CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Kiến nghị, Kháng cáo, Đề nghị hoãn phiên tòa xét xử anh em Đoàn Văn Vươn

Kiến nghị, Kháng cáo, Đề nghị hoãn phiên tòa xét xử anh em Đoàn Văn Vươn


Của Luật sư Trần Vũ Hải, các bà Nguyễn Thị Thương, Phạm Thị Báu( Hiền)


1 2 3 4 5
.
6 7

—-

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———————————————
                                                                                                          

           ĐƠN KHÁNG CÁO BỔ SUNG


                  Kính gửi: – Toà phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao.
 -  VKSND Tối cao
Tên tôi là: Nguyễn Thị Thương, Phạm Thị Báu (Hiền).
Địa chỉ: Thuý Nẻo – Bắc Hưng – Tiên Lãng – Hải Phòng.
Là bị hại trong vụ án “Hủy hoại tài sản” mà quý Tòa xét xử tới đây.
    Cùng làm đơn kháng cáo bổ sung này gửi tới Quý toà. Kính đề nghị Quý toà xem xét lại toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 43 ngày 10/04/2013 của Toà án Hải phòng theo hướng tuyên huỷ bản án để điều tra lại vụ án vì lý do dưới đây.

                                    LÝ DO THỨ NHẤT
           Không có tang vật và vật chứng phục vụ cho việc xét xử.
Tại phiên Toà sơ thẩm hình sự ngày 10/04/2013 Toà án Hải Phòng đã không đưa những tang vật  mà các đối tượng phạm tội đã dùng nó để gây án, đồng thời những tài sản bị chiếm đoạt đưa về UBND xã Vinh Quang đều không được đưa đến Toà làm chứng cứ cho việc xét án. Vì vậy, tôi đề nghị hội đồng xét xử đưa tất cả tang chứng, vật chứng bị huỷ hoại, bị chiếm đoạt mà các đối tượng phạm tội đã hủy hoại, chiếm đoạt đến toà làm chứng cứ để phục vụ cho việc xét án.     
                                  
                                       LÝ DO THỨ HAI
     . 1-  Nguyên nhân, động cơ và hành vi phạm tội có tính chất chủ quan, được tính toán từ trước mang tính chiến lược, hành vi đó thực chất là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, hủy hoại tài sản của công dân có tổ chức, không đơn thuần là hành vi “Huỷ hoại tài sản” công dân như tên gọi của vụ án.
    a- Phần giao đất:
Vào đầu những năm 1990, để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng 6/1986 trong công cuộc đổi mới của Đảng phục vụ cho 3 chương trình lớn là: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu nhằm phá vỡ thế bế quan toả cảng của các thế lực thù địch nước ngoài nhằm bao vây, cấm vận nước ta cũng là phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác một cách toàn diện mà Đảng ta đã định hướng. Để phục vụ chiến lược này, giai đoạn đó Hội đồng Bộ trưởng nay còn gọi là Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 2 chương trình lớn là 327 và 773 (Khai hoang, vỡ hoá đất trống, đồi núi trọc, mặt nước, đất ven sông, ven biển phục vụ vào lĩnh vực nông nghiệp.)
Để cụ thể hoá hai chương trình trên, lần đầu tiên Chính phủ đã ban hành một chính sách lớn bằng Nghị định 64 ngày 27/9/1993 (với tiêu đề ban hành bản quy định về việc giao đất Nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sử dụng đất Nông nghiệp) đồng thời ngày 15/10/1993 Luật Đất đai ra đời. Tại Điều 4 Nghị định 64, Điều 20 Luật Đất đai/1993 (Quy định đất NTTS là 20 năm) và Nhà nước quy định (Khi hết thời hạn sử dụng đất nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng và trong quá trình sử dụng đất chấp hành đúng pháp luật về đất đai thì được Nhà nước giao đất đó để tiếp tục sử dụng. Nhà nước chỉ thu hồi đất phục vụ vào mục đích quốc phòng, an ninh, kinh tế do chính phủ quy định).
Tại thời điểm này, đi ngược lại với chủ trương, ®­êng lèi, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tại huyện Tiên Lãng đã ban hành quy định số 497 ngày 06/10/1993. Văn bản này ngay tại thời điểm ban hành đã bị nhân dân NTTS huyện Tiên Lãng phản đối bởi chúng tôi cho rằng đó là luật của địa phương. Vì văn bản này không phải là văn bản quy phạm pháp luật (về thể thức). Song trong nội dung của nó chứa ẩn cả một âm mưu, ý đồ chiến lược về tham nhũng đất đai sau này, có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Văn bản này đã thể hiện tại Điểm 2 phần IV, họ quy định (khi hết thời hạn sử dụng đất chủ sử dụng đất phải bàn giao lại toàn bộ mặt bằng và các công trình phục vụ sản xuất, vật liệu kiến trúc, xây dựng trong phạm vi đất được giao cho Nhà nước quản lí  và sử dụng, Nhà nước không thanh toán giá trị tài sản còn lại cho chủ sử dụng đất đã hết thời hạn). Đồng thời cũng từ văn bản này UBND huyện Tiên Lãng cho phép các cơ quan chuyên môn ban hành mang tính chất áp đặt cho hầu hết tất cả các Quyết định giao đất theo nội dung trên cho nhân dân NTTS. Vì vậy, trong  các Quyết định giao đất, nội dung họ đều ghi như nội dung Quy định số 497 mà không tuân thủ theo Nghị định 64, Điều 20 Luật Đất đai 1993 lúc bấy giờ, kể cả về mặt thời hạn giao đất.
b- Phần thu hồi đất:
Để thực hiện Quy định số 497 ngày 6/10/1993.  Ngày 01/12/2004, UBND huyện Tiên Lãng ban hành Kế hoạch số 58. Tại phần III, UBND huyện Tiên Lãng cho phép các cơ quan chuyên môn căn cứ vào khoản 10 Điều 38 Luật đất đai /2003 (thu hồi không giao lại), Điểm a Khoản 1, Điểm c Khoản 2 Điều 43 Luật đất đai/ 2003 (Thu hồi không bồi thường). Khoản 5 Điều 36 Nghị định 181/2004/CP (Thu hồi giao về cho UBND xã quản lí) cho phép các cơ quan chuyên môn soạn thảo ra Bản cam kết, Đơn xin giao đất, Biên bản bàn giao (có dấu của phòng Nông nghiệp huyện Tiên Lãng) để lừa đảo và hợp thức hoá cho Kế hoạch số 58. Điều đặc biệt trong Kế hoạch này của UBND huyện Tiên Lãng không gửi cho UBND thành phố Hải Phòng, không được UBND thành phố Hải Phòng phê duyệt theo Điều 26/ Luật đất đai /2003. Như vậy, họ tiếp tục một lần nữa ban hành luật địa phương như từng ban hành Quy định số 497/1993, mà không tuân thủ theo những văn bản pháp luật hiện hành đã có hiệu lực của Nhà nước  về đất đai.
Về các quan điểm trên của UBND huyện Tiên Lãng trong việc thu hồi đất là:
- Thu hồi không giao lại.
     – Thu hồi không bồi thường.
     – Thu hồi giao về cho UBND xã quản lí.
Chúng tôi cho rằng các Quyết định thu hồi đất đó là Quyết định tịch thu tài sản của công dân chứ không phải Quyết định thu hồi đất mang tính hành chính thông thường . Về việc này đứng trên quan điểm pháp luật về đất đai qua các bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước tới thành phố Hải Phòng  tôi khẳng định Quyết định thu hồi đất đó của UBND huyện Tiên Lãng áp dụng với gia đình tôi là hoàn toàn bất hợp pháp, bởi các lí do sau đây:
*Lí do thứ nhất: Đất của gia đình tôi là đất nông nghiệp, đất đã được sử dụng.
Căn cứ vào Điều 13/ Luật đất đai/ 2003. Căn cứ vào các Quyết định giao đất, số 220, số 447. Căn cứ vào Quyết định số 381, 493 của UBND huyện Tiên Lãng về việc giao chỉ tiêu thu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Căn cứ vào các Biên bản quyết toán thuế sử dụng đất nông nghiệp của Chi cục thuế huyện Tiên Lãng. Căn cứ vào Quyết định phê duyệt số 127/ 2003 của UBND thành phố Hải Phòng thì đất của gia đình tôi là đất nông nghiệp, đất đã được đưa vào sử dụng.
*Lí do thứ hai: Đất của gia đình tôi chưa hết thời hạn sử dụng.
Vì là đất nông nghiệp, do đó căn cứ vào Thông tư số 01 ngày 13 /4/2005 của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường thì đất của gia đình tôi sử dụng chưa hết thời hạn. Do vậy UBND huyện Tiên Lãng cho rằng họ thu hồi đất hết thời hạn là hoàn toàn bất hợp pháp.
             *Lí do thứ 3: Đất của gia đình tôi khi hết thời hạn sử dụng đất được Nhà nước tiếp tục giao đất, cho thuê đất.
Căn cứ vào Điều 50, Điều 67, Điều 146/ Luật đất đai/2003 và đặc biệt Khoản 1 Điều 34 Nghị định 181/ 2004/CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai thì khi hết thời hạn sử dụng đất gia đình được Nhà nước tiếp tục giao đất, cho thuê đất. Do vậy trong các Quyết định thu hồi đất UBND huyện Tiên Lãng không giao lại cho gia đình tôi là hoàn toàn bất hợp pháp.
 *Lí do thứ tư: Đất của gia đình tôi khi thu hồi thì được Nhà nước bồi thường.
Căn cứ Điều 42/ Luật Đất đai/ 2003, Điều 8 Nghị định 197 ngày 3/12/2004 của Chính phủ, Điều 6 Quyết định 1761 ngày 19/9/2007 của Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, Nghị định 69 ngày 13/8/2009 của Chính phủ thì khi Nhà nước thu hồi đất, gia đình tôi được Nhà nước bồi thường. Do đó, trong các Quyết định thu hồi đất UBND huyện Tiên Lãng không bồi thường cho gia đình tôi là bất hợp pháp.
*Lí do thứ năm: Đất của gia đình tôi UBND huyện Tiên Lãng thu về giao cho UBND xã quản lí là bất hợp pháp.
       Bởi gia đình tôi không vi phạm về pháp luật đất đai, gia đình  tôi còn nhu cầu sử dụng đất. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 10/ Luật đất đai/2003 thì việc UBND huyện Tiên Lãng thu hồi đất giao về cho UBND xã Vinh Quang quản lí là hoàn toàn bất hợp pháp.
Từ những căn cứ, cơ sở pháp lí chứng minh trên, tôi khẳng định việc thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng áp dụng với gia đình tôi là vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội một cách nghiêm trọng.
c- Phần giải quyết khiếu nại, cưỡng chế:
Ngày 24/11/2011, sau khi ban hành Quyết định cưỡng chế số 3307, với  gia đình tôi. Xét thấy đây là Quyết định hành chính bất hợp pháp. Căn cứ vào luật Khiếu nại – Tố cáo, chồng, anh tôi đã có đơn khiếu nại gửi tới Chủ tịch huyện Tiên Lãng để giải quyết theo thẩm quyền theo Điều 20 Luật Khiếu nại – Tố cáo. Song đã 4 lần gửi khiếu nại, Chủ tịch huyện Tiên Lãng vẫn không giải quyết. Căn cứ Luật tố tụng hành chính, ngày 04/01/2012 chồng, anh tôi đã đến trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng để gửi đơn khởi kiện nhưng Toà án huyện Tiên Lãng vẫn không giải quyết. Trước đó, chồng, anh tôi cũng có rất nhiều đơn gửi tới các cơ quan xung quanh thành phố Hải Phòng và gửi cho Chủ tịch và PCT thành phố Hải Phòng tại trụ sở tiếp công dân thành phố nhưng UBND thành phố vẫn không có ý kiến gì về việc này. Đổi lại việc giải quyết khiếu nại UBND huyện Tiên Lãng đã ban hành Quyết định cưỡng chế số 3307 áp dụng với gia đình tôi là một điều không thể chấp nhân được. Do đó, chính quyền huyện Tiên Lãng không giải quyết khiếu nại của chồng, anh tôi mà đã cho Hội đồng cưỡng chế tiến hành cưỡng chế. Như vậy, Chủ tịch huyện Tiên Lãng trong việc này tiếp tục vi phạm Điều 20, Điều 36/Luật Khiếu nại Tố cáo mà Nhà nước đã ban hành. Dùng bạo lực chính quyền bất chấp công lí và đạo đức xã hội, lật lọng thoả thuận đã kí với công dân có sự chứng kiến của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng để chiếm đoạt và huỷ hoại tài sản công dân có tổ chức, vi phạm pháp luật hình sự một cách nghiêm trọng.
đ- Hậu quả để lại:
Từ những chủ trương, chính sách mang tính địa phương ở trên, qua những văn bản mà  tôi đã chứng minh. Suốt từ 1993 đến nay, chính quyền huyện Tiên Lãng đã không thực hiện theo đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về đất đai. Họ tự đặt ra cơ chế để chói buộc, để bao vây, để kìm hãm sản xuất của nhân dân. Do vậy, hàng ngàn ha ven sông, ven biển của huyện Tiên Lãng ngay từ thủa khai hoang, vỡ hoá từ 1993 đến nay nhân dân NTTS không sản xuất và phát triển lên được.
Trước đó, tại Báo cáo số 13 ngày 16/4/2007 LCHNTTSNLHTL đã có văn bản tổng kết phân tích toàn bộ âm mưu, ý đồ, phương thức thủ đoạn  của các thế lực có quyền, có chức trong bộ máy lãnh đạo của chính quyền huyện Tiên Lãng nhằm chiếm đoạt đất của Nhân dân một cách bất hợp pháp, việc này lúc đó đã được Công an huyện Tiên Lãng biết rõ hơn ai hết đặc biệt là ông Lê Văn Mải (người gọi là bị hại) lúc đó đang phụ trách đội điều tra Công an huyện Tiên Lãng. Song  không hiểu vì lí do, động cơ gì toàn bộ âm mưu này không được Công an huyện Tiên Lãng ngăn chặn mà ông Mải tiếp tục trở thành thành viên chỉ huy xung trận mãnh liệt nhất trong việc tổ chức chiếm đoạt tài sản của gia đình tôi một cách bất hợp  pháp, mặc dù chồmg tôi đã có ý kiến đến Công an huyện Tiên Lãng nhờ can thiệp.
Sở dĩ việc cố tình im lặng và không thèm xem xét của Công an huyện Tiên Lãng đó theo tôi có các nguyên nhân chính sau đây:
Một là: Toàn bộ ý đồ chiếm đoạt đất đó của chính quyền huyện Tiên Lãng đã đạt đến sự chín muồi chỉ còn chờ đến ngày phôi thai vì đã được UBNDTP Hải Phòng hậu thuẫn cho phép thể hiện tại công văn số 4778 ngày 17/8/2011.
Hai là: Do lợi nhuận kếch sù và khổng lồ nếu họ chiếm được đất của gia đình tôi trước tiên, sau đó là toàn bộ đất của Nhân dân NTTS Tiên Lãng nói chung và sau nữa là chiến lược đến năm 2013, khi thời hạn chót của thời kỳ giao đất cho nông đân đã hết hạn, để bán đất cho Chính phủ phục vụ vào mục đích xây dựng sân bay Tiên Lãng và các nhà đầu tư khác nếu có nhu cầu, như công ty Sơn Trường đã đặt nền móng trước tại mảnh đất phía Đông cống Rộc ngay trên đất của ông Nguyễn Văn Phao xóm Kỳ -Vinh quang.
Ba là: Toàn bộ kế hoạch này đã được sự ủng hộ rất cao của toàn bộ hệ thống chính trị tại huyên Tiên Lãng nhất là Huyện ủy, Công an huyện, ban chỉ huy Quân sư huyện, Đồn biên phòng 46 Vinh Quang và chính quyền 4 xã cơ bản đó là Hùng Thắng, Vinh Quang, Đông Hưng, Bắc Hưng.
Như vậy với tất cả ý đồ có sắp xếp, tính toán từ trước có tầm chiến lược trên, trải qua nhiều giai đọan, chúng tôi khẳng định động cơ, ý đồ đó là nhằm tham nhũng đất đai có tổ chức. Đây là nguyên nhân, động cơ, mục đích chính dẫn đến hậu quả ngày 5/1/2012 xảy ra tại cống Rộc – Vinh Quang – Tiên Lãng, chứ không đơn thuần tên gọi của vụ án (Huỷ hoại tài sản).
2- Hành vi phạm tội có tính toán từ trước, quyết tâm phạm tội đến cùng :
Căn cứ Quyết định trưng dụng lực lượng tham gia thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất số 4092 ngày 23/12/2011. Đặc biệt, căn cứ vào Kế hoạch số 104 ngày 25/11/2011 v/v Tổ chức cưỡng chế để thi hành Quyết định hành chính thu hồi đất  đối với ông Đoàn Văn Vươn công dân xã Bắc Hưng và ông Vũ Văn Luân công dân xã Hùng Thắng. Tại trang 5 phần VI ở điểm 4 ông Lê Văn Hiền nguyên Chủ tịch huyện Tiên Lãng thay mặt cho Chính quyền huyện Tiên Lãng có ghi:
“Trường hợp đối tượng đe dọa sử dụng hoặc sử dụng chất cháy nổ, chất độc thì các  lực lượng Công an, Quân sự phải kịp thời sử lí, ngăn chặn không để xảy ra hậu quả xấu và không dừng việc cưỡng chế.”
Thể hiện như vậy, chứng tỏ chính quyền huyện Tiên Lãng đứng đầu là ông Lê Văn Hiền quyết tâm phạm tội đến cùng với bất kỳ giá nào, thủ đoạn nào mà họ đã toan tính, sắp đặt từ trước, từ kế hoạch này đã lột tả toàn bộ bản chất thật của hành vi có tính chủ quan của chính quyền huyện Tiên Lãng và các đối tượng trực tiếp phạm tội, ở sự việc này chúng tôi đặt câu hỏi. Tại sao họ lại phải quyết tâm cao đến như thế?
Song hành với bản Kế hoạch đó là sự phân công chi tiết để thực hiện công việc phạm tội hủy hoại tài sản một cách có chủ ý, công khai được thể hiện tại Thông báo số 01 ngày 30/12/2012 v/v phân công lực lượng tổ chức cưỡng chế thu hồi vùng thủy sản thuộc đơn vị tổ 2, do Phạm Xuân Hoa nguyên là trưởng phòng Tài Nguyên – Môi trường huyện Tiên Lãng làm tổ trưởng, ở Thông báo này tôi giả sử Quyết định cưỡng chế đó là đúng thì mọi tài sản đó thuộc về Nhà nước phải được niêm phong, bảo quản giữ gìn. Song vì lý do gì ở vụ việc này mà các đối tượng phạm tội lại lên kế hoạch từ trước để phá nhà, chiếm đoạt tài sản của gia đình tôi một cách có chủ ý từ trước như vậy.
     Trong vụ án này tôi đặt câu hỏi: Trả lẽ việc Chính quyền huyện Tiên Lãng tổ chức cưỡng chế bất hợp pháp là chỉ nhằm mục đích hủy hoại tài sản của gia đình tôi, ngoài ra không còn động cơ, mục đích nào khác? 
3- Bản chất thật của hành vi mà chính quyền huyện Tiên Lãng đã thực hiện là vi phạm các quy định về quản lý đất đai, xâm phạm chỗ ở công dân, hủy hoại, cướp  tài sản công dân có tổ chức.
Căn cứ vào hồ sơ vụ án.Căn cứ vào Kết luận điều tra số 03 của Công an Hải phòng,  cáo trạng của VKS Hải Phòng. Căn cứ vào phiên tòa sơ thẩm Hình sự diễn ra từ ngày 08-10/04/2013, đồng thời căn cứ thực tiễn sảy ra trên trên hiện trường của vụ án cho thấy chính quyền huyện Tiên Lãng đã vi phạm một số điều luật hình sự sau đây:
a-    Xâm phạm chỗ ở công dân có tổ chức theo điều 124 Luật hình sự:
Việc đoàn cưỡng chế do ông Lê Văn Mải – nguyên trưởng Công an huyện Tiên lãng, là thành viên trong ban chỉ đạo cưỡng chế, làm tổ trưởng tổ 3 có trách nhiệm áp chế gia đình tôi, làm cho gia đình tôi không thể kháng cự được, nhằm hỗ trợ cho tổ 1 có trách nhiệm chiếm đoạt toàn bộ tài sản của gia đình tôi, hỗ trợ cho tổ 2 có trách nhiệm đập, đốt, phá toàn bộ tài sản của gia đình tôi. Khi xông vào đất gia đình tôi nằm ngoài khu vực cưỡng chế, không được phép của gia đình tôi. Do đó, đã vi phạm Điều 73 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở”. Vì phạm Điều 124 Luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam “Tội xâm phạm chỗ ở của công dân”. Do vậy, việc cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Hải phòng, VKS thành phố Hải Phòng, Tòa án Hải phòng, không điều tra, truy tố, xét xử những đối tượng thuộc tổ 3 nhóm đầu tiên xâm phạm chỗ ở công dân bất hợp pháp một cách có tổ chức, mà lại xếp các đối tượng vi phạm pháp luật nghiêm trọng này ở ghế bị hại trong phiên Tòa hình sự sơ thẩm ngày 5/4/2013 là một điều chớ trêu, thách thức công lí và dư luận một cách công khai, không thể chấp nhận được.
b-Tôị hủy hoại tài sản công dân có tổ chức:
Căn cứ Kết luận điều tra, cáo trạng của VKSND, bản án hình sự sơ thẩm ngày 10/4/2013 của Tòa án NDTPHP thì hành vi hủy hoại tài sản của gia đình ông Vươn do chính quyền huyện Tiên Lãng gây ra cho gia đình ông Vươn là không thể chối cãi được.
c Tôị cướp tài sản công dân có tổ chức:
Theo quy định của Pháp luật, tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 Luật hình sự như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù……….”
     Việc đoàn cưỡng chế được sự hậu thuẫn của tổ 3 do ông Lê Văn Mải là tổ trưởng, có trách nhiệm áp chế, dùng vũ lực, làm cho gia đình ông Vươn không thể kháng cự được, sau đó lục soát, chiếm đoạt toàn bộ tài sản của gia đình ông Vươn trên diện tích 40,3 ha, hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản công dân có tổ chức được quy định tại Điều 133 Luật hình sự Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là một điều không thể chối cãi được.
d Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo Điều 174 Luật hình sự:
- Căn cứ Quyết định thu hồi đất số 460, 461 của bị cáo Lê Văn Hiền nguyên Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng ký áp dụng với ông Đoàn Văn Vươn.
- Căn cứ kết luận của Thủ Tướng chính phủ ngày 10/02/2012 về vụ việc.
- Căn cứ vào bản án Tái thẩm ngày 15/02/2012 của Tòa án Tối cao hủy Quyết định đình chỉ  xét xử phúc thẩm số 02 ngày 22/04/2010 và bản án hành chính sơ thẩm số 01 ngày 27/01/2010 của Tòa án Nhân dân huyện Tiên Lãng.
- Căn cứ trên thực tiễn từ 2004 đến 2009, UBND huyện Tiên Lãng đã ban hành hàng loạt Quyết định thu hồi đất bất hợp pháp áp dụng với hàng trăm hộ nhân dân NTTS huyện Tiên Lãng ở bốn xã Tiên Thắng, Vinh Quang, Đông Hưng, Tây Hưng.
Như vậy, tổng số diện bị thu hồi có diện tích lớn, gây hậu quả nghiêm trọng do đó hành vi này đã vi phạm Điều 174 Luật hình sự.
Rất tiếc trong quá trình điều tra Công an, VKS, Tòa án Hải Phòng đã không điều tra, truy tố, xét xử các đối tượng này về hành vi phạm tội trên, theo tôi là các cơ quan trên đã bỏ lọt tội phạm mà Nhà nước đã quy định như kháng cáo tôi đã đế cập.
4  – Hành vi cưỡng chiếm đó không phải là thi hành công vụ thực chất là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản công dân có tổ chức theo Điều 280 Luật hình sự.
Các chứng cứ sau đây để khẳng định các đối tượng phạm tội không phải là người thi hành công  vụ như sau:
1 – Căn cứ Quyết định thu hồi đất số 460 ngày 23/4/2008, Quyết định thu hồi đất số 461 ngày 07/4/ 2009. Căn cứ Quyết định cưỡng chế số 3307 ngày 24/11/2011 của bị cáo Lê Văn Hiền nguyên Chủ tịch UBND Tiên Lãng áp dụng với ông Đoàn Văn Vươn.
2- Căn cứ vào Kết luận của Thủ tướng chính phủ ngày 10/02/2012 về vụ việc, “Thu hồi đất, cưỡng chế đất trái pháp luật”.
3- Căn cứ vào bản án tái thẩm số 01 ngày 15/02/2012 của Tòa án Tối cao đã hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 02 ngày 22/04/2010 của Tòa án nhân dân thành phố  Hải Phòng, bản án sơ thẩm hành chính ngày 27/01/2010 của Tòa án Nhân dân huyện Tiên Lãng.
4-  Căn cứ vào Kết luận điều tra số 03 của Công an thành phố Hải Phòng về vụ “Hủy hoại tài sản”, Cáo trạng của VKS thành phố Hải Phòng về vụ án hủy hoại tài sản, bản án hình sự sơ thẩm số 43 ngày 10/4 của Tòa án thành phố Hải Phòng xét xử các bị cáo là những quan chức thuộc chính quyền huyện Tiên Lãng về vụ hủy hoại tài sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn. Đồng thời không quy kết cho bất cứ một cơ quan, tổ chức quản lý người thi hành công vụ nào phải chịu trách nhiệm bồi thường về mặt dân sự cho gia đình tôi theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước. 
5- Căn cứ vào Thông báo của Thành uỷ, UBND thành phố Hải Phòng về việc sử lý kỷ luật bước đầu có 25 tổ chức và 50 cá nhân bị kỷ luật trong đó huyên Tiên Lãng có 16 tổ chức 17 cá nhân bị kỷ luật.
6 – Căn cứ vào hành vi 6 chiến sĩ bị thương của Quân đội và Công an  không được công nhận là thương binh.
    Những căn cứ trên đây là điều không thể chối cãi được khi khẳng định các hành vi đó không phải thi hành công vụ, vì nếu là công vụ thì tại sao các tổ chức và cán bộ này bị kỷ luật, bị truy tố, bị thương nhưng không được công nhận là thương binh. Do đó hành vi đó không thể được coi là thi hành công vụ, hành vi đó duy nhất chỉ được coi là lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt, hủy hoại tài sản công dân có tổ chức theo quy định tại Điều 280, 143 Luật hình sự.
                                                      LÝ DO THỨ BA
     Tài sản bị chiếm đoạt không hề được điều tra, giá trị năm ngôi nhà bị huỷ hoại không phản ánh giá trị thật.
Tại đơn kháng cáo tôi yêu cầu trả hồ sơ điều tra lại vụ án, vì trong quá trình điều tra,  truy tố, xét xử, cơ quan Công an, VKS và Tòa án Hải Phòng đã không điều tra, truy tồ, xét xử, toàn bộ tài sản bị các đối tượng phạm tội gây ra như đập, đốt phá, chiếm đoạt toàn bộ tài sản như thủy sản, chuối, chăn màn, quần áo, sách vở học sinh, máy móc, các phương tiện dụng cụ khai thác đánh bắt thuỷ, hải sản, …… bị các đối tượng gây án chiếm đoạt, hủy hoại cho gia đình tôi mà đã vội vàng đưa ra xét xử là một điều không bình thường, vi phạm pháp luật tố tụng hình sự, luật hình sự một cách nghiêm trọng, cố tình đánh mất quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được Nhà nước bảo vệ.
Đồng thời tại phiên Toà sơ thẩm, Toà án Hải Phòng tuyên các bị cáo trong vụ huỷ hoại tài sản nhà tôi chỉ bồi thường gia đình tôi 295 triệu đồng sau khi trừ khấu hao tài sản của 5 ngôi nhà là hoàn toàn vô lý. Vì gia đình tôi không đổi chác, không mua bán với các ông đó, mà các ông đó tự động đến đập, đốt, phá, sau đó lại đi tính khấu hao là điều không thể chấp nhận được, không có cơ sở pháp lý nào biện minh cho hành vi đó như thế là hợp pháp để được phép khấu hao. Vì vậy, tôi đề nghị Toà án giữ nguyên giá trị ban đầu mà hội đồng định giá thành phố Hải Phòng đã định, đồng thời cộng với chi phí vận chuyển, xây dựng là 1/3 so với tổng giá trị công trình bởi chi phí cho việc vận chuyển ra đầm là rất cao.
.
                                                      LÝ DO THỨ TƯ
Danh sách các đối tượng bị truy tố ,xét xử không phản ánh thực chất bản chất của               vụ án, còn bỏ lọt tội phạm.

Tại Quyết định số 4092 ngày 23/12/2011 về việc trưng dụng lực lượng tham gia thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất.
Chính quyền huyện Tiên Lãng đã huy động hàng trăm cán bộ, chiến sĩ Quân đội, Công an, Đồn Biên phòng 46 Vinh Quang và công nhân viên chức, cán bộ, dân quân tự vệ Công an xã, thuộc UBND huyện Tiên Lãng cùng ba xã Vinh Quang, Hùng Thắng, Bắc Hưng ngày 5/1/2012 đã tiến hành đập, đốt, phá sau đó chiếm đoạt toàn bộ toàn sản trên diện tích 40,3ha của gia đình tôi là điều không thể chối cãi. Song một điều chớ trêu Công an Hải Phòng , VKS, Tòa án Hải Phòng chỉ tìm ra đưa vào truy tố, xét xử có bốn đối tượng về tội hủy hoại tài sản, một đối tượng do thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, còn các hành vi khác như chiếm đoạt tài sản…. đều không được điều tra, truy tố, xét xử là một điều không thể chấp nhận được, điều đó tôi cho rằng các cơ quan Tư pháp  Hải Phòng có quyền giải quyết vụ án này đã cố tình bỏ lọt tội phạm.

LÝ DO THỨ NĂM
          Định khung hình phạt không tương xứng với hành vi phạm tội.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 43 ngày 10/4/2013 Tòa án Hải Phòng đã quy các đối tượng phạm tội hủy hoại tài sản quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 143 Luật hình sự (đây là chưa tính hết  giá trị tài sản khác bị chiếm đoạt, bị hủy hoại và các hành vi phạm tội khác) thì khung hình phạt có tính đến yếu tố tình tiết giảm nhẹ thấp nhất cũng là mức án bảy năm tù giam (không có tù án treo trong khung hình phạt tại Điểm a Khoản 3 Điều này). Như vậy, tuyệt đại đa số các bị cáo trong vụ án này được Tòa án Hải Phòng định khung hình phạt với mức án từ 15 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, là không tương xứng với hành vi phạm tội mà các đối tượng này đã gây ra theo quy định của Nhà nước.
LÝ DO THỨ SÁU
Bị cáo Lê Văn Hiền phạm nhiều tội chứ không phải phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng .
     Tại bản án hình sự sơ thẩm  số 43 ngày 10/4/2013 ,Tòa án Hải Phòng quy kết bị cáo Lê Văn Hiền tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 285, theo tôi  Tòa án Hải Phòng xét xử như vậy là không đúng tội, không đúng như những gì bị cáo Lê Văn Hiền đã gây ra.
Trước hết, phải khẳng định là trong vụ án này, bị cáo Lê Văn Hiền là người có trách nhiệm chứ không phải thiếu trách nhiệm, đồng thời phải chịu trách nhiệm cao nhất về tất cả hậu quả mà đoàn cưỡng chế do bị cáo Lê Văn Hiền Quyết định thành lập, tổ chức điều động, phân công trách nhiệm để thực hiện yêu cầu mà bị cáo Lê Văn Hiền đã đặt ra, đồng thời với tất cả việc làm của bị cáo Lê Văn Hiền thì bị cáo Lê Văn Hiền phạm các tội sau đây.
1-Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo điều 174 Luật hình sự:
- Căn cứ Quyết định thu hồi đất số 460, 461, Quyết định cưỡng chế số 3307 của bị cáo Lê Văn Hiền áp dụng với gia đình tôi.
- Căn cứ vào kết luận của Thủ Tướng chính phủ ngày 10/2/2012 về vụ việc ( giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế trái pháp luật )
- Căn cứ bản án Tái thẩm số 01 ngày 15/02/2012 của Tòa án Tối cao hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 02 ngày 22/04/2010 của Tòa án Hải Phòng, hủy bản án hành chính sơ thẩm số 01 ngày 27/01/2010 của Tòa án huyện Tiên Lãng.
- Căn cứ trên thực tiễn từ 2007 đến 2009 bị cáo Lê Văn Hiền đã ban hành hàng loạt Quyết định thu hồi đất trái pháp luật áp dụng với nhân dân NTTS huyện Tiên Lãng, có diện tích lớn, giá trị lớn. Do vậy bị cáo Lê Văn Hiền đã lợi dụng chức vụ quyền hạn trong việc thu hồi đất có diện tích lớn giá trị lớn vì vậy bị cáo Lê Văn Hiền vi phạm Điều 174 luật hình sự là điều không thể chối cãi.
2 – Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tổ chức chiếm đoạt, hủy hoại tài sản của công dân theo điều 280, 143 Luật hình sự
- Căn cứ Quyết định thu hồi đất số 460 ngày 23/04/2008, Quyết định thu hồi đất số 461 ngày 07/04/2009 của UBND huyện Tiên Lãng do bị cáo Lê Văn Hiền ký.
-  Căn cứ Quyết định cưỡng chế số 3307 ngày 24/11/2011 của UBND huyện Tiên Lãng do bị cáo Lê Văn Hiền ký.
- Căn cứ kế hoạch tổ chức cưỡng chế để thi hành Quyết định hành chính thu hồi đất đối với ông Đoàn Văn Vươn công dân xã Bắc Hưng và ông Vũ Văn Luân công dân xã       Hùng Thắng , số 104 ngày 24/11/2011 của UBND huyện Tiên Lãng do bị cáo Lê Văn Hiền ký.
- Căn cứ Quyết định trưng dụng lực lượng tham gia thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất số 4092 ngày 23/12/2011 của UBND huyện Tiên Lãng do bị cáo Lê Văn Hiền ký.
- Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011 NQ- HĐTP ngày 29/07/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, thì hành vi hành chính của ông Nguyễn Văn Khanh, Trưởng ban cưỡng chế do Chủ tịch huyện Tiên Lãng giao làm trưởng ban và hành vi hành chính của tất cả các thành viên trong đoàn cưỡng chế, là hành vi hành chính có trách nhiệm của nguyên Chủ tịch, bị cáo Lê Văn Hiền. Do đó bị cáo Lê Văn Hiền phải chịu trách nhiệm toàn bộ về việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc thu hồi đất, tổ chức chiếm đoạt, hủy hoại tài sản công dân có tổ chức đã được thể hiện ở các văn bản trên .
Như vậy, với tất cả chứng cứ trên đây, thì việc Công an, VKS, Tòa án Hải Phòng điều tra, truy tố, xét xử ông Lê Văn Hiền về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 280 Luật hình sự là không đúng với những gì mà bị cáo này đã gây ra theo quy định của pháp luật mà chúng tôi đã chứng minh ở trên.
KẾT LUẬN CHUNG
Với tất cả lý do trên chúng tôi cho rằng:
1-Thực chất hành vi mà các đối tượng gây án trong chính quyền huyện Tiên Lãng đã gây ra trong vụ án này là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, hủy hoại tài sản công dân có tổ chức, không đơn thuần chỉ là hủy hoại tài sản như tên gọi của vụ án.
2- Bản chất của hành vi mà các đối tượng phạm tội đã gây ra là vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo Điều 174, xâm phạm chỗ ở của công dân theo Điều 124, hủy hoại và chiếm đoạt tài sản của công dân theo Điều 143, 280, tội cướp tài sản theo Điều 133 Luật hình sự.
3-Toàn bộ tài sản bị  chiếm đoạt và tài sản khác bị hủy hoại chưa được điều tra làm rõ đã vội vàng đưa ra xét xử. Định giá 5 ngôi nhà bị huỷ hoại là không khách quan , không phản ánh giá trị thật của tài sản bị huỷ hoại
4-Danh sách các đối tượng phạm tội bị điều tra ,bị truy tố, bị xét xử không phản ánh thực chất bản chất của vụ án còn để lọt quá nhiều tội phạm.
5-Định khung hình phạt với các bị cáo không tương xứng với những hành vi phạm tội mà các đối tượng này đã gây lên thiệt hại cho gia đình tôi.
6-Bị cáo Lê Văn Hiền phạm nhiều tội , không phải tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng như Tòa án Hải phòng đã tuyên.
ĐỀ XUẤT
Kính đề nghị HĐXX Toà phúc thẩm Toà án Tối cao tuyên huỷ bản án hình sự sơ thẩm ngày 10/04/2013, giao lại toàn bộ hồ sơ vụ án cho Bộ Công An để điều tra lại toàn bộ vụ án vì các lý do trên.
Trên đây là toàn bộ nội dung đơn kháng cáo bổ sung của chúng tôi, cũng là đơn kháng cáo chính thức của chúng tôi  trước phiên Tòa tới đây . Kính đề nghị HĐXX công tâm xem xét !
Tôi xin trân trọng cản ơn!
                                                                               Ngày 18 tháng 07năm 2013
Người làm đơn




Nguyễn Thị Thương, Phạm Thị Báu( Hiền)
8



Copy từ: Ba Sàm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét