Dương Danh Huy và cộng sự
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
Tưởng niệm các quân nhân Việt Nam từ cả hai phía hy sinh ở Hoàng Sa - Trường Sa
Những định nghĩa pháp lý
cho các chính thể Việt trong cuộc chiến chấm dứt ngày 30/4/1975 có vai
trò quan trọng cho lập luận của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự quan trọng này không chỉ vì công hàm 1958 của
Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng, mà còn vì
Hà Nội đã không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ
năm 1954 đến 1975-1976.
Quốc gia duy trì chủ quyền
Trong phán quyết năm 2008 về tranh
chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, Tòa án Công lý
Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca.
Tòa nói công hàm 1953 của Johor, nay là một
tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền
trên đảo này, không có hệ quả pháp lý mang tính quyết định và không có
tính chất ràng buộc cho Johor.
Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor
và Malaysia không khẳng định chủ quyền và dùng công hàm 1953 của Johor
như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ
quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore.
Bài học cho Việt Nam là: bất kể ban đầu Hoàng
Sa, Trường Sa là của Việt Nam, và dù cho chúng ta có biện luận thành
công rằng công hàm của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng không có tính ràng
buộc về hai quần đảo này đi nữa, việc VNDCCH không khẳng định chủ quyền
trong hơn 20 năm, trong khi các quốc gia khác làm điều đó, có khả năng
sẽ làm cho VNDCCH không còn cơ sở để đòi chủ quyền nữa.
Vì vậy, trong lập luận pháp lý của Việt Nam phải
có sự khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này từ một chính phủ
khác, lúc đó là đại diện hợp pháp cho một quốc gia Việt nào đó.
Trên lý thuyết, nếu chứng minh được từ năm 1954
đến 1975 chỉ có một quốc gia, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là
đại diện hợp pháp duy nhất của quốc gia đó, thì điều đó cũng đủ là cơ sở
cho lập luận pháp lý của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa.
Trên thực tế, thứ nhất, chưa chắc chúng ta sẽ
chứng minh được điều đó; thứ nhì, chính phủ Việt Nam ngày nay sẽ khó
chấp nhận một chiến lược pháp lý dựa trên giả thuyết này.
Vì vậy, chiến lược khả thi hơn cho lập luận pháp
lý của Việt Nam cần dựa trên điểm then chốt là từ năm 1958 đến 1976 có
hai quốc gia khác nhau trên đất nước Việt Nam.
Phân tích này sử dụng ba khái niệm sau.
Đất nước, là một khái niệm địa lý, bao gồm một
vùng lãnh thổ với dân cư. Chính phủ, là cơ quan hành pháp và đại diện.
Quốc gia (trong bài này từ “quốc gia” được dùng với nghĩa State/État),
là một chủ thể chính trị và pháp lý.
Trong Công ước Montevideo 1933, một quốc gia
phải có lãnh thổ, dân cư, chính phủ, và khả năng có quan hệ ngoại giao
với các quốc gia khác.
Thực chất, trong công pháp quốc tế chỉ có định
nghĩa quốc gia như một chủ thể có năng lực pháp lý và năng lực hành vi
(tức là có các quyền và nghĩa vụ phát sinh trực tiếp từ luật quốc tế) và
chính phủ là thành phần của chủ thể đó, chứ không có khái niệm đất
nước.
Một lãnh thổ - hai quốc gia
Hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam thành
hai vùng tập kết quân sự. Mặc dù không chia Việt Nam thành hai quốc gia,
Hiệp định đã tạo ra một ranh giới tại vĩ tuyến 17 giữa hai chính phủ
đang tranh giành quyền lực, và ranh giới đó đã tạo điều kiện cho sự hiện
hữu của hai quốc gia.
Việc VNCH không chấp nhận thực hiện tổng tuyển cử vào năm 1956 đã làm cho ranh giới đó trở thành vô hạn định.
Một cơ sở của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa
Sự hiện hữu của hai chính phủ hai bên một ranh
giới vô hạn định ngày càng củng cố sự hình thành và hiện hữu trên thực
tế của hai quốc gia trên lãnh thổ đó.
Điều có thể gây nghi vấn về sự hiện hữu của hai quốc gia là hiến pháp của VNDCCH và VNCH có vẻ như mâu thuẫn với sự hiện hữu đó.
Tới năm 1956, Hiến Pháp VNDCCH viết “Đất nước
Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”, và
Hiến Pháp VNCH viết “Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng
của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan” và “Việt Nam là một nước
Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.”
Nhưng sự mâu thuẫn đó không có nghĩa không thể có hai quốc gia.
Hiến pháp của Bắc Triều Tiên viết Cộng Hòa Dân
Chủ Nhân Dân Triều Tiên là đại diện cho dân tộc Cao Ly, hiến pháp của
Nam Hàn viết lãnh thổ của Đại Hàn Dân Quốc là bán đảo Cao Ly và các hải
đảo, nhưng Bắc Triều Tiên và Nam Hàn vẫn là hai quốc gia.
Như vậy, có thể cho rằng từ năm 1956 hay sớm hơn
đã có hai quốc gia, trên lãnh thổ Việt Nam, với vĩ tuyến 17 là biên
giới trên thực tế giữa hai quốc gia đó.
Việc có hai quốc gia là cơ sở để cho rằng VNCH
có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa;
VNDCCH không có thẩm quyền lãnh thổ gì đối với hai quần đảo đó.
Khi Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam (CPCMLT) ra đời ngày 8/6/1969, có thể cho rằng trong quốc
gia với tên VNCH, về mặt pháp lý, có hai chính phủ cạnh tranh quyền
lực với nhau: chính phủ VNCH và CPCMLT.
Khi VNDCCH công nhận CPCMLT là đại diện hợp pháp
cho phía nam vĩ tuyến 17 thì có nghĩa VNDCCH công nhận trên diện pháp
lý rằng phía nam vĩ tuyến 17 là một quốc gia khác.
Nhưng tới năm 1969 CPCMLT mới ra đời, và cho tới
năm 1974 mới có một tuyên bố chung chung về các nước liên quan cần xem
xét vấn đề biên giới lãnh thổ trên tinh thần bình đẳng, vv, và phải giải
quyết bằng thương lượng.
Vì vậy, nếu chỉ công nhận CPCMLT thì cũng không đủ cho việc khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ thập niên 1950.
Quá trình thống nhất
Ngày 30/4/75, VNCH sụp đổ, còn lại duy nhất
CPCMLT trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17. CPCMLT đổi tên quốc gia đó
thành Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN), nhưng đó chỉ là sự thay đổi
chính phủ và đổi tên, không phải là sự ra đời của một quốc gia mới.
Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia có chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa
Năm 1976, trên diện pháp lý, hai quốc gia trên
thống nhất lại thành một, và từ đó Việt Nam lại là một quốc gia với một
chính phủ trên một đất nước (lãnh thổ).
Sự thống nhất này đã không bị Liên Hiệp Quốc hay quốc gia nào lên tiếng phản đối.
Năm 1977, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được chấp nhận tham gia Liên Hiệp Quốc.
CHXHCNVN kế thừa vai trò của hai quốc gia VNDCCH
và VNCH/CHMNVN trong các hiệp định và các tổ chức quốc tế, kế thừa lãnh
thổ và thềm lục địa của VNCH/CHMNVN trong các tranh chấp với Campuchia,
Thái Lan, Malaysia và Indonesia, và mặc nhiên có quyền kế thừa Hoàng
Sa, Trường Sa từ VNCH/CHMNVN.
Lịch sử pháp lý trên nghe có vẻ sách vở, nhưng thực tế của nó là bom đạn, xương máu, và nhiều cảnh huynh đệ tương tàn.
Mặc dù lịch sử pháp lý đó đã kết thúc bằng một
quốc gia trên đất nước (lãnh thổ) Việt Nam thống nhất, nó là một cuộc bể
dâu làm đổ nhiều xương máu.
Nhưng quá khứ thì không ai thay đổi được, và
tương lai thì không ai nên muốn đất nước Việt Nam lại bị chia đôi thành
hai quốc gia lần nữa.
Cuộc bể dâu đó cũng đã góp phần làm cho Hoàng Sa
bị Trung Quốc chiếm đóng, và để lại cho Trung Quốc một lập luận lợi
hại, rằng trước 1975 Việt Nam không tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, và đã công nhận chủ quyền Trung Quốc trên hai quần
đảo này.
Nhưng việc đã từng có hai quốc gia trên một đất
nước (lãnh thổ) Việt Nam trong giai đoạn 1956 đến 1976, và việc, vào năm
1976, hai quốc gia đó thống nhất thành một một cách hợp pháp, là một
yếu tố quan trọng trong lập luận về Hoàng Sa, Trường Sa.
Ngày nay, chính phủ Việt Nam một mặt viện dẫn
các tuyên bố và hành động chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa về Hoàng
Sa, Trường Sa, nhưng mặt kia vẫn e ngại việc công nhận cụ thể và rộng
rãi rằng Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia, mặc dù trong quá khứ
Hà Nội đã công nhận rằng Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một quốc
gia.
Việc không công nhận cụ thể và rộng rãi rằng
VNCH đã từng là một quốc gia làm giảm đi tính thuyết phục của việc viện
dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của VNCH về Hoàng Sa, Trường Sa,
vì các tuyên bố và hành động chủ quyền phải là của một quốc gia thì mới
có giá trị pháp lý.
Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần phải bỏ sự e ngại này.
Mặt khác, Việt Nam cũng cần phải hạn chế tối đa
những gì Trung Quốc có thể lợi dụng để tuyên truyền rằng CHXHCNVN ngày
nay chỉ là VNDCCH, chẳng hạn như không nên đổi tên nước thành VNDCCH.
Copy từ:
BBC