(ĐVO) - Theo GS.TS. Nguyễn
Ngọc Lung, con số thống kê công bố về diện tích rừng chuyển đổi sang làm
thủy điện là những số thống kê được trong thiết kế, hồ sơ dự án, còn
phần rừng mất đi sau đó thì không ai thống kê được.
PV: - Thưa ông,
theo ông đánh giá, có hay không việc sử dụng các dự án thủy điện, trông
cây công nghiệp để được khai thác gỗ hợp pháp?
GS.TS. Nguyễn Ngọc Lung:- Không ai tự nhận mình làm vậy, nếu có đi nữa thì cũng chối ngay, họ sẽ có đủ mọi lý do để phủ nhận điều đấy.
PV: - Có một số nhà nghiên cứu về môi trường có nói là có tình trạng trên, ông nghĩ sao về những đánh giá đó?
GS.TS. Nguyễn Ngọc Lung:-
Có thì có, nhưng nói phải có dẫn chứng, dẫn chứng rất nhiều nhưng mà
mình đưa ra họ cũng đủ sức để biện minh, rồi lại cấp dưới đổ lỗi cho cấp
trên chỉ đạo, phê duyệt…
Còn nói không thì cũng chẳng khác gì các cơ quan nói.
GS.TS. Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng. |
PV: - Ông nghĩ gì về con số 20.000 ha rừng chuyển đổi sang làm thủy điện trong 6 năm từ 2006 – 2012?
GS.TS. Nguyễn Ngọc Lung:-
Cái đấy thì có thể thống kê được, mỗi nhà máy thủy điện chiếm bao nhiêu
rừng, nhưng đấy là cái mình thấy bằng mắt, trong kế hoạch, văn bản dự
án có, còn những cái xảy ra sau đấy thì không ai thống kê.
Ví dụ như làng này đã phải chuyển đi
chỗ kia, người ta chỉ nói rằng làng này chuyển tới đó tôi bố trí cho họ
diện tích đất rừng bằng làng cũ, làng rộng 10 ha tôi chỉ khoanh vùng cho
họ chặt 10 ha rừng ở nơi ở mới. Nhưng khi người dân sống vài ba năm thì
mới thấy rằng, à họ muốn sống không chỉ là 10 ha mà phải lên 100 ha cơ,
vì những năm đầu tiên là người ta phải sống bằng rừng, nhưng người ta
không thống kê cái đấy.
Nên chỉ cần đi khảo sát, ngày xưa
người ta quy hoạch là bao nhiêu, có hết trong bản đồ di dân, tái định
cư, nếu đủ sức thì đo đạt, nếu không có thể dùng ảnh vệ tinh, ảnh máy
bay thì rõ hơn.
PV : - Nhưng số liệu đưa ra đó có chính xác như trên thực tế không?
GS.TS. Nguyễn Ngọc Lung:
- Cái đấy thì phải đi hỏi người cung cấp số liệu, còn tôi không có số
liệu đấy nên tôi có muốn nói cũng không được, không cãi được họ. Đấy là
số liệu công bố, ai tin được bằng nào thì tin. Còn ai biết được có người
tin người không.
Muốn biết độ che phủ của rừng ở từng
khu vực có giống như báo cáo không chỉ cần đi trực thăng và nhìn từ trên
cao xuống sẽ có đánh giá được mức độ, nhưng đánh giá có công bố hay
không lại là chuyện khác.
PV: - Vậy ông có tin vào số liệu đó không?
GS.TS. Nguyễn Ngọc Lung:-
Cái đấy phải hỏi người công bố số liệu, mỗi một Bộ có một người được
công bố. Còn tôi cũng từng là người làm ra những số liệu đấy, nên có nói
tin hay không cũng không ai nghe. Số liệu đã có trong báo cáo, công báo
rồi thì nó là thế, chỉ nhà báo không tin nên mới hỏi.
Còn số liệu, như 50% số doanh nghiệp
giải thể, nhưng thất nghiệp ồ ạt lại không xảy ra, không biết họ làm thế
nào mà vẫn có việc làm? Thử hỏi quốc tế xem có nước nào mà khi giải thể
doanh nghiệp công nhân vẫn có việc làm không?
PV: - Với dự án
thủy điện Đồng Nai 6 và 6A đang nghiên cứu, phải chăng đang có sự đùn
đẩy trách nhiệm, khi nếu thấy rằng không nên làm thì có thể từ chối từ
khi doanh nghiệp xin nghiên cứu, để tới giờ rồi lại đẩy sang cho Quốc
hội, dù về nguyên tắc dự án sử dụng trên 50ha rừng đặc dụng phải được
Quốc hội thông qua?
GS.TS. Nguyễn Ngọc Lung: - Trách nhiệm hay không, dám quyết hay không phải hỏi những người đó.
Còn nếu không dám quyết thì nên đưa
ra kết luận là nhưng người lãnh đạo hiện nay sợ trách nhiệm tới mức nào,
tại sao lại sợ trách nhiệm. Và đáng lẽ tôi đưa anh vào vị trí đó, anh
phải giải quyết việc này, nhưng vì sợ trách nhiệm lại không dám quyết.
Lúc đấy phải đặt câu hỏi vị trí đó đã lựa chọn đúng người chưa, giao
trách nhiệm mà không dám quyết. những người đấy thì luôn tốt, không bao
giờ mắc khuyết điểm gì.
PV - Xin cảm ơn ông!
- Lê Việt (thực hiện)
Copy từ:Đất Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét