CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM-ĐỐI CHIẾU VỚI BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ NGUYỄN TẤN DŨNG


Nếu những con số thống kê vẫn tiếp tục “khuất tất”, e rằng cơ hội cho Việt Nam đón nhận sự tiếp ứng từ bên ngoài sẽ chỉ còn rất hạn hẹp. Thậm chí là ngược lại, có thể một lúc nào đó cộng đồng quốc tế sẽ quay lưng với Việt Nam.
Gấp đôi!
Chỉ trong tháng 4/2013, liên tiếp những con số về nợ xấu và nợ công quốc gia đã được “tiết lộ”.
Tiếp theo Diễn đàn kinh tế mùa xuân ở Nha Trang, một cuộc hội thảo khoa học có tên “Khủng hoảng nợ công ở Liên minh châu Âu và những vấn đề gợi mở đối với Việt Nam” được tổ chức bởi Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam.
Tất nhiên, nhiều thành viên tham dự cuộc hội thảo trên có thể hiểu rằng châu Âu có vấn đề của riêng họ, còn Việt Nam lại có thể là một ngoại lệ khác biệt, mà nếu không cẩn thận thì không thể so sánh chúng ta với những nước bị coi là chúa chổm như Ý, Tây Ban Nha, Ireland, mà chỉ có thể tương xứng với Hy Lạp và Síp.
Có thể nói lần đầu tiên, giới chuyên gia khoa học ở Việt Nam tỏ ra phóng khoáng đến thế trong việc “gợi mở” những con số mà trước đây thuộc loại “cấm kỵ”. Một giảng viên của Đại học Almamer ở Ba Lan cho biết tính theo tiêu chuẩn quốc tế, nợ công Việt Nam Nam phải lên đến 128 tỷ  USD, tương đương với 106% GDP năm 2011, TS Lưu Bích Hồ, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng đồng thuận với ý kiến đó.
Vào năm 2011, GDP Việt Nam là 122 tỷ USD.  
Trong bối cảnh hoàn toàn khác biệt, vào cuối năm 2012, báo cáo của Chính phủ gửi cho các  đại biểu quốc hội lại cho biết nợ công của Việt Nam chỉ khoảng 67 tỷ USD, chiếm có 55,4% GDP.
Chiếu theo con số báo cáo trên, rõ ràng đã tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa điều được coi là “thống kê” của các cơ quan hữu trách với hiện trạng mà giới chuyên gia xem là con số thực. Khoảng cách này có thể lên đến ít nhất 60 tỷ USD.
Cần nhắc lại, sau khi báo cáo của Chính phủ Việt Nam được công bố, một chuyên gia thống kê hàng đầu, người từng là vụ trưởng Vụ Tài khoản quốc gia thuộc Cục thống kê Liên hiệp quốc - TS Vũ Quang Việt - đã phản bác khi cho rằng nếu tính đúng chuẩn của Liên hiệp quốc, số  thực nợ công quốc gia của Việt Nam phải lên  đến 129 tỷ USD.

Theo tiêu chuẩn quốc tế, nợ công được hiểu là nợ của chính phủ cộng thêm nợ do chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương và nợ của doanh nghiệp nhà nước.

Tuy nhiên theo TS Vũ Quang Việt, Chính phủ Việt Nam đã không coi nợ của doanh nghiệp nhà nước là một phần của nợ công và  do đó đã không tính khoản 62 tỷ USD của khối này vào nợ quốc gia.
Theo quan điểm của ông Việt, vì Nhà nước làm chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước nên Nhà nước không thể phủi tay để chủ nợ đòi bán tài sản thu nợ theo đúng luật phá sản. Một trong những trường hợp  điển hình mà ông dẫn chứng là nợ của Vinashin đã được chính quyền dồn cho các doanh nghiệp nhà nước khác phải trả.
Trong một chứng minh khác, ông Việt dẫn lời ông Vương Đình Huệ từ hồi làm Bộ trưởng Tài chính nói có tới 30 tập đoàn và tổng công ty có  số nợ lớn gấp 3 lần vốn chủ sở hữu. Trong số này có 8 doanh nghiệp nợ gấp 10 lần vốn và 10 doanh nghiệp nợ từ 5-10 lần.
“Như vậy có lẽ 30 tập đoàn này đã mất khả năng trả nợ” - TS Vũ Quang Việt nhận định.
Khuất tất?
Trong cuộc hội thảo về nợ công vừa tổ chức tại Việt Nam, chủ đề nợ của doanh nghiệp nhà nước bị bỏ qua cũng được “gợi mở”. Theo TS Nguyễn Trọng Hậu của Ba Lan, trong khi thế giới có 5 tiêu chí về nợ công chung, thì Việt Nam chỉ có 3 tiêu chí. Hai tiêu chí không được Việt Nam tính vào nợ công là nợ của doanh nghiệp nhà nước và khoản nhà nước vay của quỹ hưu trí.
Cũng như TS Vũ Quang Việt, ông Hậu dẫn lại vấn đề Vinashin với khoản nợ hàng tỷ USD không được tính vào nợ công, trong khi ở các nước khác, doanh nghiệp nào có vốn nhà  nước dù chỉ một vài phần trăm, khi vay nước ngoài cũng phải tính vào.
Cũng cần nhắc lại, Diễn đàn kinh tế mùa xuân ở Nha Trang đã lần đầu tiên phát ra con số nợ xấu của nền kinh tế Việt Nam với ước tính vượt quá 500.000 tỷ đồng. Trong khi đó, các báo cáo của những cơ quan đặc trách về tình hình này chỉ thừa nhận nợ xấu vào khoảng 170.000 tỷ đồng.
Khoảng chênh lệch đã lên đến 3 lần. 
Hiển nhiên sự chênh biệt giữa con số thực tế và số báo cáo như trên có thể coi là “khủng khiếp”. Tình hình đó cũng cho thấy một trong những vấn đề trầm trọng nhất đối với nền kinh tế và cả với chính sách công ở Việt Nam là thực trạng thống kê. Không những thiếu chính xác, trong nhiều trường hợp thống kê còn trở nên thiếu minh bạch một cách khó tả và đáng ngờ.
Phải chăng cái mà xã hội đang bức xúc về “căn bệnh thành tích đã trở nên mãn tính” đã làm cho nhiều số liệu thống kê bị sai lệch? Rất có thể là như vậy. Nhưng chỉ như vậy vẫn là chưa đủ.
Báo cáo của Chính phủ Việt Nam gửi các đại biểu quốc hội vào cuối năm 2012 cũng nêu ra một hứa hẹn là nợ công quốc gia sẽ không vượt quá 65% vào năm 2015. Dĩ nhiên, 65% là giới hạn nguy hiểm mà bất cứ một nền kinh tế nào cũng phải dè chừng. Nhưng lời hứa hẹn đó chỉ hợp lý nếu quả thực con số nợ công hiện nay không phải là 128 tỷ USD mà chỉ có 67 tỷ USD.
Có nghĩa là từ đây đến năm 2015, nợ vay nước ngoài sẽ tiếp tục tăng lên mà vẫn chưa bị coi là “nguy hiểm”.
Nhưng trong trường hợp ngược lại, mọi chuyện sẽ trở nên vô cùng bất hợp lý  khi cách tính toán theo tiêu chuẩn Liên hiệp quốc lại tỏ  ra phù hợp hơn hẳn cách nhìn có vẻ cảm tính của giới chức điều hành kinh tế Việt Nam.
Nếu trường hợp trái ngược như trên xảy ra, ngay giờ đây nay vấn đề nợ công Việt Nam đã vượt quá giới hạn nguy hiểm và  có thể tiến tới một điểm bùng vỡ  trong một tương lai không quá xa.
Không thể so sánh Việt Nam với một số quốc gia có tỷ lệ nợ công cao như Nhật Bản, Mỹ, bởi tiềm lực kinh tế và dự trữ ngoại hối của các quốc gia này là “không thể so sánh” với Việt Nam. Ngược lại, nền kinh tế Việt Nam, vốn đang quá mong manh và yếu chân đứng, sẽ có thể suy sụp hoàn toàn với chỉ một cú nhấn nợ công.
Minh bạch là một yếu tố tiên quyết để Việt Nam hội nhập thương mại quốc tế và cả những chủ đề lớn khác như quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Nhưng nếu những con số thống kê vẫn tiếp tục “khuất tất”, e rằng cơ hội cho Việt Nam đón nhận sự tiếp ứng từ bên ngoài sẽ chỉ còn rất hạn hẹp.
Thậm chí là ngược lại, có thể một lúc nào đó cộng đồng quốc tế sẽ quay lưng với Việt Nam.
Việt Thắng

(Sống mới)



Copy từ: NV Phạm Viết Đào

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét