CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Putin tính giở trò “nạn kiều”, nhắc người Việt cảnh giác Trung Cộng hơn


Những năm trước và sau cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, Trung Quốc đã dùng con bài “nạn kiều” để vừa làm khó cho kinh tế Việt Nam, vừa lấy đó làm một trong những cái cớ xâm lăng biên giới.

Giờ thì người Tàu tràn ngập xứ này rồi, kể cả các cơ sở kinh tế. Bên Ukraine, Putin đang toan tính can thiệp, rất có thể bằng cái cớ rằng người Nga bị đàn áp và căn cứ quân sự của Nga bị đe dọa … Trong nhiều bài học người Việt học được từ cuộc cách mạng của Ukraine (*), thì bài học này cũng rất bổ ích.
Tuyệt vời Ukraine – một Việt Nam tương lai!

Vietnam +/ TTXVN
(VIETNAM+) LÚC : 26/02/14 20:46

Putin đặt lực lượng vũ trang phía Tây ở tình trạng báo động

Tổng thống Nga Vladimir Putin (phải) chủ trì cuộc họp Hội đồng An ninh Quốc gia về tình hình Ukraine. (Nguồn: AFP/TTXVN)
Tổng thống Nga Vladimir Putin (phải) chủ trì cuộc họp Hội đồng An ninh Quốc gia về tình hình Ukraine. (Nguồn: AFP/TTXVN)
Các hãng thông tấn đưa tin ngày 26/2, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh tiến hành một cuộc tập trận khẩn cấp nhằm kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang trên khắp khu vực phía Tây nước Nga trong bối cảnh quan hệ giữa Moskva và Phương Tây trở nên căng thẳng do cuộc khủng hoảng tại Ukraine. 
Hãng thông tấn Interfax dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu nói: “Theo lệnh của Tổng thống Liên bang Nga, các lực lượng thuộc Quân khu phía Tây đã được đặt trong tình trạng báo động vào lúc 14 giờ (10 giờ GMT) ngày hôm nay.”
Ông Shoigu cho biết cuộc tập trận sẽ được tiến hành trong hai giai đoạn, kết thúc vào ngày 3 tháng 3 và cũng có sự tham gia của một số lực lượng quân đội ở miền Trung nước Nga.
Ông Putin đã ra lệnh nhiều cuộc tập trận bất ngờ tương tự ở các bộ phận khác nhau của quân đội Nga kể từ khi ông trở lại chức Tổng thống Nga vào năm 2012. Ông nói rằng quân đội Nga phải được giữ trên các ngón chân của mình.
Tuy nhiên, lệnh tập trận vừa mới được đưa ra của Tổng thống Nga diễn ra trong một bối cảnh chính trị nhạy cảm. Đặc biệt, lực lượng chủ công tham gia tập trận là các lực lượng vũ trang Nga ở khu vực phía Tây giáp với nước láng giềng Ukraine đang trong vòng xoáy khủng hoảng chính trị khiến dấy lên đồn đoán về khả năng can thiệp quân sự của Nga vào Ukraine.
Các quan chức Nga đã nhiều lần khẳng định Moskva sẽ không can thiệp vào Ukraine, trong khi cáo buộc phương Tây làm như vậy.
Tuy vậy, Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev cho biết hôm 24/2 rằng lợi ích của Nga và công dân của mình tại Ukraine đã bị đe dọa – ngôn ngữ gợi nhớ lời biện minh cho cuộc tấn công quân sự vào vùng lãnh thổ Nam Ossetia và Abkhazia của Gruzia trong năm 2008, khi ông Medvedev là Tổng thống./.
———-
Người lao động

Nga đưa quân đến Ukraine?

Thứ Tư, 26/02/2014 22:07
Báo chí Nga và Ukraine ngày 26-2 đưa tin binh sĩ Nga đã có mặt trên bán đảo Crimea – Ukraine để bảo vệ các cơ sở chiến lược.
Theo đó, một đội tàu chiến thuộc Hạm đội Biển Đen của Nga đã chở đến nơi này 11.000 quân có vũ trang. Ngoài ra, 2 xe quân sự mang biển số Nga chở đầy binh sĩ kèm vũ khí đã đến TP Yalta, miền Đông Ukraine, chiều 25-2. Theo cổng thông tin 73online.ru, cuối tuần trước, một lữ đoàn lực lượng đặc biệt Spetsnaz (Nga) đã được điều động đến Crimea và sẽ ở lại đó cho đến khi Ukraine ổn định hoàn toàn.
Cư dân Crimea phản đối chính quyền mới ở Ukraine, kêu gọi Nga giúp đỡ (Ảnh: ITAR-TASS)
Cư dân Crimea phản đối chính quyền mới ở Ukraine, kêu gọi Nga giúp đỡ (Ảnh: ITAR-TASS)
Theo báo Vzglyad, cư dân Crimea yêu cầu chính quyền địa phương không công nhận chính quyền mới của Ukraine và đòi khôi phục hiến pháp 1992, trong đó quy định Crimea có tổng thống và chính sách đối ngoại độc lập. Tại thành phố cảng Sevastopol ở Crimea hôm 25-2, người ta đã thay thế lá cờ Ukraine bằng cờ Nga trên tòa nhà chính quyền địa phương. Trong khi đó, ông Leonid Slutsky – Chủ tịch Ủy ban Quan hệ với các nước cộng hòa Xô viết cũ của Quốc hội Nga – cảnh báo nước này sẽ hành động nếu căng thẳng leo thang ở Crimea và xảy ra nguy cơ an ninh tại căn cứ hải quân của nước này.
Dù vậy, báo Đức Deutsche Welle dẫn lời ông Gerhard Mangott, giáo sư chính trị học của Trường ĐH Insbruk (Áo), nhận định chiến sự sẽ không xảy ra ở Crimea. “Thứ nhất, can thiệp quân sự dẫn đến tổn thất lớn cho quan hệ của Nga với châu Âu và Mỹ. Thứ hai, quân đội Ukraine sẽ ở trong tình trạng có đối kháng nghiêm trọng” – ông nói.
Ngoài ra, ngày 26-2, Quốc hội Ukraine thu thập chữ ký để thành lập chính phủ mới, với 2 ứng viên sáng giá cho chức thủ tướng là thủ lĩnh đối lập Arsenyi Yatsenyuk và doanh nhân Petr Poroshenko. Tay đấm Vitali Klitschko tuyên bố chạy đua cho chức tổng thống. Tuy nhiên, phía Nga cho rằng tổ chức bầu cử tổng thống Ukraine vào tháng 5 tới là quá sớm và đi ngược lại thỏa thuận mà chính phủ và phe đối lập đạt được ngày 21-2.
Trong khi đó, sau cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Anh William Hague ở Washington hôm 25-2, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tuyên bố Ukraine không phải là nơi Đông và Tây giao chiến, đồng thời kêu gọi mọi quốc gia cùng nhau đem lại sự ổn định cho Ukraine.
 Lục San

Copy từ: Chép Sử Việt


.................

Chiến dịch “đánh lên” bất động sản: Thây ma biết đi và tầng cuối địa ngục



Phạm Chí Dũng

Hồi sinh xác chết
Từ tháng Giêng năm 2014, một chiến dịch “đánh lên” bất động sản lại được khởi động đồng loạt ở ba thủ phủ lớn trên phạm vi quốc gia là Hà Nội, Đà Nẵng và Sài Gòn, sau vài lần phải nhận lấy thất bại chua chát trong hai năm 2012 và 2013.
Một trong những phương cách hết sức cổ điển mà các nhóm đầu cơ bất động sản và ngân hàng sử dụng lần này vẫn là truyền thông. Không quá khó khăn để công luận nhận ra số lượng bài viết theo cách “thị trường bất động sản có nhiều dấu hiệu phục hồi”, “giá nhà đất bắt đầu tăng”… xuất hiện tràn lan và không cần giấu vẻ trơ trẽn trên nhiều tờ báo in và trang mạng.
Hà Nội – một trung tâm không chỉ về kinh tế mà ngày càng dồn dập biến động về xã hội và chính trị – trở nên sôi động và trơ trẽn hơn cả. Chiếm gần phân nửa số hàng tồn kho của cả nước về căn hộ cao cấp và trung cấp, thủ đô này có thể cảm nhận tâm trạng của các đại gia nơi đây đang bén ngọt đến thế nào nếu năm con Ngựa không thể phi mã tống táng hàng tồn và do vậy không thể thanh lý nợ xấu cho giới chủ ngân hàng luôn cầm dao đằng chuôi.
Như một đặc trưng thời thượng của làng báo chí Việt Nam, một đội ngũ viết thuê đã hình thành từ Bắc vào Nam. Nếu trước đây giới PR bất động sản này sinh sống chủ yếu trên các tờ báo thương mại, kinh tế, thì nay đã chen chân vào cả những tờ báo đảng loại 1 nhưng rất khó bán như Nhân Dân, Hà Nội Mới, Đại Đoàn Kết…
Thây ma biết đi
Tình thế nền tài chính và tín dụng quốc gia đang trở nên xấu chưa từng thấy vào đầu năm 2014, đặc biệt khi Moody’s – một hãng xếp hạng tín nhiệm có uy tín trên thế giới – lần đầu tiên tung ra số liệu đến 15% nợ xấu trên tổng tài sản của nền kinh tế Việt Nam. Bất chấp hành động của Ngân hàng nhà nước cải chính “báo cáo của Moody’s chỉ có ý nghĩa tham khảo”, một tỷ lệ mới vể nợ xấu cũng lần đầu tiên phải được thừa nhận bởi cơ quan Việt Nam quá nhiều tai tiếng này: 9%.
Quy luật biện chứng lịch sử cực kỳ thời thượng là không thể giải quyết được nợ và nợ xấu nếu không xử lý được núi tồn kho khổng lồ bất động sản, và ngược lại như một định lý đảo. Cặp bài trùng này đã hiện hình từ giữa năm 2011, khi một hãng xếp hạng tín nhiệm lớn trên thế giới là Fitch Ratings tuyên bố tỷ lệ nợ xấu trong các ngân hàng thương mại Việt Nam là 13%, tức gấp đến 4 lần con số chỉ hơn 3% do Ngân hàng nhà nước công bố vào cùng thời điểm.
Đến kỳ họp quốc hội gần giữa năm 2012, Ngân hàng nhà nước bất ngờ thừa nhận tỷ lệ nợ xấu lên đến 10%, tức chỉ số này đã tăng đến 3 lần chỉ trong vòng chưa đầy một năm. Ngay vào lúc đó, thị trường bất động sản đã trở nên nguy ngập với độ trơ lì đầy kiên định của nó là vô phương cứu chữa.
Không ai có thể hiểu được cơ quan điều hành tài chính - tín dụng và tiền tệ cao nhất quốc gia, nếu bản thân họ cũng không ý thức được những gì đã và đang làm. Trong tâm thế luẩn quẩn đối phó với sức ép của công luận, chỉ một thời gian ngắn sau tỷ lệ nợ xấu lại được Ngân hàng nhà nước kéo xuống 8%, rồi còn 6%. Nhưng với tất cả các đại biểu Quốc hội nặng thói quen đọc báo cáo do người khác cung cấp, vẫn không có gì đáng ngạc nhiên khi toàn bộ số liệu của Ngân hàng nhà nước đã không cần kèm thuyết minh hoặc một cơ sở tối thiểu nào cho hai chiều lên - xuống về tỷ lệ nợ xấu. Hiểu ẩn ý hơn, có lẽ đây là một trong những cơ quan có biệt tài giấu diếm đến tận cùng hoạt động số liệu, cùng lúc đẩy Việt Nam vào một trong những vị trí tồi tệ nhất trong bảng xếp hạng của Tổ chức Minh bạch quốc tế.
Ngay cả con số đầy bất ngờ về tỷ lệ nợ xấu lên đến 35-37% do Ủy ban giám sát tài chính quốc gia – một trong những cơ quan tư vấn của Chính phủ – đột ngột công bố vào giữa năm 2013, cũng không thể làm tình trạng minh bạch sáng sủa hơn. Nhưng đến lúc này, hiện thực nguy hiểm đã tỏ rõ thế nan nguy cận kề của nó: với độ chênh đến 6 lần giữa báo cáo của hai cơ quan cùng hệ thống nhà nước, người ta có thể mường tượng một cuộc khủng hoảng tài chính - tín dụng và cả mối xung đột phe nhóm có thể nổ ra ở Việt Nam trong những ngày tháng không quá xa xôi, tái hiện hình ảnh cuộc khủng hoảng tương tự ở Thái Lan vào năm 1997.
Cần nhắc lại, nếu trước cuộc khủng hoảng tài chính 1997, tỷ lệ nợ xấu chỉ được người Thái báo cáo có 5%, thì sau khi khủng hoảng bùng phát, giới quan sát đã kinh ngạc trước tỷ lệ nợ xấu thực ở quốc gia này lên đến 50%, tức gấp chẵn 10 lần!
Với trường hợp Việt Nam, mặc dù vẫn còn trong giai đoạn cố gắng che giấu sự thật, nhưng một sự thật khác không thể phủ nhận là trong suốt ba năm qua đã không thể giải quyết khúc xương lớn nhất thuộc về thị trường nhà đất. Gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng là một ví dụ rất tiêu biểu, khi qua 9 tháng khuyến dụ mới giải ngân được vỏn vẹn 3%.
Trong khi đó, dấu hiệu sức mua cạn kiệt vào tết nguyên đán 2014 lại như một điềm báo rất xấu đối với sức tiêu thụ nhà đất. Giảm đến 40-50% so với tết năm ngoái, lực cầu thị trường tiêu dùng đang làm nên một cơn chấn động về thiểu phát và có thể cả giảm phát. Tình hình đó chắc chắn đang phản ánh trạng thái “trơ” của không chỉ thị trường hàng hóa nói chung mà còn với cả thị trường bất động sản đang quá thiểu năng trí tuệ này.
Làm thế nào có thể tiêu thụ ít nhất 100.000 căn hộ trung cấp và cao cấp đang oằn mình trong nắng gió ở Hà Nội và Sài Gòn? Làm thế nào để vào giữa năm 2014 hoặc cùng lắm đến đầu năm 2015, các con nợ đại gia bất động sản có thể đẩy được hàng, dù chỉ một phần, để trả nợ cho các ngân hàng chủ nợ, để các ngân hàng mới có thể “phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro” như một đòi hỏi theo tinh thần “sống chết mặc bay” của Ngân hàng nhà nước?
Tầng cuối địa ngục
Trong thế tuyệt vọng, nhóm lợi ích ngân hàng ôm tài sản thế chấp bất động sản đang cố tung ra con bài cuối cùng vào năm nay. Chiến dịch “đánh lên” bất động sản thậm chí còn được khoa trương bởi một thông tin sốt dẻo úp mở mới được tung ra vào những ngày gần đây: sẽ có gói kích cầu lên đến 100.000 tỷ đồng dành cho thị trường này!
100.000 tỷ nào? Và tiền ở đâu ra? Hẳn giới đầu tư luôn bị thất vọng ở Việt Nam vẫn không quên sự kiện là vào cuối năm 2012 và sang nửa đầu năm 2013, những quan chức có tầm cỡ của Bộ Xây dựng như Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam, cùng một dàn “chuyên gia lợi ích” đã liên tục “tiết lộ” về gói kích cầu lên đến 180.000 - 200.000 tỷ đồng cho bất động sản. Tuy thế cuối cùng thị trường khốn quẫn này vẫn không nhận ra bóng dáng của bất kỳ gói kích thích nào. Thậm chí, ngay cả vốn lưu động mà Ngân hàng nhà nước thường rót cho các ngân hàng thương mại vào dịp tết cũng gần như biến mất vào tết nguyên đán năm 2014.
Cô kiệt về nguồn vốn mới đang là tình thế thảm thương mà nhóm lợi ích ngân hàng không làm cách nào lay động được độ trơ của thị trường bất động sản. Núi tiền mặt vẫn dày ngộn trong két sắt Ngân hàng nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng dấu chấm bi đát cùng tắc biến là nó lại không thể biến hóa vào thị trường lưu thông theo bất kỳ ý nghĩa sinh lợi nào. Tình hình đó càng lộ rõ triển vọng tắc nghẹn khi một chuyên gia PR tiết lộ một cách trần trụi: toàn bộ con số 100.000 tỷ đồng của “gói kích cầu” bất động sản không hề là “tiền tươi thóc thật” như giới đầu tư và tiêu dùng mong ngóng, mà chỉ là tiền được tạo ra bởi trái phiếu đặc biệt của Chính phủ.
Sẽ không có gì để bàn cãi về tính tác dụng của trào lưu phát hành trái phiếu, nếu tự thân nó không hàm chứa những thất bại hiển nhiên đã được thực chứng. Vào giữa năm 2013, kế hoạch phát hành 600 triệu USD trái phiếu chính phủ để cứu tập đoàn Vinashin đã không thể chứng nhận được bất cứ một nguồn tiêu thụ nào. Vậy với một thị trường bất động sản và cả hệ thống ngân hàng đã quá suy mòn niềm tin chính sách và cả niềm tin chính thể, làm sao có thể tống táng trái phiếu để lấy tiền cứu giới tồn kho?
2014. Kịch bản “phục hồi kinh tế” đang cố gắng được lặp lại những gì của năm 2009, tức cho thị trường chứng khoán sôi trào và kích thích tâm lý phục hồi giả dối đối với người dân và các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khác hẳn với năm 2009 là lúc mà ngân sách nhà nước còn đủ 8,5 tỷ USD đổ ra cho một gói kích thích, trong hai năm 2012 và 2013 đã hoàn toàn chẳng có một định dạng nào cho gói kích cầu. Cũng bởi thế và cùng với độ trơ hiện hữu của thị trường bất động sản, cho dù chỉ số chứng khoán Việt Nam đang cố tình được đẩy lên gấp đôi độ tăng của thị trường chứng khoán Mỹ, vẫn quá khó có hy vọng là thị trường này sẽ tạo ra được hiệu ứng “bình thông nhau” với lực cầu trên thị trường bất động sản.
Thậm chí với thị trường chứng khoán Việt Nam, đặc tính vô cùng không minh bạch của nó cộng với thói quen “cờ bạc quen tay” của không ít kẻ chỉ muốn móc tiền từ túi người khác càng biến thị trường này thành một cơn chao đảo nóng lạnh cực kỳ bất thường. Không còn là tâm điểm để giải quyết hàng tồn kho, chứng khoán và cổ phiếu chỉ là liệu pháp cuối cùng để các nhóm lợi ích ngân hàng và bất động sản dùng để kích động tâm lý và sức mua đối với thị trường nhà đất. Bởi vậy nhiều khả năng là nếu độ trơ của thị trường bất động sản vẫn hoàn toàn lì lợm trong nửa đầu năm 2014, người ta sẽ chứng kiến một cú bổ nhào cay đắng của các chỉ số chứng khoán.
Dùng thị trường đầu cơ để tạo ra những ảo ảnh về phục hồi nền kinh tế – đó là cơn bĩ cực khôn nguôi của một nền kinh tế bị nạn cờ bạc và tham nhũng ăn vào tận xương tủy trong suốt hơn hai chục năm qua.
Toàn thể cơn bĩ cực như thế thuộc về “thành tích điều hành” của Chính phủ. Nhưng đáng phẫn nộ hơn, nó đổ lên đầu người dân toàn bộ đống rác thải của một thứ chủ nghĩa tư bản dã man trong nền kinh tế thị trường độc quyền “định hướng xã hội chủ nghĩa” theo ngôn ngữ và sở thích độc trị của Đảng.
P. C. D.
Tác giả gửi trực tiếp cho: Bauxite Việt Nam

..................

MẤY Ý KIẾN TRƯỚC NGÀY MỞ PHIÊN TÒA XỬ ÔNG TRƯƠNG DUY NHẤT


MẤY Ý KIẾN TRƯỚC NGÀY MỞ PHIÊN TÒA  “TRƯƠNG DUY NHẤT VỀ ĐIỀU 258, BLHS”

Luật sư Hà Huy Sơn

Theo thông báo của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng: phiên tòa xét xử ông Trương Duy Nhất về khoản 2, Điều 258 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” của Bộ luật hình sự, sẽ mở vào ngày 04/03/2014, tại thành phố Đà Nẵng, tôi có mấy kiến về sự kiện này. .
1. Về thẩm quyền: Tội theo Điều 258 có khung hình phạt cao nhất là 07 năm, không thuộc Chương XI “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Thông thường thẩm quyền điều tra vụ án này là cơ quan cảnh sát là cấp huyện, quận và cơ quan truy tố, xét xử tương đương. Nhưng vụ án “Trương Duy Nhất về Điều 258, BLHS” được cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an tiến hành và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao ra cáo trạng, xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Tức là vụ án được nâng 02 cấp điều tra, truy tố; nâng 01 cấp xét xử.

2. Về hình thức bản cáo trạng giống như cáo trạng của vụ án “Cù Huy Hà Vũ về Điều 88, BLHS”. Vụ án ông Vũ chứng cứ là: 10 đầu tài liệu, trong đó 08 bài viết, phát biểu của ông Vũ, 01 bài nháp, 01 bài của người khác lưu ở máy tính cá nhân. Vụ án của ông Nhất chứng cứ là: 12 bài đăng trên blog, trong đó 11 bài của ông Nhất, 01 bài của người khác.
 
Cả 02 vụ án, cơ quan truy tố là Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đều sử dụng Kết luận giám định của cơ quan Thông tin và Truyền thông để cho rằng bị cáo vi phạm tội như cơ quan điều tra khởi tố. Tôi dự đoán phiên tòa xét xử ông Nhất cũng giống như phiên tòa xét xử ông Vũ là: Nội dung các bài viết sẽ không được công bố tại tòa để làm căn cứ tranh luận như quy định của Điều 214 “Việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Nếu phiên tòa xét xử ông Nhất giống như phiên tòa xét xử ông Vũ thì Tòa án chỉ căn cứ vào Kết luận giám định của cơ quan Thông tin và Truyền thông để kết tội ông Nhất. Tôi hy vọng dự đoán của tôi là không đúng, vì như vậy các hành vi (nội dung các bài viết) của ông Nhất không được xem xét, tranh tụng một cách khách quan tại phiên tòa.

3. Mặt khách thể tội phạm hay đối tượng được pháp luật hình sự bảo vệ trong 02 vụ án trên rất trừu tượng, khó phân biệt nên các cơ quan tiến hành tố tụng có thể đã tùy thuộc vào tình hình chính trị, xã hội để áp dụng Điều 88 hay Điều 258. Nói ngắn gọn: Điều 88 là bảo vệ sự tồn tại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 258 là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Trong Kết luận cáo trạng vụ án của ông Nhất (Điều 258) rất chung chung là: “Nội dung 12 bài viết này không đúng sự thật, tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước;”

Lợi ích của Nhà nước theo hiến pháp chính là quyền lực của nhân dân, tức là các cơ quan Nhà nước, công chức phải tuân theo pháp luật sử dụng bộ máy Nhà nước làm công cụ để thực thi quyền lực của nhân dân. Việc đồng nhất các cá nhân giữ chức vụ Chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội như chính là “Nhà nước” là hoàn toàn sai. Họ chỉ được coi là “Nhà nước” khi thực hiện đúng trách nhiệm công vụ, ngược lại các cá nhân đó lợi dụng quyền hạn được giao để phục lợi ích cá nhân thì không phải là “Nhà nước”.

Nếu các bài viết của ông Nhất về các lãnh đạo Đảng, Nhà nước là xuyên tạc thuộc về “Tội vu khống” chứ không phải Điều 258, BLHS. Ngược lại các bài viết của ông Nhất là đúng và các hành vi của các cá nhân lãnh đạo Đảng, Nhà nước là trái pháp luật thì ông Nhất là người bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền lực của nhân dân, ông Nhất hoàn toàn không có tội.

Hà Nội, ngày 27/02/2014
Hà Huy Sơn

Nguồn: Fb Hà Huy Sơn

Copy từ: Tễu’ blog


..............

Lời chia tay với Đảng Cộng sản Việt Nam



Tống Văn Công


Trong bản tự kiểm điểm ngày 22-2, ở phần “tự nhận một hình thức kỷ luật”, tôi đã viết:

Là một đảng viên hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, 82 tuổi còn làm việc hợp đồng, lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy thoái của Đảng, tôi nghĩ rằng, tôi không phải thuộc số không nhỏ đảng viên thoái hóa chính trị mà chính những người bảo thủ, giáo điều không sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh hùng trong sự nghiệp giải phóng, nay trở thành một Đảng độc đoán, tham nhũng mới đúng là những kẻ suy thoái chính trị. Do đó tôi không thể nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên là suy thoái tư tưởng chính trị.

Tuy vậy, tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì làm như vậy, tôi sẽ yên lòng rằng, Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó mà mai kia tôi sẽ không còn quá băn khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn quá bức xúc cứ muốn góp ý xây dựng.

Ngày 24 tháng 2 năm 2014, tôi nhận được văn thư của đảng ủy cho rằng tự kiểm điểm của tôi “chưa đạt yêu cầu”, phải “nghiêm túc viết lại bản tự kiểm điểm và tự nhận hình thức kỷ luật”. Cùng với văn thư trên, có bản gợi ý nêu ra ba trường hợp mà theo Quyết định 47 -QĐ/TW là phải khai trừ: “Có quan điểm ủng hộ hoặc tán thành đa nguyên chính trị, đa đảng; công khai phê phán bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng.”

Tôi hiểu, Ban chỉ đạo muốn bảo rằng: Khuyết điểm của tôi là phải tự nhận hình thức khai trừ ra khỏi Đảng. Không làm như vậy thì tôi gây khó cho tổ chức Đảng. Nhưng làm như vậy thì thật là khó cho tôi. Bởi vì cho đến nay, tôi vẫn tự hào về cái ngày là anh lính vệ quốc đoàn, viết đơn xin vào Đảng để được noi gương các đảng viên trong giờ phút gay go của chiến dịch Cầu Kè năm 1950 (Trà Vinh) đã hô to “Các đảng viên cộng sản! Xung phong!”. Tôi vẫn tự hào ngày được vào Đảng, giơ tay thề hy sinh chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất, dân chủ cho nhân dân. Còn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là gì thì, thú thật không chỉ tôi mà cả các bậc đàn anh cũng chẳng hiểu!

Càng tự hào về lý tưởng cao cả mà mình đã bỏ cả đời để phục vụ, tôi càng day dứt, xấu hổ vì sự thoái hóa, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ những người trong guồng máy lãnh đạo, khiến Đảng cầm quyền phạm nhiều sai lầm, làm mất hết niềm tin của nhân dân, làm khoảng cách tụt hậu của đất nước càng ngày càng xa so với các nước khu vực. Những người lúc nào cũng hô hào kiên trì ý thức hệ lỗi thời, cấm không được tự diễn biến, thực ra, họ chỉ nhằm duy trì quyền lực, khai thác “lợi ích nhóm”, làm giàu cho bản thân, bất chấp thiệt hại của nhân dân lao động và đất nước. Giặc “nội xâm” bao giờ cũng là chỗ dựạ của giặc “ngoại xâm”. Bất kể bọn bành trướng hung hăng ra rả khẳng định toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa, cả “lưỡi bò” Biển Đông là của Trung Quốc, lời họ đáp lại chủ yếu vẫn là kiên trì “16 chữ vàng” và “4 tốt”, vì đây là “đồng chí cùng chung ý thức hệ”, cùng chống lại các thế lực thù địch phương Tây. Truyền thống bất khuất, lòng tự tôn dân tộc bị xúc phạm nghiêm trọng, làm mất dần sự đồng thuận xã hội trước hiểm họa đe dọa sự tồn vong của dân tộc, mà thực ra cũng là sự tồn vong của chính Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vì những lẽ đó mà thời gian qua, tôi hết sức tự kiềm chế, cố gắng tiếp tục đứng trong hàng ngũ Đảng để cùng với các đảng viên chân chính trực tiếp đấu tranh, góp ý xây dựng Đảng, hi vọng những người lãnh đạo nhận ra sai lầm, vứt bỏ ý thức hệ lạc hậu, tiến tới một Đại hội Đảng đổi mới lần 2: Đổi mới chính trị, thực hiện nhà nước pháp quyền đúng như các thể chế chính trị hiện đại. Từ đó mà vực dậy niềm tin đang cùng kiệt của nhân dân, tiếp tục sứ mệnh mà đảng viên và nhân dân giao cho.

Hôm nay, con đường ấy đã bị chặn lại. Đau lòng lắm, nhưng phải đành vậy thôi! Từ giờ phút này, từ ngày hôm nay, 25-2-2014, tôi xin nói lời chia tay với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 25 tháng 2 năm 2014

Tống Văn Công

Phụ lục:

BẢN KIỂM ĐIỂM KHÔNG ĐẠT YÊU CẦU

TỐNG VĂN CÔNG

Ngày 14-2- 2014, tôi được Đảng ủy mời họp tại văn phòng đảng ủy phường Tân Kiểng, quận 7, TP HCM, để nghe chỉ đạo tự kiểm điểm về những khuyết điểm của mình. Do không được trao văn bản, tôi đã ghi chép mấy điểm chính: Từ năm 2009 đã viết hơn 30 bài trái quan điểm của Đảng, đưa lên mạng gây tác động xấu; có 15 cuộc kiểm điểm góp ý mà không sửa chữa; có những bài chống Trung Quốc, gây chia rẽ hai Đảng, hai nước xã hội chủ nghĩa; xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh; tự diễn biến hòa bình suy thoái chính trị: cổ vũ tam quyền phân lập, đa nguyên, đa đảng, vi phạm 19 điều cấm đảng viên không được làm theo Quyết định 47- QĐ/TW của Bộ Chính trị. Đồng chí Công phải viết bản tự kiểm điểm và tự nhận một hình thức kỷ luật của Đảng.


VÌ SAO TÔI VIẾT BÀI “ĐỔI MỚI ĐẢNG TRÁNH NGUY CƠ SỤP ĐỔ”?

Tháng 9 năm 2009 tôi viết bài trên với mở đầu bằng câu “Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: giặc ngoại xâm và giặc nội xâm”.

Từ 2005, Trung Quốc bắt đầu bắn giết đuổi bắt ngư dân đòi tiền chuộc. Ngày 9-1-2005, chúng bắn chết 9 ngư dân Hoằng Hóa, Thanh Hóa, bắn bị thương 9 người, bắt sống 9 người đòi tiền chuộc mỗi người hơn 100 triệu đồng. Các hãng tin nước ngoài đưa tin, ta im lặng. Sau 4 ngày, người phát ngôn Trung Quốc Khổng Tuyền tuyên bố “Qua 55 năm quan hệ ngoại giao hai nước đã bước qua giai đoạn phát triển mới vô cùng tốt đẹp”. Tiếp theo Bộ Quốc phòng cử đoàn cán bộ quân sự cao cấp sang Trung Quốc học tập chính trị. Nhưng không vì thế mà Trung Quốc giảm bớt các hành động bắn giết, đuổi bắt ngư dân. Tháng 6 năm ngoái (2013), trong khi người dân bức xúc vì liên tiếp hai tàu cá Quảng Ngãi, bị bắn chìm, một ngư dân chết thì báo chí đưa tin ngày 6-6-2013, Bộ Quốc phòng cử 22 cán bộ cao cấp sang Trung Quốc học chính trị, đây là đợt thứ 6.

Năm 2009 còn có chuyện mở đầu thực hiện với Trung Quốc khai thác bôxit Tây Nguyên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi liên tiếp ba thư yêu cầu ngưng dự án này với hai lý do: Tây Nguyên là địa bàn an ninh quốc phòng, không nên đưa nước ngoài khai thác; hai là không có hiệu quả kinh tế. Các nhà khoa học tổ chức nhiều cuộc hội thảo và kiến nghị giống như Đại tướng, có nêu thêm cảnh báo sẽ có hàng vạn tấn bùn đỏ trên cao hơn 1000 mét có thể đổ ụp xuống làm miền Đông và Sài Gòn chết khát. Nhưng Đảng, Nhà nước ta vẫn kiên trì thực hiện thông cáo chung đã được TBT Nông Đức Mạnh cam kết với Đảng bạn. Năm 2013, nhà máy Tân Rai đã cho ra sản phẩm. Trung Quốc mua dưới giá thành. Tính ra mỗi năm lỗ khoảng 100 triệu đô la. Những vị có trách nhiệm xin miễn giảm thuế và cam kết từ năm 2020 sẽ lãi to!

Về hiểm họa nội xâm: Tham nhũng tỏ ra bất trị, cứ tăng nhanh từng năm, tháng. Tại Hội nghị Trung ương 3, năm 2006, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh phát biểu: “Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Là một đảng viên, sao có thể vô cảm trước “sự sống còn” ghê gớm ấy? Tuy nhiên dù rất nhiều cảnh báo góp ý, 6 năm sau, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 4 sáng ngày 26 tháng 12 năm 2011 có đoạn như sau: “Đặc biệt có một câu hỏi lớn rất day dứt, trăn trở lâu nay, cần được trả lời cặn kẽ là: Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu? Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin đối với Đảng? Vướng mắc chính là chỗ nào?”.

Như vậy là dù 30 năm với rất nhiều nghị quyết, chỉ thị, tham nhũng vẫn không lùi nhưng Tổng bí thư vẫn cho rằng Nghị quyết, chỉ thị rất đúng!

Sau một năm thi hành Nghị quyết Trung ương 4, Tổ chức Minh Bạch thế giới xếp hạng Việt Nam tụt 11 bậc về kết quả chống tham nhũng. Nhân loại tiến bộ đã rút ra bài học thực tế rất ngắn gọn về tham nhũng như sau: Tham nhũng là do Nhà cầm quyền độc tài, quyền quyết định của viên chức quá rộng, thiếu công khai minh bạch và quyền tư pháp không độc lập, do đó không kiểm soát được quyền lực.

Lẽ ra những người lãnh đạo của Đảng cầm quyền sau hàng chục năm với nhiều nghị quyết vẫn không chống được tham nhũng thì phải hiểu rằng các nghị quyết ấy sai, hoặc chưa đầy đủ, phải học cách làm của những quốc gia chống tham nhũng thành công đặt ra cho mình những câu hỏỉ từ bài học của nhân loại.

Quan liêu, độc quyền đẻ ra tham nhũng, làm suy thoái Đảng cầm quyền, gây ra khủng hoảng chính trị. Lịch sử 84 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ có chuyện Tổng bí thư thay mặt Bộ Chính trị đề cử hai người vào Bộ Chính trị mà bị bác bỏ cả hai và bầu hai người khác. Chưa bao giờ có tình trạng các nhà lãnh đạo công kích nhau trước nhân dân. Chưa bao giờ trong một cuộc họp báo công khai mà ông nói gà, bà nói vịt. (Họp báo đầu năm ngày 7-2, Đinh Thế Huynh nói, báo chí thông tin, bình luận phải có lương tâm và trách nhiệm tạo ra sự đồng thuận, không được phép nói trái làm phân tâm các véctơ phát triển. Sau đó, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói: “Tạo đồng thuận không phải là khen xuôi chiều mà phải phát hiện phê phán với tinh thần xây dựng”). Chưa bao giờ có tình trạng nhiều đảng viên tuyên bố bỏ Đảng như bây giờ!

Từ khủng hoảng chính trị đã gây ra khủng hoảng toàn diện cho đất nước. Chỉ xin nêu sơ lược vài nét:

+ Nền kinh tế được hi vọng sẽ sớm xuất hiện “con rồng Việt Nam” đã lâm vào khủng hoảng hai năm trước khủng hoảng của thế giới, đến nay theo Viện trưởng Quản lý kinh tế Trần Đình Thiên, “kinh tế thế giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam thì còn ở dưới đáy, bởi nợ xấu, sở hữu chéo, đề án tái cơ cấu tiếp tục nằm trên giấy”. (Tại Hội thảo mùa Thu ở Huế)

+ Nông dân kéo đi khiếu kiện vượt cấp hàng chục năm, tới lúc dùng súng chống cưỡng chế. Nguyên chủ tịch tỉnh lúa An Giang Nguyễn Minh Nhị nói: “Bao nhiêu năm theo Đảng giành độc lập, có độc lập rồi thì mất quyền sở hữu ruộng đất, dắt díu nhau lên các khu công nghiệp tìm sống với đồng lương bèo bọt” (báo Nông nghiệp Việt Nam Tết Tân Mão).

+ Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng của mình. Nhưng họ đang trong tình trạng cùng khổ chưa từng có. Giống như giai cấp công nhân ở thế kỷ 19 mà Marx – Engels đã mô tả, nhưng còn khổ hơn vì không được phép đình công. Theo Tổng Liên đoàn Lao động lương tối thiểu của họ chỉ đủ cho 60% mức sống tối thiểu, có 94% phải tăng ca, tăng giờ. Họ đã tự tổ chức hơn 5000 cuộc đình công bị coi là bất hợp pháp vì không được công đoàn lãnh đạo! Trước đây công nhân còn cử ban đại diện ra đối thoại với chủ, nhưng từ 2013 không còn ai dám đứng ra làm đại diện nữa, vì sau khi tình hình ổn định thì người đại diện bị chủ sa thải, hoặc bị bắt về tội kích động đình công.

+ Năm 2013 Công ty tư vấn tài sản WealthX và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS thông báo: “Mặc cho kinh tế khó khăn, số người “siêu giàu” ở Việt Nam (có tài sản 30 triệu USD) đã tăng 15%, trong khi đó có 8,1 triệu người nghèo đói”. Có thể nêu tên hai người nghèo phải tìm cái chết đã được đăng báo là: Chị Lê Thị Ngọc Nhãn ở Cà Mau trước khi tự tử đã gửi thư cho Trung tá Diện: “Sau khi cháu chết rồi xin chú giúp các con của cháu được vào trại mồ côi. Cháu đội ơn chú đời đời”. Chị Nguyễn thị Mỹ Nhân cũng ở Cà Mau tự tử để được công nhận diện nghèo, đã gửi thư cho Đảng ủy xã: “Xin thấu hiểu hoàn cảnh không lối ra của gia đình tôi, sau khi tôi chết, đồng ý cấp sổ nghèo cho chồng con tôi được sống.”

+ Đạo đức xã hội băng hoại chưa từng thấy. Một dân tộc sống theo phương châm “thương người như thể thương thân”, những năm kháng chiến nhà nhà đêm không gài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Sau 38 năm sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa sao biến đổi ghê gớm như vậy? Con đánh giết cha mẹ, cháu đánh giết ông bà, vợ đốt chồng. Thanh niên ném đá lên ô tô tàu hỏa làm vui. Thợ vá xe rắc đinh bẫy người đi mô tô. Đi lao động nước ngoài thì trộm cắp và bỏ trốn để sống bất hợp pháp. Các báo mới đưa tin thày trò đánh nhau giữa lớp. Chuyện thầy gạ tình cho điểm, ép mua dâm học trò vị thành niên liên tục xảy ra. Điều tra của Trung tâm xã hội học cho hay: Học sinh cấp 1 có tỉ lệ nói dối 22%, cấp 2 tăng lên 50%, cấp 3 64%, đại học 80 %. Chúng ta sắp có lớp trí thức mới nói dối nhất thế giới. Nguyên Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình nói: “Giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào” (trên báo Giáo Dục).

Cũng chính vì không chịu đổi mới chính trị, khư khư ý thức hệ giáo điều mà không có một sách lược đối ngoại đúng đắn nhất là đối với Trung Quốc, bị họ lòe bịp “16 chữ vàng” và “4 tốt”. Trung Quốc chưa bao giờ là nước xã hội chủ nghĩa, và ngày càng tỏ ra là một nước phát xít. Sau giải phóng họ bắt đầu thôn tính Tây Tạng, Tân Cương, đàn áp, không ghê tay, sau đó tấn công biên giới Ấn Độ, Liên Xô… Họ dùng hai thủ đoạn xảo trá để buộc chúng ta khuất phục: Một là kể công ơn đã giúp ta; hai là đề cao cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, phải cùng “chống âm mưu diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch phương Tây. Họ khuyên ta cử cán bộ sang nghe họ giảng dạy về bảo đảm an ninh chính trị, chống âm mưu diễn biến hòa bình và ta đã làm theo.

Nên biết, ngày xưa họ giúp ta chỉ vì sách lược dùng máu Việt Nam để mặc cả với Mỹ và phương Tây và để có điều kiện thao túng ta. Năm 1954, họ ép ta nhận sự chia đôi đất nước. Năm 1972 họ bắt tay Nixon bán đứng ta, để chiếm trọn Hoàng Sa. Năm 1975 họ nhờ tướng Pháp Vanuxem khuyên Dương Văn Minh lên tiếng cầu cứu, Bắc Kinh sẽ cứu Việt Nam Cộng hòa, bị tướng Minh từ chối. Năm 1979, họ xui Pôn Pốt đánh ta, rồi cho rằng ta bị kẹt ở Campuchia, họ đưa 600.000 quân xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc, giết hàng vạn dân thường, đập phá từng cái nồi, hãm hiếp, giết chết đàn bà con trẻ ném xuống giếng. Bị thua đau, họ rút quân, nhưng vẫn chiếm giữ nhiều vùng núi hiểm trở. Năm 1988 họ tấn công đảo Gạc Ma và các đảo ở Trường Sa, xả súng giết 74 hải quân ta. Mỗi dịp kỷ niệm ngày hải quân họ đưa phim này ra chiếu. Hiện nay họ vẫn tuyên bố toàn bộ Trường Sa và 80% Biển Đông là của họ, việc đánh chiếm chỉ là chờ thời cơ.

Nhiều đảng viên cộng sản dẫn đầu biểu tình phản đối tội ác của chúng đã bị đuổi bắt. Nhà văn Nguyên Ngọc đi biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn đã bị Đài Truyền hình Hà Nội gọi là bọn phản động, ông kiện, tòa trả lại hồ sơ không xử. Tôi và đồng chí giáo sư Tương Lai trên đường đi dự cuộc mít tinh phản đối Trung Quốc xâm lược tại Nhà hát Thành phố (ngày hôm trước đã báo với ông Lê Minh Trí Phó chủ tịch UBND TP HCM) đã bị hơn chục xe cảnh sát bao vây buộc phải vào đồn.

Quá bức xúc trước tình trạng khốn khổ của ngư dân, anh André Menras tên Việt Nam là Hồ Cương Quyết, người từng treo cờ Mặt trận giải phóng trước Nghị viện Sài Gòn, bị Chính quyền Sài Gòn bỏ tù, đã xin Chủ tịch Nguyễn Minh Triết cho phép làm bộ phim “Hoàng Sa - Việt Nam, nỗi đau mất mát”. Anh bỏ tiền dành dụm nghỉ hưu đem làm phim. Phim làm xong được duyệt, nhưng cho tới nay vẫn cấm chiếu. Một lần họp mặt với bạn tù thời chống Mỹ ông đem phim ra chiếu đã bị cảnh sát giải tán. Hồ Cương Quyết búc xúc kêu: “Bác Hồ ơi, Bác sống lại mà coi!”.

Nhân đây tôi muốn nhắc lại trong cuộc kiểm điểm tôi về bài viết ”Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ”, có chi ủy viên đã nói: “Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa. Ta nói của ta. Trung Quốc nói của Trung Quốc. Đồng chí Công nói vậy là gây chia rẽ hai Đảng và hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Lãnh đạo các cấp ủy không ai có ý kiến gì. Tôi không chê trách các đồng chí mà chỉ băn khoăn lo lắng, vì sao Đảng lãnh đạo không quan tâm giáo dục cho đảng viên và nhân dân hiểu lời của đức Trần Nhân Tông: “Các ngươi phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay giặc”. Tháng trước, Thủ tướng chỉ đạo phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa, báo vừa đăng lên đã bị gỡ xuống. Quan hệ với Trung Quốc gây thiệt hại về phía Việt Nam chưa thể lường hết. Qua 20 năm, FDI từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% nhưng Trung Quốc lại trúng thầu hơn 90% các công trình điện, khai khoáng, luyện kim, hóa chất. Họ đưa cho ta thiết bị lỗi thời. Mấy năm qua ngành mía đường cứ kêu bị đường nhập lậu đánh bại là do thiết bị Trung Quốc cũ kĩ, tiêu hao năng lượng, lao động nhiều, giá thành cao, chất lượng kém. Sau đường là xi măng và nhiều thứ khác. Các công trình trúng thầu, họ đưa lao động cơ bắp người Trung Quốc sang xây nhà ở, lập nhà hàng, lấy vợ sinh con, mua đất đứng tên vợ. Các làng Trung Quốc hình thành khắp nơi từ Móng Cái đến Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Khánh Hòa… Thương lái Trung Quốc gây khó từ Lạng Sơn tới tận Cà Mau, họ hợp đồng mua rễ hồi, móng trâu, khoai lang, đỉa, ốc bươu vàng, lá vải… ít lâu thì họ biến mất.

Chúng ta đã lập quan hệ hữu nghị hợp tác với những “kẻ thù cũ” Pháp, Mỹ, đặc biệt đã đưa Tổng thống Pháp Mitterand đi thăm chiến trường xưa Điện Biên Phủ nơi họ bị bắt sống 17.000 quân nhục nhã. Suốt hơn nửa thế kỷ chúng ta vẫn long trọng tổ chức những ngày kỷ niệm chiến thắng. Thậm chí hàng ngày báo chí, đài tuyền hình phát thanh còn ra rả chửi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Nhưng không vì thế mà họ gây khó khăn cho ta, thậm chí họ vẫn viện trợ, tạo điều kiện cho ta phát triển. Cuộc chiến chống xâm lược biên giới phía Bắc từng được báo Nhân Dân bình luận với tựa đề “Chiến công hiển hách ghi vào lịch sử chống xâm lược của dân tộc”, thế nhưng sau khi lập lại quan hệ bình thường với Trung Quốc thì dường như bị buộc phải quên chiến công hiển hách ấy đi? Tại sao với Trung Quốc chúng ta không dám đòi bình đẳng như các quốc gia khác? Rất tệ hại là chủ trương đục bỏ bia chiến thắng ở Cầu Chánh Khê, bôi xóa tên liệt sĩ Hoàng Thị Hồng Chiêm trên tượng đài của chị và đổi tên trường trung học mang tên chị thành trường Bình Ngọc (thuộc Móng Cái). Ở tận núi Quyết, thành phố Vinh Nghệ An, người ta còn đập bỏ tấm bia của Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi Quang Trung vì có hai chữ “giặc Tàu”. Bài thơ như sau:

“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,

“Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu.

“Ông đà chí cả, mưu cao,

“ Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.

“Cho nên Tàu dẫu làm hung,

“Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà”.

Cách xử lý như trên cùng với việc cho cảnh sát đuổi bắt, ném lên xe những đảng viên và nhân dân đi biểu tình mỗi lần Trung Quốc gây hấn vô lý, có phải là sách lược sáng suốt hay không? Một Đảng trong sạch không tham nhũng, tôn trọng và hết lòng phục vụ nhân dân, đồng thời không khuất phục trước kẻ thù hung bạo là hai điều kiện quyết định để có thể đứng vững và tồn tại.

Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài nói sau ngày chiến thắng biên giới phía Bắc năm 1979 có đại ý: Trung Quốc từ lâu có âm mưu bành trướng xuống phía Nam. Khi chúng có điều kiện thực hiện thì đầu tiên sẽ là xâm lược Việt Nam. Muốn không bị xâm lược chúng ta phải mạnh lên, cả nước đoàn kết một lòng. Chúng ta không thù hằn Trung Quốc, coi nhân dân Trung Quốc là anh em. Bọn phản động cầm quyền chỉ là một bè lũ. Ý kiến của ông vẫn còn nguyên giá trị thời sự!

Nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây khủng hoảng và hèn yếu trước ngoại bang là do Đảng không đổi mới chính trị tương ứng với đổi mới kinh tế. Thế nào là đổi mới chính trị? Nội dung chủ yếu đã có trong hai câu mở đầu Tuyên ngôn độc lập năm 1945 trích từ Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn nhân quyền 1791 của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Hơn 60 năm qua Liên Hiệp Quốc đã lần lượt ban hành nhiều Tuyên ngôn, Công ước cụ thể hóa các quyền tự do của con người. Nhà nước Việt Nam cũng đã ký cam kêt thực hiện nhiều công ước quan trọng.

Các quyền tự do gồm có: Quyền sở hữu tài sản riêng, quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo, tự do ngôn luận, báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do đi lại và cư trú, quyền tham gia quản lý đất nước trực tiếp, hoặc thông qua lựa chọn người đại diện bằng cuộc tự do bầu cử thường kỳ, chân thực, bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín. Các quyền tự do nói trên đều được ghi vào Hiến pháp, nhưng suốt 70 năm chưa được thực hiện hoặc thực hiện một cách hình thức. Cho nên nhân dân có câu “Đảng cử dân bầu”. Quyền lập hội chỉ là vào các hội, đoàn do Đảng lập ra. Quyền tự do báo chí là viết báo của Đảng, nhà nước. Hồ Chủ tịch từng nói, báo nhà nước lập ra không phải là báo chí tự do (sách Hồ Chủ tịch với báo chí, do Hội nhà báo TP HCM xuất bản 1980, trang 9). Đó là trái với các Công ước mà nhà nước ta đã ký kết.

Để các quyền tự do của con người trở thành hiện thực thì phải có một chế độ dân chủ để thực thi. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do của con người bằng một bản hiến pháp đảm bảo pháp quyền, thể hiện trung thực ý chí chính trị của nhân dân. Theo bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã nói ở trên, điêù 16 có nội dung như sau: “Một xã hội mà trong đó các quyền con người không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không được tôn trọng, thì hiến pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Tức là phải có nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập thì mới có thể đảm bảo quyền tự do của con người. (Nga và các nước Đông Âu ngày nay đều ghi “tam quyền phân lập” trong hiến pháp của họ). Thông điệp đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: “Dân chủ và nhà nước pháp quyền là cặp song sinh trong thể chế chính trị hiện đại” là có ý nghĩa như vậy. Nhà nước dân chủ phải là nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập. Nhà nước dân chủ phải tôn trọng đời sống của một xã hội dân sự, nội dung phong phú của nó đã được ghi đầy đủ trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” mà nhà nước Việt Nam đã ký cam kết thực hiện từ ngày 24 -9-1982, nhưng sau 30 năm hầu như chưa thực hiện được gì đáng kể!

TẠI SAO TỰ DIỄN BIẾN?

Cuộc sống luôn luôn biến động. Cái hôm qua cho là đúng hôm nay không còn thích hợp. Cho nên chống “tự diễn biến”, chống “diễn biến hòa bình” tức là chống lại sự thay đổi, chống tinh thần sáng tạo tìm những điều thích hợp trong hoàn cảnh mới, chống trào lưu tiến bộ, cố ôm giữ mớ giáo điều mà ngay những nhà mác xít trước đây cũng không chấp nhận. Phép biện chứng cho rằng, mọi sự vật đều tiệm tiến dần dần đi tới đột biến. Tôi xin ôn lại về sự “tự diễn biến” của chính hai ông tổ khai sáng chủ nghĩa cộng sản là Karl Marx và F. Engels.

Năm 1848 Marx và Engels công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cơ sở lý luận của Quốc tế Cộng sản thứ nhất. Trong đó có những luận điểm về đấu tranh giai cấp, cho rằng giai cấp tư sản tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó, cách mạng vô sản sẽ lật đổ nhà nước tư sản, thực hiện chuyên chính vô sản, xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ thị trường, xóa bỏ cả tôn giáo… Từ thập niên 60 thế kỷ 19 hai ông bắt đầu thấy có sự biến đổi trong chủ nghĩa tư bản và chủ trương đấu tranh hợp pháp, không làm cách mạng để lật đổ nhà nước tư bản. Sau khủng hoảng kinh tế năm 1866, các công ty cổ phần và các ngân hàng đầu tư quy mô lớn ra đời làm thay đổi cơ cấu xã hội của chủ nghĩa tư bản. Marx nhận xét, vậy là nhà tư bản “đã từ bỏ sản nghiệp tư hữu của chủ nghĩa tư bản họ chỉ còn là chủ cổ phần của xí nghiệp”. Do đó, phát biểu với quần chúng ngày 8-9-1872 ở Amsterdam (Hà Lan), Marx công nhận các nước như Mỹ, Anh, Hà Lan… công nhân có thể đạt được mục đích của mình bằng biện pháp hòa bình. Hai ông tán thành quan điểm của Ferdinand Lassalle lãnh tụ Đảng Xã hội Dân chủ Đức chủ trương hòa bình đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tan rã quốc tế thứ nhất năm 1876, hai ông không tìm cách khôi phục lại mà bắt đầu soạn thảo Cương lĩnh chuẩn bị ra đời Quốc tế thứ 2. Năm 1883 Marx qua đời, do đó Engels là người chủ trì Đại hội quốc tế của những người lao động xã hội chủ nghĩa tại Pari từ 14 đến 21 tháng 7 năm 1889 thành lập Quốc tế thứ 2 mà nội dung của nó hoàn toàn khác với Tuyên ngôn cộng sản năm 1948 ở những điểm lớn sau đây:

- Đảng và công đoàn đấu tranh bênh vực, bảo vệ quyền lợi mọi mặt của công nhân lao động.

- Không dùng bạo lực cách mạng lật đổ nhà nước tư sản mà đấu tranh nghị trường đa nguyên đa đảng, chấp nhận thể chế đại nghị, cử đại diện tham gia bầu cử, nếu thắng cử thì nắm quyền chính trị thực hiện chế độ xã hội - dân chủ.

- Trong Đảng không lấy lập trường, quan điểm ý thức hệ sát phạt nhau mà tự do tư tưởng, và tất cả thượng tôn pháp luật.

Ngày 6-3-1895, Engels viết lời tựa cho quyển sách “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, trong đó có đoạn như sau: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những xóa bỏ những mê muội của chúng ta mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản. Phương pháp đấu tranh năm 1848 đã lỗi thời về mọi mặt”.

Lênin không chấp nhận đường lối của Quốc tế thứ 2. Do đó không thể xem ông là người kế tục Marx và Engels. Ông kế thừa chủ nghĩa Blanqui, phái bạo lực trong Quốc tế thứ 1, cho rằng, chỉ cần dựa vào cách mạng bạo lực là có thể sáng tạo được một thế giới mới không có bóc lột và áp bức.

Do Lênin chống Quốc tế 2, Đảng Xã hội Dân chủ Nga chia ra thành hai phái đối lập nhau, phái theo Lênin chiếm đa số nên gọi là bonsevich. Trái với dự đoán của Marx - Engels là cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ thành công ở nước tư bản phát triển nhất như Đức, Lênin lãnh đạo Cách mạng tháng Mười thành công ở nước Nga nông nghiệp lạc hậu. Điều này đã làm cho ông tự tin rằng mình không kém Marx, mà còn đúng hơn Marx! Ông đề ra các nguyên lý về chuyên chính vô sản không phải là chuyên chính của cả giai cấp mà là chuyên chính của Đảng độc quyền, không còn bảo đảm “sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản), ông đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ, …

Ngay sau cách mạng tháng Mười thắng lợi đã có nhiều nhà cách mạng Nga và thế giới không đồng ý với các quan điểm của Lênin như Plekhanov, Kausky, Rosa Luxemburg … Trong đó, bà Luxemburg được Franz Mehring người viết tiểu sử của Marx cho là “khối óc tốt nhất đứng sau Marx”, bà nhẬn định “chuyên chính vô sản của Lênin đối lập với dân chủ”.

Các ý kiến phản đối cho rằng Lênin sẽ làm chế độ cách mạng Liên Xô đi tới chỗ sụp đổ đã được nhà nghiên cứu xã hội John Reed ghi lại trong quyển “Mười ngày rung chuyển thế giới” (Việt Nam đã dịch và xuất bản hai lần năm 1960 và 1977). Lênin đọc sách này một cách hứng thú, ông đã viết thư cỗ vũ nhà xuất bản in sách, chấp nhận công khai các lời chỉ trích nói trên đối với ông. Do đó, sau khi Liên Xô sụp đổ nhiều nhà bình luận cho rằng chính Lênin mới là người gieo mầm cho Liên Xô bị tan rã 70 năm sau.

Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu có uy tín đều cho rằng chính các Đảng xã hội - dân chủ mới là những Đảng thừa kế đúng đắn tư tưởng của Marx và Engel. Nhiều nước Bắc Âu vận dụng tư tưởng này đã giành thắng lợi lớn, thực hiện đa nguyên, đa đảng, nhưng luôn giành thắng lợi trên nghị trường, xây dựng nhà nước phúc lợi, nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là công nhân lao động, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, tham nhũng hầu như không có.

Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển, chấp nhận đa nguyên, dựa vào người lao động, đấu tranh nghị trường. Có thời gian rất dài Đảng liên tục cầm quyền 44 năm, đưa nước Thụy Điển nghèo nàn, lạc hậu trở thành nước giàu bật nhất, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, hầu như không có tham nhũng, ổn định nhất thế giới. Năm 2013 Cộng hòa Liên Bang Đức nước giàu mạnh nhất Châu Âu kỷ niệm 150 năm Đảng Dân chủ Xã hội Đức, một Đảng theo đường lối của Quốc tế 2 lâu đời và vững mạnh vào bậc nhất. Nhân dịp này Tổng thống Joachim Gauck có bài diễn văn ca ngợi Đảng có lịch sử lâu dài dám xả thân vì niềm tin của mình: “Đó là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt xã hội của những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án phải độc lập”. Quan điểm đúng đắn đã thắng thế trong Đảng, đó là: “không thiết lập một đặc quyền giai cấp mới nào”, “dân chủ phải vừa là phương tiện vừa là mục tiêu”, “đấu tranh cho cải cách chứ không phải cho việc làm cách mạng”, “can đảm phấn đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực lượng to lớn khác của các đảng phái tư sản”, “cải thiện từng bước cụ thể đời sống con người, thay vì công bố những mục tiêu xa vời không tưởng”. Do đó, Đảng kế thừa tư tưởng của Marx, Engels, Lassalle vững mạnh suốt 150 năm làm cho Tây Đức có thu nhập cao gấp 4 lần Đông Đức xã hội chủ nghĩa theo chuyên chính vô sản của Lênin khi thống nhất!

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tỏ rõ một quá trình tự diễn biến rất gian nan, có lúc nhanh, lúc chậm, có lúc đúng, lúc sai và nhiều lần sai rất nghiêm trọng và kéo dài. Khoảng 1930- 1931 khẩu hiệu vang dội của Đảng là “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rễ”. Năm 1945 đảo ngược lại hoàn toàn: Đoàn kết mọi người yêu nước, không phân biệt, đảng phái, giai cấp… Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Khoảng năm 1950 bắt đầu nói “Đoàn kết công, nông, binh”. Còn hiện nay thì nói “ Liên minh công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng”.

Sau năm 1975, Đại hội 4, Đại hội 5 đều đặt nhiệm vụ lớn nhất là “Thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước” và “Nắm vững chuyên chính vô sản là nắm vững đường lối của Đảng”. Nội dung của nó là tiếp tục đấu tranh giai cấp, tiêu diệt mầm móng bóc lột, giải quyết triệt để “vấn đề ai thắng ai”. Ngày nay hầu như những chữ “chuyên chính vô sản” và “ai thắng ai” đã biến mất mà Nghị quyết bắt đầu nói “con người là trung tâm”, và “phải thực hiện quyền con người”. Nghị quyết Đại hội 4 và 5 đều có chủ trương lớn là cải tạo xã hội chủ nghĩa về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Về công nghiệp không để một xí nghiệp tư nhân nào. Nông dân phải vào hợp tác xã. Cửa hàng tạp hóa của tiểu thương cũng không còn. Nghị quyết Đại hội 4 ghi “Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thành công thông qua xây dựng có ý thức, có kế hoạch. Vì vậy kế hoạch là công cụ chính để quản lý và điều khiển quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.” Hiện nay, nghị quyết bảo phải vận dụng đầy đủ quy luật thị trường. Đại hội 4 và Đại hội 5 đều quyết định “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Năm 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn nói “thời kỳ quá độ kéo dài khoảng 20 năm”. Năm 2013, tại Quốc hội Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, chưa biết đến hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hay chưa. Đại hội 6 nhận định nền kinh tế đạt kết quả không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Nguyên nhân là do “Mười năm qua đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về cải tạo xã hội chủ nghĩa và về quản lý kinh tế”. Đại hội 6 cho sai lầm là do “duy ý chí” không nhìn đúng sự thật và đưa ra khẩu hiệu “Nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội quyết định Đổi mới toàn diện, bắt đầu là đổi mới kinh tế. Đại hội 9 cho phép doanh nhân (tên mới của nhà tư sản) được thuê công nhân với số lượng không hạn chế. Đại hội 11 chủ trương kết nạp doanh nhân vào Đảng Cộng sản, tức là nhà tư sản được đứng vào đội tham mưu của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng. (Điều này ông Nguyễn Đức Bình nguyên ủy viên Bộ chính trị, Giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc kiên trì cực lực phản đối vì cho rằng như vậy không còn gì là chủ nghĩa xã hội!).

Lược qua ở trên đã cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn tự diễn biến hòa bình. Nhờ đó mà Đảng thoát khỏi những tai ương cho mình và tai họa cho dân tộc như: cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, bỏ tù hàng loạt cán bộ cao cấp gọi là “ nhóm chống Đảng”. Diễn biến hòa bình lớn nhất là Đổi mới của Đại hội 6, quyết định bỏ một nửa, nhưng là một nửa quan trọng nhất lý thuyết xã hội chủ nghĩa của Lênin, Stalin. Quan trọng nhất là nói theo Marx: cơ sở kinh tế quyết định đối với thượng tầng kiến trúc. Nhờ đó mà dư luận quốc tế hi vọng sẽ sớm xuất hiện “Con rồng Việt Nam”. Nhưng sau gần 30 năm đã làm người ta thất vọng. Thành tích đổi mới kinh tế đã làm cho những người lãnh đạo chủ quan cho rằng có thể không cần đổi mới chính trị. Thực ra những người lãnh đạo sợ rằng đổi mới chính trị sẽ đe dọa sự tồn tại vị trí cầm quyền của Đảng. Những người sáng suốt nhất, dũng cảm nhất của Đảng như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ… đề nghị đổi mới chính trị đều bị sa thảỉ.

TẠI SAO TÁN THÀNH TAM QUYỀN PHÂN LẬP?

Chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lênin đều không có nhà nước pháp quyền mà chỉ có nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập là của nền dân chủ phương Tây. Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1946 là nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập. Các Hiến pháp sau này khác Hiến pháp 1946 chính là ở đó. Sau Đổi mới, đến Đại hội 7 Tổng bí thư Đỗ Mười là người có sáng kiến đưa ra khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, có định nghĩa như hiện nay.

Các nhà tuyên huấn của Đảng giải thích: Quyền lực nhà nước là thống nhất. Bởi vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân dân thì không thể chia cắt (chuyên viên cao cấp của Ban Tuyên giáo Trung ương giảng về Hiến pháp 2013 ở đảng bộ phường Tân Kiểng). Lý lẽ đó không chính xác. Nhà nước là công cụ của nhân dân. Nhân dân có quyền phân chia các quyền tư pháp, hành pháp, tư pháp như thế nào để có hiệu quả nhất cho phát triển và chống tham nhũng. Phân quyền của nhà nước pháp quyền, chứ đâu phải là phân chia nhân dân! Còn có lý lẽ thứ hai, “tam quyền phân lập” là của phương Tây của tư sản không thích hợp cho phương Đông và nước xã hội chủ nghĩa. Về điều này có thể lấy ý kiến của Tôn Trung Sơn nhà cách mạng vĩ đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đề cao. Ông nói trong bài phát biểu năm 1927 trước quốc dân: “Dân chủ dân quyền thì phải học Phương Tây. Bởi vì Phương Đông và Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm trong quân quyền”. Việt Nam ta cũng theo “quân quyền” cho đến 1945.

Xin trích hai ý kiến cách nhau hơn 2000 năm về “tam quyền phân lập” mà cho đến nay vẫn được cả nhân loại truyền tụng làm theo.

Triết gia vĩ đại thời cổ đại, Aristote nói: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó. Còn nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi thấy sự cứu thoát của nhà nước”.

Một triết gia Pháp vĩ đại của thế kỷ 19 là Montesquieu nói: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên lão thì không còn gì là tự do nữa. Người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy, chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền hành pháp và lập pháp. Nếu như quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân. Quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập với quyền hành pháp thì quan tòa có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức nắm cả ba quyền thì tất cả đều mất hết”.

Ngày nay các nước dân chủ đều thực hiện nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập để xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích là để bảo vệ quyền con người. Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp. Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có câu “Người dân có quyền làm tất cả những điều gì luật pháp không cấm và sử dụng luật pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.”

Đó là những ý kiến rất đúng đắn nhưng không thể thực hiện được nếu như không có nhà nước pháp quyền, với tam quyền phân lập! Vì sao? Bởi vì ở Điều 2 của Hiến pháp ghi “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện cá quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quốc hội là cơ quan lập pháp, nhưng thực ra gồm có đủ mặt những người của hành pháp và tư pháp. Điều đó gây hậu quả đúng như Montesquieu cảnh báo như trên. Quyền tư pháp độc lập không thể thực hiện theo “sự phân công phối hợp” được. Do đó nó đẻ ra điều người gọi là “án bỏ túi”. Án oan sai nhiều không kể xiết, rất đáng lo là nhiếu oan sai tới mức án tử hình. Rất nhiều vụ án xét xử kéo dài hàng chục năm như vụ án “vườn đào”, vụ án “ăn trộm dê”… Nghị quyết 49/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020 không có đề ra việc thực hiện quyền Tư pháp độc lập. Do đó, mỗi năm đều họp bàn mà suốt 10 năm vẫn không có nền Tư pháp trong sạch vững mạnh như mục tiêu đề ra!

Nguyên nhân quan trọng nhất khiến quyền tư pháp không thể độc lập là do Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy “quyền lực nhà nước là thống nhất…” nhưng cuối cùng cả ba quyền đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tức là Đảng có quyền đứng trên quyền tư pháp, đứng trên pháp luật.

Một số nhà nghiên cứu pháp luật là đảng viên đã hơn chục năm nay kiên trì góp ý rằng: Đảng đã lãnh đạo xây dựng Hiến pháp cụ thể hóa Cương lĩnh của Đảng rồi thì không nên trực tiếp lãnh đạo quyền tư pháp. Phải để quyền tư pháp đứng trên thì mới ngăn chặn được tham nhũng. Đảng đang lâm vào tình trạng tham nhũng suốt hơn 30 năm, càng ngày càng nghiêm trọng, nếu không dũng cảm chấp nhận tư pháp độc lập thì không khác nào người bị bệnh nặng mà cứ giành quyền chỉ đạo thầy thuốc!

TẠI SAO ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN LẠI TÁN THÀNH ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG?

Như vậy là tạo điều kiện cho các đảng đối lập giành quyền lãnh đạo của Đảng mình? Hậu thuẫn cho câu hỏi này là lập luận: Trong thời kháng chiến gian khổ, tại sao các đảng đối lập không nhảy ra tranh với Đảng Cộng sản về sự hi sinh, nay sau khi đất nước hòa bình phát triển lại muốn nhảy ra tranh phần? Cách nghĩ như vậy giống như đòi chia “quả thực” trong cải cách ruộng đất, ai “đấu tố” mạnh thì phải được chia phần nhiều hơn; hoặc giống như một công ty cổ phần bàn chuyện chia lãi, chứ không giống một Đảng cách mạng từng tuyên bố “Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân” (giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh của Bộ Giáo dục - Đào tạo). Trong hạnh phúc của nhân dân có quyền tự do, mà chủ tịch Hồ Chí Minh có câu thơ rất hay “Trên đời nghìn vạn điều cay đắng. Cay đắng chi bằng mất tự do”. Trong các quyền tự do có quyền tự do chính trị. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Nhà nước Việt Nam ký kết từ 24-9-1982 ở Lời nói đầu có ghi “Chỉ có thể đạt được lý tưởng của con người tự do được tận hưởng tự do về dân sự và chính trị không bị sợ hãi…” và ở Điều 1 ghi nhận “quyền quyết định thể chế chính trị”. Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền: “Tự do tổ chức và hội họp”. Các Hiến pháp sau này đều có ghi nhận tất cả các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, nhưng đã mắc nợ nhân dân suốt 70 năm không được thực hiện. Mặc dù Hiến pháp và Luật đều không điều nào cấm lập đảng, lập hội, nhưng thực tế thì không cho phép. Và như phần trên đã nói, từ 1866 Marx và Engels đã chấp nhận đa đảng. Thật ra ngay từ 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ở chương 4 về “Thái độ đối với các đảng đối lập” (trang 99) hai ông đã dạy những người cộng sản cách sống chung với các đảng tư sản. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, cứ tưởng sẽ tốt, có lợi cho Đảng cầm quyền, bởi vì không sợ ai tranh giành với mình. Nhưng theo bài học rất sơ đẳng thì chính đó lại là tự giết mình. Đó là bài học từ sự sụp đổ của các Đảng Cộng sản Liên Xô, Đông Âu. Bởi vì độc quyền thì sinh ra quan liêu, quan liêu sinh tham nhũng, tham nhũng lũng đoạn mọi mặt sẽ làm bại hoại mục ruỗng cả Đảng và cả dân tộc. Chấp nhận đa nguyên đa đảng là học bài học trường tồn một cách đường đường chính chính của các Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển, Na Uy, Đức… Nguyên ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An trong bài nói ngày 7-12-2010 trên Tuần Việt Nam, cho rằng tình trạng suy thoái của Đảng như hiện nay, “không phải là do bị diễn biến hòa bình… Chính những đảng viên cộng sản chân chính, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức cách mạng, cũng không muốn bảo vệ sự độc quyền của một Đảng biến chất, thoái hóa, tham nhũng. Đảng đã thành vua tập thể”. Ông vua phong kiến thì chẳng sao, dù cho ông ta có 3000 cung nữ, dù cho đất đai cả nước là của vua. Nhưng Đảng thì lại khác, bởi Đảng phải nói và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là nhân dân, vì dân là chủ”. Và người dân luôn luôn so sánh lời nói với việc làm của đảng viên có đi đôi hay không.

TẠI SAO VI PHẠM 19 ĐIỀU CẤM THEO QUYẾT ĐỊNH 47/QĐ/TW?

Mấy mươi năm trước đảng viên chỉ thực hịên Điều lệ, Nghị quyết Đảng và pháp luật mà nói chung rất tốt. Hơn 10 năm qua có thêm quy định các điều cấm không được làm, nhưng tình hình cứ xấu đi. Quyết định 47/ QĐ/TW ghi là “Căn cứ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam”. Nhưng Hiến pháp Việt Nam có ghi các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội, biểu tình thì Quyết định 47/QĐ/TW ở Điều 6 cấm “biểu tình tập trung đông người gây mất an ninh trật tự”. Quy định này không rõ, bao nhiêu người thì gọi là đông người, và nếu đông người mà không gây mất trật tự thì có được phép hay không? Như trên tôi đã kể, chúng tôi mới trên đường đi thì đã bị vây bắt rồi, làm gì đã gây ra mất an ninh!

Và nói trái nghị quyết cũng là một khái niệm rất khó xác định. Mọi đảng viên đều phải bình đẳng, vậy Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói ở Vĩnh Phú, phê phán các đảng viên đi biểu tình phản đối Trung Quốc là suy thoái chính trị có đúng Nghị quyết Đảng và Hiến pháp không? Ông nói “hết thế kỷ này cũng chưa chắc có chủ nghĩa xã hội” có đúng Nghị quyết không? Ông nói Hồ Chủ tịch viết trong Di chúc “Đảng ta là Đảng cầm quyền là hơi hẹp, đúng ra phải nói Đảng ta là Đảng lãnh đạo” có đúng nghị quyết không? Có xúc phạm lãnh tụ không?

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nhiều phát biểu rất đúng, nhưng tôi e rằng nếu là người khác nói thì rất có thể sẽ bị quy là trái Nghị quyết. Ví như ông lên tiếng giữa Quốc hội đòi Hoàng Sa, phê phán Trung Quốc ở Shangri-la làm cho họ cáu giận, và Thông điệp đầu năm 2014 của ông đưa ra nhiều khái niệm đúng đắn về dân chủ giống như của phương Tây mà các Nghị quyết của Đảng đều chưa hề ghi nhận. Chẳng lẽ trong Đảng không có bình đẳng về phát ngôn? Cấp trên muốn nói gì cũng được còn cấp dưới thì không?

Tôi cho rằng Quyết định 47/QĐ/TW hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rổi kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”, “Nghị quyết gì mà người dân nói là không đúng thì để họ để nghị sửa lại”, “Quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do phục tùng chân lý” và “Dân chủ là người dân được mở mồm ra nói”. Chẳng lẽ đảng viên cũng là công dân lại không được mở mồm như người dân? Cách quy định những điều cấm như thế qua hơn 10 năm đã chứng tỏ nó không làm Đảng mạnh và tốt lên, trái lại, bêu riếu sự lạc hậu trong thời đại bùng nổ thông tin. Thời đại ngày nay các đảng chính trị đều thực hiện dân chủ nội bộ và thực hiện công khai minh bạch không chỉ trong nội bộ mà trước toàn dân. Chỉ có như vậy mới không tái diễn chuyện “khoán chui” và “xé rào”. Tuy vậy, tôi cũng đã nhiều lần định không đưa bài góp ý lên mạng mà chỉ gửi cho Đảng và các báo, các mạng của Đảng, nhưng các báo đều không đăng, Đảng thì không bao giờ hồi âm!

Thưa các đồng chí, nhiều khi tôi quá bức xúc, đau lòng, cảm thấy dường như Đảng ngày nay không phải là Đảng mà ngày xưa mà tôi giơ tay thề hi sinh đến giọt máu cuối cùng vì Đảng ấy “không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó làm trọn nhiệm vụ giải phóng dân tộc làm cho Tổ quốc giàu mạnh đồng bào sung sướng.” Hình như có những kẻ muốn biến Đảng thành công cụ của các “nhóm lợi ích” giúp họ giữ ghế và làm giàu! Là một nhà báo có 35 năm theo dõi phong trào công nhân lao động, cho nên bức xúc nhất của tôi là nhìn thân phận khốn cùng của giai cấp công nhân hôm nay. Tôi vô cùng bức xúc khi cảm nhận rằng hai giai cấp lớn nhất, có công đóng góp lớn nhất cho thắng lợi của cách mạng và kháng chiến là công nhân và nông dân đã bị phản bội bằng nhiều chính sách quá bất công đối với họ.

Có lẽ bản kiểm điểm của tôi không đáp ứng được yêu cầu của các đồng chí chỉ đạo cuộc kiểm điểm. Nhưng biết làm sao, khi đó là nhận thức thành thật của tôi, một đảng viên sau hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, ngoài 80 tuổi còn ký kết hợp đồng viết bài cho báo Lao Động và lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy thoái của Đảng, lại là kẻ suy thoái chính trị ư? Không! Tôi cho rằng chính những người bảo thủ, giáo điều, không sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh hùng, trở thành một Đảng suy thoái tham nhũng, họ mới chính là kẻ suy thoái chính trị. Do đó, tôi không nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên gọi là suy thoái tư tưởng chính trị. Nhưng tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì như vậy, tôi sẽ được yên lòng rằng, Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó từ ngày mai tôi sẽ không còn quá băn khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn bức xúc cứ muốn viết bài góp ý, xây dựng Đảng.

Ngày 22 - 2-2014

Tống Văn Công
Tác giả gửi trực tiếp cho: Bauxite Việt Nam


..........

Sức ép điều tra nguồn gốc tài sản cán bộ


Nam Nguyên, phóng viên RFA 2014-02-26

nhacanbo-305.jpg
Dinh thự của nguyên Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền
Photo courtesy of motthegioi.vn


Vụ báo chí phanh phui một số tài sản lớn của nguyên Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền gây sôi nổi dư luận và đang có nhiều ý kiến là cần làm rõ nguồn gốc những tài sản đó.
Các nhân vật cộm cán cỡ Ủy viên Trung ương Đảng khi về hưu thường là hạ cánh an toàn. Nhưng trường hợp ông Trần Văn Truyền nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ thì không êm ả như thế. Báo chí cả lề phải lẫn mạng xã hội gần đây đưa nhiều bài kèm hình ảnh về tòa biệt thự nguy nga của ông ở Thành phố Bến Tre. Bên cạnh đó còn có bảng liệt kê các nhà đất khác của ông ở TP.HCM. Ông Trần Văn Truyền phản ứng một cách khá chừng mực nếu không gọi là yếu ớt.
Về sự kiện nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền bị đàm tiếu về sự giàu có không tương xứng với đồng lương cán bộ trước khi về hưu, Luật sư Trần Đinh Triển ở Hà Nội nhận định:
“Vừa qua các phương tiện thông tin đại chúng đưa lên thông tin như vậy…chúng ta phải căn cứ vào đó như một nguồn thông tin và thông tin đó chính xác hay chưa chính xác thì cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước phải được tiến hành xác minh điều tra làm rõ, xem rằng nó có khối tài sản như vậy không, thật hay giả nguồn gốc từ đâu ra. Yêu cầu ông Truyền với tư cách là một đảng viên, nguyên là một cán bộ Tổng thanh Tra Nhà nước phải giải trình trước Đảng, trước Nhà nước và nhân dân về khối tài sản đó; yêu cầu ông Truyền nếu không giải thích được và nếu giải thích được nguồn đó từ tham nhũng và vi phạm pháp luật, thì cũng phải xử lý theo qui định của pháp luật. Tôi cho rằng có làm như vậy thì mới đem lại niềm tin yêu của người dân.”
Để cho có dân chủ thì phải có nhiều đảng cạnh tranh với nhau. Chỉ có một đảng thì tôi nghĩ rằng tất cả những điều gọi là dân chủ chỉ là dân chủ giả hiệu mà thôi.
- TS Nguyễn Quang A
Tham nhũng ở Việt Nam được nhìn nhận như một vấn nạn quốc gia, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từng báo động về điều gọi là “Nồi canh có quá nhiều sâu” hoặc “một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất.” Mặc dù chống tham nhũng là một câu chuyện dài và được cho là phải hình thành từ thể chế kinh tế chính trị áp dụng sự công khai minh bạch, pháp luật nghiêm minh, giám sát hiệu quả. Một chuỗi điều kiện khó hiện thực trong một chế độ một đảng độc quyền cai trị, Đảng chỉ đạo tất cả từ Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ.
TS Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam nhận định:
“Để cho có dân chủ thì phải có nhiều đảng cạnh tranh với nhau. Chỉ có một đảng thì tôi nghĩ rằng tất cả những điều gọi là dân chủ chỉ là dân chủ giả hiệu mà thôi.”
Trong thực trạng hiện nay ở Việt Nam, cuộc chiến chống tham nhũng được mô tả như để cứu vãn chế độ, khôi phục  niềm tin của nhân dân. LS Trần Đình Triển nhận định:
“Nếu chúng ta không đấu tranh chống tham nhũng triệt để thì để cán bộ nhà nước, những người có chức có quyền vẫn lợi dụng vào việc vơ vét tài sản của nhà nước của nhân dân, làm giàu cho bản thân mình. Trong khi đó ở các vùng sâu vùng xa, nhiều người dân khác, đặc biệt là người làm công ăn lương đang rơi vào tình cảnh kinh tế hết sức khó khăn là điều không thể chấp nhận được.”
Trong một lần trả lời chúng tôi, chuyên gia kinh tế độc lập TS Lê Đăng Doanh ở Hà Nội ghi nhận một nỗ lực phòng chống tham nhũng của giới lãnh đạo Đảng.
“Hiện nay về phía Đảng, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nỗ lực thúc đẩy chống tham nhũng bằng các biện pháp như yêu cầu phải kê khai tài sản và có chỉ thị yêu cầu phải công khai việc kê khai đó ra ở mức độ cao hơn so với trước đây. Ông Tổng Bí thư cũng sử dụng Ban Nội chính để thúc đẩy quá trình điều tra chống tham nhũng và đưa ra một số vụ án trong thời gian vừa qua như Vinalines với Dương Chí Dũng và em là Dương Tự Trọng.”
danlambao-250.jpg
Căn nhà sàn bằng gỗ quý của một cán bộ cao cấp phía bắc. Photo courtesy of danlambao.com
LS Trần Đình Triển nói với chúng tôi, việc yêu cầu các đảng viên, cán bộ công chức phải đi đầu trong việc kê khai tài sản, theo ông là một giải pháp đúng. Nhưng để thực hiện được giải pháp đó thì gặp rất nhiều trở ngại, vì thứ nhất khi người ta tham nhũng người ta có thể che dấu tài sản đó dưới nhiều dạng khác nhau. Ví dụ bất động sản người ta đứng tên dưới dạng con cháu họ hàng. Thứ hai nữa người ta có thể rửa tiền thông qua các cổ phần trong doanh nghiệp hay thậm chí gởi tiền ở nước ngoài hay đóng cổ phần mua bảo hiểm ..v..v..
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nỗ lực thúc đẩy chống tham nhũng bằng các biện pháp như yêu cầu phải kê khai tài sản và có chỉ thị yêu cầu phải công khai việc kê khai đó ra ở mức độ cao hơn so với trước đây.
- TS Lê Đăng Doanh
LS Trần Đình Triển nhấn mạnh đến việc phải có những quyết sách cụ thể :
‘Thí dụ, bây giờ có thể trên một phương diện nào đó nếu Luật Đất đai qui định và văn bản hướng dẫn ban hành, nếu đất đai đứng tên ai thì người đó là quyền sở hữu và phải được kê khai, sau đó làm cuộc tổng kiểm tra trên toàn quốc để xem rằng đất đai, nhất là trong vùng đô thị đứng tên ai và người đó có khả năng có tài sản hay không ..v..v.. rất là nhiều giải pháp. Thậm chí hệ thống ngân hàng hay tài khoản của các quan chức ở nước ngoài, nếu chúng ta hợp tác với Interpol hay các tổ chức phòng chống rửa tiền của Quốc tế và các ngân hàng nước bạn mang tính quốc tế để làm rõ việc đó ra. Mỗi việc như vậy cần phải đưa ra giải pháp cụ thể còn lời phát biểu của Tổng Bí thư hay đường lối mang tính sách lược, còn đi vào cụ thể thì phải có thiết kế cụ thể, với những tác động cụ thể và giải pháp cụ thể thì mới đưa lại hiệu quả.”
Theo các chuyên gia, Việt Nam cần một sự cải cách thể chế có thực chất thì mới có thể giảm thiểu quốc nạn tham nhũng. Năm 2006 khi nhậm chức Thủ tướng nhiệm kỳ đầu, ông Nguyễn Tấn Dũng đã khảng khái nói rằng sẽ từ chức nếu không chống được tham nhũng. Tình trạng hiện nay không đổi khác mà còn có phần tệ hại hơn. Theo đánh giá của Tổ chức minh bạch Quốc tế năm 2013 Việt Nam bị xếp hạng 116/177 quốc gia về chỉ số cảm nhận tham nhũng.
Câu chuyện về ông Trần Văn Truyền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ với biệt thự lớn như lâu đài, có thể chỉ là những nét chấm phá trong toàn cảnh bức tranh quyền lực và tham nhũng tại Việt Nam.

Copy từ: RFA


Tin, bài liên quan

.............

Ông Truyền nuôi vịt


Cánh Cò, viết từ Việt Nam 2014-02-26
000_Par7803849-600.jpg
Du khách đến tham quan dinh thự của cựu Tổng thống Ukraina Viktor Yanukovych, gần Kiev hôm 24/2/2014
AFP photo
Cựu Tổng thống Viktor Yanukovych có lẽ khó ngờ được ngày hôm nay lại trở thành kẻ đào tẩu, khi trước đây chỉ vài tuần vẫn còn nghĩ rằng chiếc ghế tổng thống của ông đáng ra phải nạm vàng thay vì chỉ bọc nhung nằm trong dinh tiếp khách.
Đâu đó trong một ngôi nhà tồi tàn tạm trú trên đường chạy trốn, tay vặn vòi nước làm bằng inox lạnh lẽo ông Viktor Yanukovych làm sao quên chỉ vài ngày trước thôi ông còn vặn vòi nước bằng vàng ròng trong nhà, cũng như thưởng thức những thứ xa hoa khác mà một đời tổng thống ông “dành dụm” được, để giờ đây bị người khác sung công mặc dù họ trầm trồ thán phục. Và sự trầm trồ có thật ấy đi liền với lời kết án nặng nề mà bất cứ nhà độc tài nào cũng phải nhận lãnh khi quyền lực bị nhân dân đạp đổ.
Sở thích chung của tất cả các nhà độc tài kim cổ là ao ước sống trong một cung điện càng nguy nga càng thích thú. Sự xa hoa ấy vô giới hạn tùy vào trí tượng của họ hay các tay cố vấn cộng với số tài sản ăn cắp từ người dân nhiều lên tới mức nào. Càng ao ước xa hoa, càng phải tìm thêm nguồn tiền để tích lũy. Tiền tích lũy càng cao lòng oán hận của người dân càng nặng. Cuối cùng thì cái vòng tròn ấy luôn luôn kết thúc bằng thảm kịch của kẻ ham mê quyền lực và nhiều khi cái chết của cả gia đình tùy vào sự bóc lột dân chúng của đương sự tàn nhẫn đến đâu.
Những đồng tiền dính đầy máu tự nó có tiếng rên xiết dù đã biến thành vàng, thành những chiếc xe hơi đắt giá hay thành những chiếc du thuyền cực kỳ chói sáng. Với số lương 100 ngàn USD một năm, không biết trong khi Viktor Yanukovych cầm quyền báo chí của Ukraine có bài viết nào ca tụng sự thanh liêm của ông như người ta thường thấy trong thể giới độc tài toàn trị hay không, nhưng theo truyển thông quốc tế thì sau khi ông bỏ chạy người dân phát hiện hàng đống giấy tờ trôi sông gần dinh thự của ông ta cho thấy những khoản tiền chi thu bất chính cùng một tấm chi phiếu 12 triệu đô la chưa kịp rút ra. Số tiền này có thể được ký từ những nhóm lợi ích của Ukraine, những tỷ phú khuynh loát nước này từ khi tổng thống Viktor Yanukovych cầm quyền.
Ông Viktor Yanukovych tuy ở Ukraine xa xôi nhưng hoàn toàn có thể yên tâm rằng ông không phải là kẻ cô đơn, ít nhất tại đất nước mà ông đã từng có cơ hội trông thấy vào năm 2011, và cũng ít nhất đang có một người giống ông, bị báo chí lật qua lật lại để tìm hiểu xem tại sao lại có người lương thì ít mà bổng thì nhiều đến nỗi xây hẳn một biệt dinh xa hoa tuy không bằng dinh thự của Viktor Yanukovych nhưng cũng có thể làm cho cả đất nước Việt Nam mắt chữ O mồm chữ A.
Người ấy là một bao công của “thời đại Hồ Chí Minh”, cựu Ủy viên Trung ương Đảng, cựu Tổng thanh tra Chính phủ: ông Trần Văn Truyền.
Cách đây 3 năm, ngày 2 tháng Hai năm 2011 tờ Thời báo kinh tế Việt Nam có bài phỏng vấn ông Tồng thanh tra Chính phủ này với nội dung xoay quanh những khó khăn mà ở cương vị Tổng thanh tra ông gặp phải đó là vấn đề đút lót, cả nể, hay cơ chế khó khăn mà ông gặp trong khi nhận chức vụ này.
Trong câu mở đầu người phóng viên đã viết “Ở cương vị phải giữ mình đến mức gần như là “ép xác”, gương mặt lúc nào cũng phảng phất buồn, Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền bộc bạch dù thế nào, ông vẫn là con người bằng xương bằng thịt chứ đâu phải là gỗ đá”.
Cứ thế bài báo dẫn người đọc một mạch xông vào những ngóc nghách mà một thanh tra chính phủ phải đối đầu, phải tự hành xác mình để tranh đấu trước những cám dỗ khó quay lưng. “ép xác” và “phảng phất buồn” là hai cụm từ miêu tả được chân dung của ông Truyền: một đại tài tử chuyên đóng phim khoa học viễn tưởng.
Ngày 21 tháng 2 năm 2014 ba năm sau khi bài tụng ca ông Truyền xuất hiện, báo Người Cao Tuổi đưa hình ảnh và chi tiết về tài sản ông Tổng thanh tra làm người đọc ngẩn ngơ. Tuy không phải là bom tấn nhưng không thua gì mìn tự tạo của các tay đánh bom tự sát Al Qaeda.
Sức công phá của nó tuy gói gọn trong phạm vi một thanh tra chính phủ nhưng có sức chấn động âm ỉ và câu hỏi về tính minh bạch của đảng cộng sản một lần nữa được đặt lên bàn cân. Sở dĩ dư luận cân cái gọi là minh bạch ấy vì nhiểu lý do, mà lý do lớn nhất là trong cương vị một thanh tra, đại diện cho cả chính phủ, với đồng lương không thể mua nổi một chiếc xe hơi đời mới sau khi về hưu nhưng lại tậu được dinh cơ hàng trăm tỷ bạc với kiến trúc nội thất xa hoa trên cái nền đất vẫn còn nghi vấn do tham ô cấp tỉnh mới có được. Bài báo chi tiết đến chiếc giường hàng chục tỷ của ông Truyền cùng những căn nhà vệ tinh khắp nơi đã khiến báo chí nhảy vào cuộc.
Dù muốn hay không ông Truyển cũng phải trả lời về những cáo buộc ấy. Và ông trả lời như không trả lời gì cả: “báo Người Cao Tuổi nói quá lời”.
Ơ hay, báo này đã cao tuổi và vì vậy phải biết hậu quả nếu quá lời đối với một Thanh tra chính phủ dù đã về hưu thì hậu quả sẽ như thế nào chứ? Ông Truyền không phải là Chủ tịch nước, hay Thủ tướng hoặc Tổng bí thư nên cơ ngơi của ông không thể sánh với tổng thống Ukraine. Tuy nhiên tính toán trên cơ sở lương tiền và tất cả bổng lộc công khai hợp pháp của ông thì cả trăm năm sau cũng không thể làm chủ một biệt dinh cùng hàng chục căn nhà khắp nơi như thế.
Hết Phó Chủ tịch tỉnh Bến Tre nơi ông có căn biệt dinh ấy cho tới con gái ông nói về nguồn tiền mà ông có do người em kết nghĩa hảo tâm nào đó biếu tặng. Cán bộ dưới quyền ông tại Bến Tre đang hết lòng trả ơn do ông “tha” không “trảm” họ trong quá khứ. Đó là luật chơi của thế giới cộng sản và luật này luôn luôn thắng bởi không có một bên thứ ba nào chứng minh sự thật ấy có tồn tại hay không.
Con gái ông nói ông có người em kết nghĩa cho tiền để cất nhà vì thấy ông quá nghèo. Phát biểu này chấp nhận được vì ai thấy nghèo mà không thương? Cho tiền ông cất nhà là biểu hiện cái tình thương ấy mà thôi. Nhưng quan trọng là cái sự thương ấy có khác với cái thương của ông cán bộ Bến Tre hay không. Người em kết nghĩa “thương” đột xuất này làm gì đủ giàu để có thể cho ông Truyền cả một biệt dinh như vậy và cái giàu ấy có liên quan gì đến chức năng của một ông Tổng thanh tra Chính phủ đối với mối thân tình được gọi là kết nghĩa hay không?
Là một Tổng thanh tra Chính phủ trong hoàn cảnh đất đai bị cướp bóc mọi nơi nhưng ông Truyền không điều tra ra được một vụ án tham nhũng đất đai tầm cỡ nào và vì vậy dân oan không ai đem biếu cho ông dù chỉ một bó hoa để cám ơn. Thế nhưng rất nhiều người không phải là nông dân nhưng đất đai không tính hết đã biếu hoa cho ông. Những bó hoa được quy ra tiền. Và quy rất “chênh lệch”.
Có lẽ những đồng tiền chênh lệch ấy là những viên gạch xây biệt dinh cho ông Truyền chăng? hay ông còn làm thêm nghề gì khác ngoài Tổng thanh tra?
Có anh phóng viên ghi rằng mọi sự chú ý quá mức vào cái giàu của Ông Truyền là không công bằng. Nhà báo nhận xét: “Người viết bài này đã có dịp rong ruổi từ Nam chí Bắc, chiêm ngưỡng những dinh thự hoành tráng gấp nhiều lần căn biệt thự của ông Truyền, ngắm những chiếc siêu xe vài triệu USD mà đôi khi chủ nhân chỉ là một chủ đầm tôm hay một “trùm nuôi vịt” xuất sắc".
Thật là một so sánh tinh vi và không kém phần hài hước. Ông Truyền không nuôi tôm nhưng ông đích thị là một trùm nuôi vịt xuất sắc: ông nuôi… vịt trời để khi có ai hỏi thì ông nói vịt đã bay về nơi vô định.
Biệt dinh của ông Truyền rồi sẽ chỉ là một câu chuyện sớm trở thành cổ tích như nhiều câu chuyện tương tự trước đây. Vụ việc của ông Truyền không may nổ ra cùng lúc với sự việc Tổng thống Ukraine bị lật đổ. Báo chí lấy ông Truyền làm cái cớ để cảnh báo với những người khác cao hơn ông về chức vụ, giàu hơn ông về tài sản, và chắc chắn là tội ác cũng cao hơn ông về mức độ hành hạ dân chúng.
Chỉ mong sáng mai sau khi thức dậy không thấy báo chí quốc tế đưa hình ảnh ông cựu Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền quỳ gối trước dân oan như cảnh sát Ukraine quỳ gối xin lỗi trước người dân nước họ.
Mọi cái quỳ gối muộn màng đều có kết quả bi đát.
Cánh Cò, Việt Nam 26-02-2014

Coopy từ: Cánh Cò (RFA’ blog)

..............