Cùi Các
Qua
trang blog Dân làm báo,
được
biết gia đình bà
Bùi Thị Minh Hằng đã gửi đơn tới Văn
phòng Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc để
khiếu
nại chính phủ Việt Nam đã có hành động vi phạm "Hiệp
Ước Quốc Tế Về Việc Chống Cưỡng Chế Mất Tích"
khi
bắt giam bà Hằng.
Sau
khi xem qua nội dung này, tôi xin có vài ý với gia đình bà
Bùi Thị Minh Hằng như sau:
1.
Bất kỳ một cá nhân nào cũng đều có thể sử dụng
đến cơ chế bảo vệ nhân quyền của Liên Hiệp Quốc
để bảo vệ nhân quyền, bao gồm: Cơ chế dựa trên Hiến
chương (là cơ cấu tổ chức và thủ tục hoạt động
của các cơ quan chính của Liên hợp Quốc trong việc bảo
vệ và thúc đẩy nhân quyền), và Cơ chế dựa trên Công
ước (là cơ cấu tổ chức và thủ tục hoạt động của
các Ủy ban giám sát Công ước thực hiện một số công
ước quốc tế về bảo vệ nhân quyền). Tùy vào vụ việc vi phạm
nhân quyền và sự tham gia của các quốc gia mà mỗi công
dân bị phạm nhân quyền ở quốc gia đó lựa chọn cho mình cơ
chế bảo vệ nhân quyền sao cho phù hợp.
Qua
nội dung được cung cấp từ gia đình bà Bùi Thị Minh Hằng, cho rằng bà Hằng bị "mất tích", rồi gửi
khiếu nại cho Cao ủy nhân quyền, và ủy thác cho Ủy ban chống cưỡng bức
mất tích xem xét cho trường hợp của của Hằng, bằng cách nêu lên “Công ước
về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức
mất tích” (The
International
Convention for the Protection of All Persons from Enforced
Disappearance, ICCPED)
,
và cáo buộc chính
phủ
Việt nam vi phạm Công ước này ra trước Liên Hiệp Quốc.
Trước
tiên, cần xác nhận lại rằng Việt Nam chưa tham gia Công
ước ICCPED, nên việc gia đình bà Hằng sử dụng đến
Công ước ICCPED để khiếu tố nhà nước Việt Nam vi
phạm Công ước này là không phù hợp.
Giả
sử trong tương lai Việt Nam có là thành viên của Công
ước ICCPED thì vẫn chưa đủ cơ sở để Ủy ban chống cưỡng bức mất tích xem xét và giải quyết khiếu tố của cá nhân. Để
đươc Ủy ban giám sát Công ước tiếp nhận khiếu tố
cá nhân thì phải có 2 điều kiện là: quốc gia đó phải
là thành viên của Công ước, và quốc gia đó đã công
nhận thẩm quyền Ủy ban giám sát công ước trong việc
tiếp nhận và giải quyết khiếu tố cá nhân.
Thông
thường các quốc gia công nhận thẩm quyền của Ủy ban
giám sát Công ước bằng cách Tuyên bố chấp thuận, hoặc
gia nhập hay phê chuẩn Nghị định thư bổ sung (trong đó
thừa nhận thẩm quyền giải quyết khiếu tố của Ủy
ban giám sát), tùy vào mỗi Công ước khác nhau.
Cần
lưu ý rằng, Việt Nam đã tham gia 7 trên 9 Công ước cơ
bản về nhân quyền, nhưng hiện nay Việt Nam chỉ phê
chuẩn duy nhất hai Nghị định thư bổ sung cho Công ước
Quyền trẻ em (trong đó công nhận thẩm quyền của Ủy
ban giám sát Công ước Quyền trẻ em). Cho nên, đối với
công dân Việt Nam, hiện nay chỉ có thể khiếu tố các
vi phạm nhân quyền liên quan đến trẻ em lên Ủy ban giám
sát Công ước Quyền trẻ em, ngoài ra không thể khiếu tố
lên các Ủy ban giám sát Công ước khác mà Việt nam đã
là thành viên, theo Cơ chế bảo vệ nhân quyền dựa trên
Công ước.
Qua
đây cũng xin bổ sung thêm tình hình công nhận thẩm quyền
của các Ủy ban giám sát Công ước. Qua hai lần Kiểm
điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền, rất nhiều
quốc qua khuyến nghị Việt Nam cần tham gia Nghị định
thư bổ sung thứ nhất của Công ước về các quyền Dân
sự và chính trị (ICCPR), để qua đó Công nhận thẩm
quyền cho Ủy ban giám sát ICCPR (được gọi là Ủy ban
Nhân quyền), để tạo điều kiện cho công dân Việt nam
khiếu tố lên Ủy ban này khi bị vi phạm về các quyền
dân sự và chính trị. Nhưng nhà nước Việt Nam luôn bác
bỏ khuyến nghị này, với lý do được đưa ra là công
dân Việt Nam có thể áp dụng đến “quyền tài phán
quốc gia”, tức là công dân Việt Nam khi bị vi phạm
nhân quyền có thể gửi đơn khiếu tố đến các
cơ quan hành chính và tư pháp ở
Việt Nam để
xem xét và giải quyết vụ việc.
Về
nguyên tắc, quyền tài phán có thể áp dụng hiệu quả ở
các quốc gia có hệ thống tư pháp độc lập. Nhưng ở
Việt Nam, với nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu vắng
nền tư pháp độc lập thì công dân Việt Nam không thể
sử
dụng đến cơ
chế
pháp luật quốc gia để
bảo vệ hữu hiệu nhân
quyền của mình
khi
bị vi phạm.
2.
Qua đó cho thấy, không chỉ riêng trường hợp của bà
Bùi Thị Minh Hằng, mà là công dân Việt Nam khi muốn
được vụ việc bị xâm phạm nhân quyền của mình ra
trước Liên Hiệp Quốc thì ít khi áp dụng được Cơ chế
bảo vệ nhân quyền dựa trên Công ước. Nhưng bù lại,
có thể sử dụng hiệu quả Cơ chế dựa trên
Hiến chương Liên Hiệp Quốc để bảo vệ nhân quyền
khi bị xâm hại.
Đối
với Cơ chế dựa trên Hiến chương Liên Hiệp Quốc thì
bất kỳ ai cũng có thể gửi các khiếu tố về vi phạm
nhân quyền theo “thủ tục đặc biệt” (là các chuyên
gia có nhiệm vụ theo dõi, nhận và xem xét các khiếu tố
nhân quyền, đưa ra ý kiến tư vấn, báo cáo công khai về
tình hình nhân quyền trong từng lãnh vực, hoặc tại một
số nước cụ thể). Đây là cách thức nhanh chóng cho
việc nộp các khiếu tố cá nhân bị vi phạm nhân quyền, phương thức này khá hữu hiệu để có được sự can
thiệp trực tiếp của Liên Hiệp Quốc vào các vụ việc
đơn lẻ.
Đơn
khiếu tố theo Thủ tục đặc biệt này có thể gửi đến
Nhóm công tác (working group) hoặc Báo cáo viên đặc biệt
(special rapporteur), hay Chuyên gia độc lập (independent
expert),
tùy vào nhân quyền bị vi phạm.
Trong
trường hợp cụ thể của bà Bùi Thị Minh Hằng, thì gia
đình bà gửi đơn khiếu nại đến Cao ủy Nhân quyền
Liên Hiệp Quốc là chưa chính xác, mà gia đình bà Hằng
cần gửi đến Nhóm Công tác hoặc Báo Cáo viên đặc
biệt thuộc Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Cũng
cần nói thêm là đối với trường hơp của bà Hằng thì
không được xem là “cưỡng bức
mất tích”, nên không thể gửi đơn khiếu tố đến
“Nhóm
Công tác về Cưỡng bức mất
tích” được. Vì
theo như Điều 2 của Công ước ICCPED
thì
"cưỡng
bức mất tích" được coi là việc bắt giữ, tạm
giam, bắt cóc hoặc bất cứ hình thức tước đoạt quyền
tự do được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước hoặc
của người hoặc nhóm người được ủy quyền, hỗ trợ
hoặc hẫu thuẫn của Nhà
nước, được đi cùng với một sự khước từ nhận
biết về việc tước đoạt tự do hoặc bởi việc che
giấu số phận hoặc nơi cư trú của người mất tích, ở
nơi như vậy một người nằm ngoài sự bảo vệ của
pháp luật."
Như
vậy để được xem là “cưỡng mất mất tích” thì
phải có hai yếu tố: thứ nhất việc bắt
giữ, tạm giam, bắt cóc hoặc bất cứ hình thức tước
đoạt quyền tự do được thực hiện bởi các cơ quan
nhà nước, hoặc của người hoặc nhóm người được ủy
quyền, hỗ trợ hoặc hẫu thuẫn của Nhà nước và
thứ hai là cơ quan nhà nước chối
bỏ,
khước từ nhận biết vụ việc, hoặc
che giấu cho việc
bắt giữ, tạm giam, bắt cóc
hoặc
tướt đoạt tự do này.
Vụ
việc bắt giữ và tạm giam bà Hằng đã được Cơ quan cảnh sát Điều
tra Công an huyện Lấp Vò xác nhận bằng Thông báo bắt giữ và lệnh tạm giam, và được giám đốc Công an Đồng Tháp thừa nhận trên truyền hình. Họ đã không che giấu hay chối
bỏ
cho
việc đã
bắt giam bà Hằng, mà
họ đã nhận lãnh trách nhiệm cho vụ bắt giam này.
Trong trường hợp công an Đồng Tháp không Thông báo cho
gia đình biết về nơi giam giữ, dù
đã quá thời hạn giam giữ, nhưng bà Hằng vẫn chưa được thả, cũng như chưa có quyết
định truy tố...
thì họ đã
vi phạm về việc giam giữ tùy tiện.
3.
Nhóm Công tác về Giam giữ tùy tiện (Working Group
on Arbitrary Detention, cơ quan được thiết lập theo nghị
quyết 1991/42 của Hội đồng Nhân quyền), có thể nhận
khiếu nại từ gia đình của bà Hằng. Tuy nhiên, vì
bà Hằng chưa được
tòa án
xét xử và chưa bị
nhận bản án tù, nên
trường hợp của bà sẽ
không gây chú ý nhiều cho
Nhóm công tác về việc giam giữ tùy tiện.
Để
trường hợp bà Hằng được giải
quyết
kịp
thời, và
quan tâm đặc biệt
thì gia đình bà Hằng chỉ cần gửi gửi khiếu tố đến
“Báo cáo viên đặc biệt về tình trạng của Người
bảo vệ nhân quyền”, vì bà Hằng là người được
biết đến với nhiều hoạt động đấu tranh và phổ
biến cho
nhân
quyền, và bà đang bị “hình sự hóa” cho các hoạt
động nhân quyền của mình. “Báo cáo viên đặc biệt
về tình trạng của Người bảo vệ nhân quyền” sau
khi nhận đơn sẽ xem
xét, kiểm
tra thông tin cung cấp, khi
biết
bà Hằng là Phụ nữ, bị
tra tấn, tình trạng giam giữ tồi tệ, đang
trong tình trạng tuyệt thực...
thì vị Báo cáo viên này sẽ
nhanh chóng tiến
hành xử lý khiếu tố bằng cách phối hợp cùng các Báo
cáo
viên và Nhóm Công tác khác như có
liên quan về phụ nữ, về tra tấn, giam giữ tùy tiện...và sẽ tập trung vào
cuộc với “sự
ưu
tiên” dành
cho
những người tuyến đầu đang bảo vệ nhân quyền, và
đang
trong tình trạng nguy
hiểm.
Một
lợi thế cho
bà Hằng,
khi Báo
cáo viên đặc biệt về tình trạng của Người bảo vệ
nhân quyền đương
nhiệm hiện nay cũng
là phụ nữ, bà
là
Margaret Sekaggya
người Uganda. Để
liên lạc riêng tư với Bà: số điện thoại di động:
256-772-788821. E-mail
cá nhân: msekaggya@yahoo.com
hoặc msekaggya@uhrc.ug.
4.
Nội dung đơn khiếu tố cần có thông tin cá nhân về bà
Hằng; các hoạt động nhân quyền; thông
tin vụ việc bà bị đánh đập, bắt giữ và tình trạng
giam giữ hiện nay; người đã
vi
phạm nhân quyền đối với bà (nếu không xác định được
danh tính cá nhân, thì cần nêu tên cơ quan và người
đứng đầu cơ quan đó); mối liên hệ giữ việc bắt
giữ này với các hoạt động nhân
quyền
của bà
Hằng;
và cuối cùng là thông tin người gửi đơn.
Đối
với trường
hợp bà
Hằng thì trong tiêu đề của đơn cần
thêm vào chữ “cần
hành động khẩn cấp” (for urgent action). Sau đó gửi tới
e-mail
urgent-action@ohchr.org
và defenders@ohchr.org.
Cần
lưu ý là gia đình bà Hằng khi làm đơn không cần phải
phân tích luật pháp quốc gia hay luật nhân quyền quốc
tế để cáo buộc cho các hành vi vi phạm nhân
quyền của chính quyền . Trong đơn chỉ cần miêu tả lại chi
tiết một cách rõ ràng về những gì đã xảy ra, chằng
hạn như đánh đập ra sao, vào ngày giờ nào, ở đâu, có ai làm chứng, sau đó bị bắt giam như thế nào, ai ký lệnh bắt giữ,
cấp bậc chức vụ của người ký lệnh bắt.... Và cô
động nó trong tối đa 2 trang A4. Đơn phải được viết
bằng Anh ngữ.
Ngoài
ra, gia đình bà Hằng nên phối hợp với gia đình của
hai người bị bắt chung với bà Hằng là ông Nguyễn Văn
Minh và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, để cùng nhau gửi đơn
khiếu tố cho vụ việc này. Và để có được hiệu quả
cao, gia đình nên vận động và kết nối với các tổ chức Phi chính phủ
quốc tế cùng tham gia đứng tên trong Đơn khiếu tố về
trường hợp này.
Copy từ: Cùi Các’ blog
........