắc Kinh nói ông nên đi vào dịp “có lợi hơn”.
Hội chợ Trung Quốc – Asean sẽ diễn ra tuần sau ở thành phố Nam Ninh.
Philippines nói Trung Quốc, vài tháng trước, đã mời phái đoàn Philippines dự sự kiện này.
Hôm thứ Tư, ông Aquino nói ông sẽ đi, nhưng cùng ngày, Trung Quốc chuyển lời rằng ông không nên đi, theo lời Bộ Ngoại giao ở Manila.
Nhưng Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói chưa bao giờ có lời mời tổng thống Philippines dự hội chợ.
Hôm thứ Tư, Tổng thống Aquino nói với các phóng viên: “Quý vị có thể ngạc nhiên đấy, tôi sẽ công du tuần sau. Đó là chuyến thăm dài đến Trung Quốc.”
“Tôi sẽ khởi hành lúc 5h sáng và về nước lúc 5h chiều.”
Tuần này, Trung Quốc đang đón tiếp các ngoại trưởng Asean, chuẩn bị cho một cuộc họp tại Trung Quốc tháng Chín bàn về tranh chấp Biển Đông.
Các nước Asean muốn có một bộ quy tắc ứng xử trên biển, nhưng Trung Quốc không muốn thương lượng với cả khối mà muốn đàm phán song phương.
Gặp Ngoại trưởng Việt Nam tại Bắc Kinh hôm 28/8, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tái khẳng định lập trường của Trung Quốc" về Biển Đông.
Ông Vương Nghị nói thêm rằng hai bên cần thúc đẩy hợp tác hàng hải và cùng nỗ lực kiềm chế tranh chấp, "biến thách thức thành cơ hội".


Copy từ: BBC


........................

Gửi Tuyên bố phản đối Nghị định 72 lên Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ

Gửi Tuyên bố phản đối Nghị định 72 lên Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ

1. Gửi Ủy ban Pháp luật của Quốc hội ngày 28-8-2013
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--oo0oo--
Kính gửi: Ủy ban Pháp luật
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thay mặt 599 người đã ký tên vào bản Tuyên bố về Nghị định 72 của Chính phủ, xin gửi đến Ủy ban Pháp luật của Quốc hội bản Tuyên bố này để quý ngài cứu xét các vấn đề mà chúng tôi đặt ra trong đó, cũng như những yêu cầu cụ thể của chúng tôi đối với Quốc hội trong việc rà soát lại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP sẽ có hiệu lực vào ngày 1/9/2013.
Kính chào trân trọng
Ngày 28-8-2013
Người gửi
clip_image002


GS Nguyễn Huệ Chi
clip_image004
2. Gửi Thủ tướng Chính phủ ngày 28-8-2013
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--oo0oo--
Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thay mặt 599 người đã ký tên vào bản Tuyên bố về Nghị định 72 của Chính phủ, xin gửi đến ngài bản Tuyên bố này để ngài cứu xét các vấn đề mà chúng tôi đặt ra trong đó, cũng như những yêu cầu cụ thể của chúng tôi đối với Chính phủ trong việc rà soát lại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP sẽ có hiệu lực vào ngày 1/9/2013.
Kính chào trân trọng
Ngày 28-8-2013
Người gửi
clip_image006


GS Nguyễn Huệ Chi
clip_image008


Copy từ: Bauxite Việt Nam

Quán ăn hai ngàn đồng cho người nghèo ở Sài Gòn



 
Quán cơm xã hội Nụ Cười 3 ở quận 7 (DR)
Quán cơm xã hội Nụ Cười 3 ở quận 7 (DR)
Thụy My
Tại Việt Nam trong thời buổi kinh tế khó khăn hiện nay, người nghèo càng thêm chật vật chạy ăn từng bữa. Rất may là cũng có những tấm lòng vàng : ngoài một số bếp ăn từ thiện ở các bệnh viện, cũng có một số sáng kiến mở các quán ăn giá rẻ, hầu như là cho không, dành cho dân lao động nghèo.
Đặc biệt tại Saigon, phải kể đến quán cơm Nụ Cười 1 và 2 do nhà báo Nam Đồng chủ xướng, và quán Nụ Cười 3 của nhà báo Trần Trọng Thức. RFI Việt ngữ đã liên lạc với những người phụ trách quán Nụ Cười 3 (số 298A đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận Tây, quận 7) để tìm hiểu thêm.
Trước hết, anh Nguyễn Đức Huy, một tình nguyện viên của quán giới thiệu sơ qua hoạt động tại Nụ Cười 3 :
Anh Nguyễn Đức Huy : Quán mình hoạt động thứ Ba, Năm, Bảy, từ 10 giờ đến khoảng 2 giờ chiều mỗi ngày. Hiện nay mình bán chừng 400 phần ăn, mỗi phần ăn mình bán cho người nghèo giá tượng trưng là 2 ngàn đồng, nhưng giá trị của nó tương đương khoảng 14 ngàn.
Thông thường khi mọi người đến ăn, người ta mua vé, xong đi ngang qua một quầy có những khay cơm đầy đủ các thứ. Khách cầm khay đó tự mang ra bàn ăn, sau khi ăn xong cứ để đó sẽ có người đi dẹp. Người khách ăn xong đi ra ngoài có nước uống, và có một quầy báo. Tất cả các loại báo, truyện… đều bán giá 2 ngàn đồng một cuốn.
Thực đơn các món ăn mỗi ngày đều thay đổi, chứ không cố định. Tất cả những người phục vụ đều là tình nguyện đến đó phụ giúp quán, mỗi người góp một phần nhỏ. Có thể là giữ xe, có thể là bán phiếu, dọn bàn, múc cơm, cũng có thể là rửa chén hoặc đi dọn khay…Đa số là sinh viên các trường đại học.
Tiêu chí của quán mình ở đây là mình bán chứ không phải là mình cho họ, nên khi người ta đến ăn bên em vẫn xem họ như là thượng khách. Hai ngàn đồng đó chỉ lấy tượng trưng, cho người nghèo cảm thấy đến ăn là người ta có trả tiền, chứ không phải là đồ cho, nên người ta rất vui vẻ.
Còn chị Lý, quản trị viên quán Nụ Cười 3 cho biết :
Chị Lý : Quán cơm từ thiện thì có rất nhiều, nhưng riêng quán 2.000 đồng thì ở Saigon bắt đầu có từ năm 2008. Có một nhóm người quan niệm rằng tuy là quán cơm từ thiện nhưng không muốn có chuyện ban phát, mà bán với giá hỗ trợ cho người nghèo, để cho người tới ăn người ta không có mặc cảm, và người bán thì phục vụ đúng như là đang bán, một dịch vụ chứ không phải ban phát. Ý nghĩa là như vậy.
Chúng tôi đi sau nên chỉ bắt chước mô hình đó để làm theo, chứ không phải chúng tôi nghĩ ra chuyện đó. Như đã biết, Nụ Cười có ba quán 1,2,3, và quán chúng tôi là Nụ Cười 3 - quán sinh sau đẻ muộn nhất, mới vừa làm được khoảng bốn tháng nay thôi. Địa điểm do một ngân hàng cho mượn một năm, sau một năm lại tính tiếp.
RFI : Nếu đã sinh sau đẻ muộn, chắc chị cũng rút được nhiều kinh nghiệm từ các quán trước ?
Thật ra thì mỗi quán có cách điều hành khác nhau, chỉ cùng trực thuộc một quỹ từ thiện của thành phố. Nói là quỹ từ thiện thành phố nhưng bọn mình tự lo hết, tự lo huy động và tự quản lý - nghĩa là tự thân vận động, và mỗi quán có cách quản lý khác nhau một chút. Vì ra sau chót nên có thêm một cái mới nữa.
Thay vì chỉ lo món ăn vật chất thôi, chúng tôi còn làm thêm một tủ sách món ăn tinh thần, mà chúng tôi rất tự hào đã giúp thêm cho bà con. Người nghèo cái ăn người ta đã khó rồi, nói chi tới cái đọc. Và quan trọng nhất là con em của những người đó lại càng không có tiền để mua sách. Chúng tôi làm được quầy sách cũng với giá hai ngàn đồng. Cũng là huy động, xin trong xã hội mọi người đóng góp.
Sách ở Việt Nam bây giờ đắt, bốn năm chục ngàn hay bảy tám chục ngàn một cuốn, nhưng mình vẫn bán với giá tượng trưng hai ngàn đồng. Do số sách có hạn nên mỗi người khách tới ăn mỗi ngày chỉ dám chưng bán mỗi người một quyển sách thôi. Tuy vậy các em nhỏ đi ăn được mười ngày thì cũng có được mười cuốn sách rồi. Các em rất sung sướng vì nếu không, các em không bao giờ có thể mua được sách để xem. Đó là niềm vui lớn nhất của chúng tôi hiện nay.
RFI : Như vậy cha mẹ đi ăn rồi mua sách về cho con hay sao thưa chị?
Thường thường cha mẹ đi ăn thì dắt theo con, hoặc cha mẹ là những người lao động đến ăn thì mua cho con họ. Đối tượng của chúng tôi nhắm đến rất rõ, đó là những bà con lao động nghèo. Khách của mình chẳng hạn như người bán vé số, xe ôm, thợ hồ, ve chai…và các sinh viên hoàn cảnh khó khăn. Vì đa số các sinh viên dưới quê lên thành phố thì các em khó khăn lắm, chuyện ăn chuyện học tiền gia đình cung cấp rất giới hạn. Đó là hai đối tượng chính chúng tôi phục vụ.
Hiện nay chúng tôi đang phục vụ mỗi ngày 400 suất ăn, tức là cho 400 khách. Do mới mở nên khả năng hoạt động một tuần chỉ ba buổi thôi, thứ Ba, Năm, Bảy, vì nguồn trợ giúp của những nhà hảo tâm chưa được nhiều nên chưa thể mở rộng. Đây là quán từ thiện nên tất cả nhân lực toàn là các tình nguyện viên, và các tình nguyện viên chưa đủ. Số suất ăn cũng vậy. Đầu tiên mới mở là 300, lần lần lên 350, nay là 400, và có lẽ trong tương lai sẽ như các quán đi trước, thường thường vào khoảng từ 500 đến 600.
Chúng tôi luôn đảm bảo ba món : món mặn, món xào, món canh, tráng miệng và nước. Về chất lượng thì rất tự tin để nói rằng bữa ăn đảm bảo được mấy tiêu chí. Thứ nhất là chất lượng thức ăn, từ thịt thà mọi thứ, mình mua thứ tốt, từ những nguồn cung cấp bảo đảm, và cố gắng tối đa để cho bà con ngon miệng. Thứ hai là đảm bảo được vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều đó là quan trọng nhất, vì đó là vấn đề lớn trong xã hội ở Việt Nam hiện nay.
RFI : Xin phép được ngắt lời chị ở đây, thấy báo chí trong nước vẫn thường xuyên báo động về vấn đề vệ sinh thực phẩm…
Kinh khủng, thành ra bọn mình cái đó là bảo đảm. Bọn mình cân nhắc từ nước rửa chén trở đi. Thịt thì những tiệm ăn bình thường mười tiệm hết chín tiệm mua thịt trôi nổi cho rẻ, mà mình mua thịt của Vissan là công ty uy tín giá mắc hơn. Về nước uống, rất may có nhà hảo tâm cho hệ thống lọc nano, mình đem đi Viện Pasteur kiểm nghiệm - phải có tờ giấy đó rõ ràng mình mới nhận. Nước thì bà con có thể an tâm, chứ trước đây một ngày nấu cả trăm lít nước rất là cực khổ. Từ hồi có hệ thống lọc bảo đảm thì bà con uống nước thoải mái.
Bọn mình hết sức kỹ, vì khi mấy chị em trong nhóm điều hành ngồi lại với nhau thì đã thỏa thuận, cái gì mà tôi không mua cho nhà tôi ăn là tôi không mua cho ở đây. Nếu đồng ý với nhau thì làm, chứ hổng có cái kiểu muốn chọn thứ rẻ.
Đôi khi cũng có một số nhà hảo tâm - tội nghiệp lắm - ở chợ, thì họ đem lại nước rửa chén. Tụi tôi phải xin lỗi không nhận, vì nếu nước rửa chén loại xấu không những làm hại cho các cháu tình nguyện viên khi rửa, mà làm hại cho người ăn nữa nếu rửa không sạch. Bọn mình cẩn thận lắm, trước hết vì trách nhiệm của mình - ba bốn trăm người ăn, lỡ có chuyện gì là mình chết luôn.
RFI : Thưa, chị có thể cho biết thêm về các tiêu chí kế tiếp của quán ?
Thứ ba là cho bà con ăn đủ no, tức là phần cơm không hạn chế. Nhưng cái thứ tư, tiêu chí lớn nhất mà chúng tôi bảo đảm được là thái độ phục vụ.
Bởi vì 95% tình nguyện viên phục vụ là các em sinh viên. Các em được huấn luyện rằng, tuy là đến để làm việc thiện nguyện, nhưng hướng đến cách phục vụ chuyên nghiệp. Đó là phục vụ với sự hòa nhã, trân trọng, vui vẻ. Đây là tiêu chí rất cao.
Mình tạo được không khí ấm áp cho người ta tới ăn. Ít ra trong cuộc đời cực nhọc hiện nay thì trong ngày họ có được nửa tiếng đồng hồ vào đây họ được hết sức trân trọng. Họ có được bữa ăn ngon, bảo đảm, họ rất vui. Đó là điều chúng tôi rất tự tin khoe rằng đã làm được.
RFI : Như vậy người nghèo sẽ không bị mặc cảm…
Đúng ! Các em sinh viên khi vào luôn luôn được đọc điều lệ ở đây : thực khách mua chứ không xin, và chúng ta phục vụ chứ không ban phát. Điều đó phải được tuân thủ một cách tuyệt đối trong quán này. Không bao giờ được nói lớn tiếng. Tuy quán là quán bình dân, nhưng phục vụ hướng đến chuyên nghiệp và « có sao » chứ không phải là quán « không sao ».
Luôn luôn nói với các em là, các con là bộ mặt của quán, cho nên phục vụ sẽ đem lại tiếng tốt cho quán. Nhưng điều đó tốt luôn cho cả các con nữa, bởi vì các con sẽ học được tính kiên nhẫn, sự hòa nhã, cực bao nhiêu các con cũng phải vui vẻ. Trong vòng một tiếng rưỡi mà phải phục vụ 400 khách thì cũng rất vất vả nhưng mà các em làm được hết.
Thương lắm, như là một gia đình ! Chúng tôi là người lớn nên nói, cô chú hết sức là hạnh phúc, tự dưng có thêm một đàn con ngoan và có tấm lòng. Ngược lại các con có thêm những bậc cô chú thương yêu, hướng dẫn các con mọi thứ, và bạn bè chung quanh các con lại vui vẻ với nhau. Bọn mình là một cái gia đình ấm cúng lắm, rất là dễ thương.
RFI : Có lẽ vì vậy mà quán lấy tên là Nụ Cười ?
Vâng, quán Nụ Cười thì tất cả các em đồng phục là tablier có hình nụ cười rất lớn trước ngực, để nhắc nhở mọi người lúc nào cũng phải cười.
RFI : Từ lúc mở quán tới giờ có những trường hợp nào gây ấn tượng cho chị, chị có thể kể lại được không ?
Ôi trời ơi, không biết bao nhiêu mà nói ! Các nhà hảo tâm nói điều quan trọng là làm sao mình lọc được đúng đối tượng của mình. Khi làm cái này rồi mình mới biết là không ai có thể nói cứ nhìn bề ngoài mà đánh giá được. Có những người mà khi họ tới mình tưởng đó là nhà hảo tâm. Họ ăn mặc rất là lịch sự, thì mình tiếp cũng lịch sự.
Tất nhiên khi khách người ta tới, nếu 95% là đúng đối tượng của mình thì đó là thành công lớn rồi, thế nào cũng có khoảng 5-6% là không đúng đối tượng. Trong đó có những người là nhà hảo tâm, người ta tới ăn cho biết trước khi người ta giúp mình. Có những người tuy không phải là người nghèo như đối tượng của mình nhưng người ta tò mò tới ăn một lần cho biết.
Và còn lại tất nhiên cũng có những người họ dựa dẫm vào mình. Họ không phải là quá nghèo, nhưng mà có chỗ này vừa rẻ vừa sạch thì tới ăn. Chúng tôi luôn luôn bắt buộc phải cố gắng lọc ra những người không đúng đối tượng của mình, vì nhà hảo tâm người ta góp tiền cho mình bao giờ cũng muốn đồng tiền đi tới đúng chỗ.
Chúng tôi, những người điều hành phải tới gặp những người đó, trước hết lịch sự nói rằng, thưa, chắc đây là nhà hảo tâm. Khi họ nói « không » thì mới nói, dạ thưa, tới ăn một lần cho biết thôi, chứ xin nhường cho những người nghèo, chúng tôi chỉ phục vụ người nghèo. Thì có những người họ bỏ đi, như bản thân tôi bị rồi.
Một người đàn ông ăn mặc rất là lịch sự, áo sơ mi trắng bỏ trong quần, mang giày đàng hoàng vô, tôi cũng nói như vậy thì ông quày quả bỏ đi. Nhưng mà ổng đi chút xíu thì có lẽ ổng tức, ổng quay trở lại nói : « Tui nói thật với chị, tui là xe ôm, xe tui để bên kia đường kìa. Chị đừng có nhìn bề ngoài mà chị nói vậy. Vì tui chạy xe ôm, tui phải ăn mặc cho đàng hoàng thì khách người ta mới chọn tui, chứ ăn mặc lôi thôi thì không ! ». Rồi ổng bỏ đi, mình phải chạy theo năn nỉ, thôi tôi xin lỗi. Sau này người đó thành khách quen của mình.
Rồi có những đứa nhỏ…Không phải chúng tôi chỉ làm cơm không thôi, mà tới mùa tựu trường thì lại xin tiền nhà hảo tâm, bạn bè quen để mua cặp táp, sách vở…để làm quà tựu trường cho các em, cũng nhắm vào con của người lao động. Nếu hai mẹ con nhà nghèo , nhìn là biết đối tượng VIP của mình rồi, thì đồng ý liền ghi tên để tuần sau mình đưa.
Bữa hôm có em tới, mặt mày bụ bẫm lắm. Riêng cháu đó tôi mới nói rằng, con ơi con không phải là đối tượng của bà, thôi con về nói ba mẹ lo đi. Thì người mà dắt cô bé này mới nói không cô ơi, bé này là con nhà nghèo, ở kế bên nhà em. Hai cha con mới vừa vô ăn, khi ăn xong cháu mới nói ba dắt vô ghi tên thì ba nó tự ái không chịu dắt vô, đã vậy còn đánh con bé nữa. Cái tay đỏ, sưng lên, con bé đứng khóc.
Trời ơi, tôi xót không thể nói được. Về mới nói lại trong nhóm điều hành, kể từ nay tôi dứt khoát thà tôi giúp lầm người chứ tôi không để sót người nữa. Không bao giờ có thể nhìn bề ngoài mà đánh giá người ta được.
Còn người nghèo cô biết hông, có người họ vô ngồi ăn mà họ chảy nước mắt. Bởi vì, nói thật, những người nghèo họ ít được trân trọng, ít được tiếp đón một cách nồng hậu. Họ chảy nước mắt, mình cũng muốn khóc theo họ. Những điều đó làm cho mình cảm thấy việc làm của mình có ý nghĩa lắm.
RFI : Có nhiều người khách quen không chị ?
Không phải chỉ quán này không thôi, mà sau một thời gian thì khách hàng 80% sẽ là khách quen, tức là những người lao động xung quanh đến ăn. Chỉ có 20% là khách vãng lai ở nơi xa tới, là những người thí dụ như bán vé số, ve chai…tiện đâu họ ghé đó.
Do đó khi tìm địa điểm mở quán, bọn mình phải tìm như thế này. Thứ nhất là gần các trường đại học, thứ hai là gần khu lao động, để những người chung quanh đúng đối tượng ở gần đó họ mới tới mình được. Có 80% là những người lao động nghèo xung quanh : xe ôm, người giúp việc giờ, người buôn gánh bán bưng chung quanh khu vực đó.
Những khách hàng bình thường thì mua phiếu đi vô và lấy khay. Riêng những người tàn tật thì tình nguyện viên sẽ đưa thẳng vô, đi mua phiếu, đem khay lại phục vụ tại chỗ luôn.
RFI : Tuy là quán ăn giá rẻ nhưng có những người khách khó tính không?
Bốn trăm người thì cũng có người này người khác. Mình có hai người khách tật nguyền rất là nhõng nhẽo ! Bao giờ tới là mình phải ra đón, đưa vô. Cứ kêu hôm nay tôi ăn cái này không được, mai tôi ăn cái kia không được, hôm nay tôi mệt phải cho tôi nằm nghỉ, đủ thứ…
Đến một lúc thì các em đều hơi mệt mỏi với bà, thì mình giải thích với các em như vầy. Các con phải biết rằng họ không có ai chăm sóc đâu, và bây giờ có người chăm sóc thì nên để cho bà nhõng nhẽo một chút. Các con cứ chăm sóc và tập tính kiên nhẫn đi, phải kiên nhẫn với bà bởi vì bà không có nhõng nhẽo với ai được đâu. Không có ai chú ý đến bà đâu ! Thì các em lần lần nhẫn nại hơn, hiểu hơn, đó là bài học lớn nhất cho các em tình nguyện viên của mình.
RFI : Nguồn hỗ trợ của quán là từ đâu ạ ?
Hoàn toàn trong xã hội, tức là từ các nhà hảo tâm. Có cái may là những quán cơm ra đời luôn được báo chí, đài truyền hình tới đưa tin, các mạng xã hội lan truyền nhau. Phải nói thật một tháng đầu khi mở ra thì phải dùng cái chữ « bàng hoàng » - một cái chuyện tôi nghĩ là rất nhỏ mà lại lay động xã hội đến như vậy.
Có nhiều người họ giúp như vầy mới là cảm động nè. Có cô bán vé số ăn xong rồi đi ra vét hết tiền, mua một chai dầu ăn nhỏ vô giúp. Cầm cái chai dầu ăn đó mà rưng rưng, vì biết rằng người ta đã góp hết tiền của người ta ngày hôm đó để mua gởi cho mình. Cái công đức đó nó lớn lắm. Lớn hơn là thí dụ bạn gởi cho tôi một triệu, mà tôi yên tâm chắc bạn vẫn còn có một triệu.
Mà cái đó nhiều lắm, người ta cho đường, cho nước mắm, họ cho những cái càng nhỏ thì mình thấy giá trị của nó càng lớn.
Một cái việc thiện trong xã hội nó lay động lòng con người ta kinh khủng lắm. Đôi khi bọn mình nói đùa như thế này, chắc tại vì bây giờ ở đây ít có việc tốt quá, cho nên có được một việc tốt thì mọi người sung sướng quá, cùng chung tay giúp đỡ.
Bọn mình bàng hoàng lắm, không nghĩ là cái việc quá nhỏ của mình mà nó lay động con người ta đến như vậy, lay động tấm lòng của xã hội đến như vậy. Nhiều lắm, người ta giúp thấy thương lắm.
Có những người cho hàng tháng, có người cho một năm, có những nhóm thiện nguyện hứa cho mỗi năm một lần trong vài năm. Đó là lòng tốt của người ta, nhưng về khả năng có khi hôm nay người ta có nhưng đâu có biết trong tương lai như thế nào. Thì thôi không sao hết, bọn mình thanh thản nghĩ, thôi thì mình cứ làm hết khả năng của mình, thì không có gì để phải ân hận.
RFI : Chúng tôi xin chân thành cảm ơn chị Lý và anh Nguyễn Đức Huy đã vui lòng tham gia tạp chí xã hội của RFI Việt ngữ hôm nay.


Copy từ: RFI

.........................