Công đoàn Đoàn kết vượt qua nhiều sóng gió ở Ba Lan
Tiếp tục loạt bài về di sản và
xử lý di sản của chủ nghĩa cộng sản, BBC trân trọng giới thiệu khái lược
với quý vị độc giả góc nhìn của nhà nghiên cứu từ Canada, Phó Giáo sư
Barbara J. Falk, thuộc Trung tâm Nghiên cứu châu Âu, Nga và Á-Âu, Đại
học Toronto.
Bài viết tìm hiểu một số khía cạnh như quy mô và
tính chất của bất đồng chính kiến trong xã hội cộng sản ở Trung và Đông
Âu trước đây và đánh giá, xem xét kinh nghiệm hoạt động cũng như vai
trò lịch sử của các nhà bất đồng ở các nước này trong thời kỳ hậu cộng
sản. Sau đây là nội dung của bài.
Sau năm 1968, những hy vọng “cải tổ”
đối với chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ và các hoạt động chuyển hướng về
phía xã hội và nhà nước. Các trí thức như Adam Michnik và Jacek Kuroń ở
Ba Lan, Václav Havel và Václav Benda ở Tiệp Khắc và János Kis và Miklós
Haraszti ở Hungary đều thảo luận và viết về tầm quan trọng của tính tự
tổ chức của xã hội, một dạng thức tiến hóa mới nhưng chưa phải là cải
cách cấp tiến nhằm tạo ra không gian cho các hoạt động không bị Đảng
cộng sản hoặc một trong các tổ chức chính thức ngoại vi của Đảng kiểm
duyệt.
"Trong
một hệ thống cộng sản được bó lại với nhau bằng keo dính của hệ tư
tưởng, ở một mức độ nào đó, tất cả các công dân được yêu cầu phải "sống
trong dối trá" và chấp nhận, cổ súy những gì được yêu cầu, bất kể là
niềm tin thực sự hay chỉ để a dua"
Hiến chương 77 ở Tiệp Khắc ra đời như một phản
ứng trước vụ xét xử một nhóm nhạc rock ngầm hoạt động, nhóm ‘the Plastic
People of the Universe’ tình cờ liên kết nhiều người với các quá khứ
chính trị rất khác nhau nhưng đồng tâm phấn đấu vì một sự nghiệp chung.
Sau khi Hiệp ước Helsinki được ký kết vào năm 1976, nhóm Hiến chương đã
công khai buộc chính phủ Tiệp Khắc phải tôn trọng pháp luật. Các thành
viên nhóm Hiến chương đại diện cho một nhóm đa dạng của những người
Czech và Slovakia từng bước đề cập nhiều vấn đề về quyền con người. Ngay
cả khi họ nhấn mạnh lập trường "chống chính trị" và không trực tiếp
thách thức thế độc quyền của nhà nước đảng cộng sản, Hiến chương 77 trên
thực tế đã làm chính điều đó.
Các nhà bất đồng chính kiến của Nga vốn đa phần
có trình độ học vấn với nhiều khác biệt và tập trung ở đô thị, nổi tiếng
nhất trong số đó là khoa học gia Andrei Sakharov, cũng lấy cảm hứng từ
Hiệp ước Helsinki. Theo thời gian, những người bất đồng chính kiến Nga
dần dần mở cánh cửa, xét lại lịch sử Xô-Viết, một hành động cực kỳ can
đảm ở một đất nước đã hiện thực hóa cuộc cách mạng của nó thành một câu
chuyện chính thức, bất khả chất vấn.
'Chính là thể chế'
Nhóm "bất đồng chính kiến" nổi tiếng nhất mà quy
mô của nó quá lớn để gọi nó dưới cái tên này là ‘Công đoàn Đoàn kết ở
Ba Lan.’ Công đoàn tự do, tự quản và độc lập này trưởng thành từ một
loạt các cuộc đình công ở một nhà máy đóng tàu trên bờ biển Baltic của
Ba Lan hồi tháng 8/1980. Tuy nhiên, Công đoàn Đoàn kết đã không bị rơi
vào hư không. Cuối những năm 1970, một loạt tờ báo, tạp chí, bản tin độc
lập đã được công bố và một trường đại học ngầm đã được thiết lập thành
công (và trở thành mô hình cho những nỗ lực tương tự ở những nơi khác
trong khu vực).
Cuộc gặp lịch sử giữa cố Giáo hoàng Jean Paul II và lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết Walesa tại Gdansk 6/1987
Các tổ chức sinh viên và thậm chí tổ chức của
nông dân độc lập đã liên kết tạo thành một phần của Công đoàn Đoàn kết.
Tuy nhiên, Công đoàn Đoàn kết cũng gặp một số vấn đề như bị phân chia,
còn có sự do dự, bị ảnh hưởng bởi một số chia tách về thế hệ và chính
trị, và tinh thần của hoàn toàn dân chủ của nó đối lập với nhu cầu cần
có lãnh đạo chiến lược tập trung. Thời gian hoạt động ngầm kéo dài sau
thiết quân luật làm cho các thành viên tham gia bị mệt mỏi, với nhiều
lãnh đạo của Công đoàn bị bỏ tù. Tuy nhiên, cuối cùng chính quyền Ba Lan
đã không có sự lựa chọn mà phải cư xử với Công đoàn như một tổ chức tái
hợp pháp hóa trong bối cảnh kinh tế nghiêm trọng của đất nước, và cần
đến sự chuẩn y và tham gia của nhiều tổ chức để thực hiện những cải cách
triệt để. Như nhiều chính phủ trong khu vực bị buộc phải đàm phán do
làn sóng gia tăng của phong trào quần chúng trong năm 1989, chính phủ Ba
Lan vẫn nghĩ rằng họ có thể quản lý được một đối tác cấp dưới, nhưng
các phong trào quần chúng rộng lớn trong xã hội vốn ủng hộ phe đối lập
non trẻ đã quyết định tình hình khác đi.
Phạm trù "bất đồng chính kiến" đã và vẫn còn
trong vòng tranh luận. Liệu các độc giả và các nhà sản xuất ra các ấn
bản “samizdat” cũng là bất đồng chính kiến, hay chỉ những người đã viết
các tài liệu này mới đóng một vai trò tích cực và công khai hơn? Liệu
tiếp tục sử dụng thuật ngữ "bất đồng chính kiến" có hàm ý một quan hệ
ngầm "chúng ta đối nghịch với họ" mà độc tài cộng sản vẫn áp dụng trong
các kinh nghiệm của nó vốn là chỗ dung chứa cho những hành vi thích nghi
đôi khí tới mức bệnh hoạn, hay nhiều khi là bàng quan cá nhân nhưng
được ủng hộ công khai, cơ hội chủ nghĩa hay hoàn toàn trung thành với
chế độ? Havel đã trào phúng về "bất đồng chính kiến" trong bài viết nổi
tiếng của ông "Quyền lực của thảo dân” (Power of the powerless) khi ông
mô tả người bất đồng chính kiến, và mở rộng ra, tới bản thân ông “như
một phạm trù về công dân phụ bên ngoài thể chế quyền lực." Các nhà bất
đồng chính kiến có thể được ca ngợi ở nước ngoài và nhận được các bình
luận của giới nhà báo, đại sứ và hoạch định chính sách, nhưng họ thường
bị coi là những cây bút và những kẻ bất tuân phục làm phức tạp hóa cuộc
sống của những người xung quanh. Trong một xã hội cộng sản được bó lại
với nhau bằng keo dính của hệ tư tưởng này, ở một mức độ nào đó, tất cả
các công dân được yêu cầu phải "sống trong dối trá" và chấp nhận, cổ súy
những gì được yêu cầu, bất kể là niềm tin thực sự hay chỉ để a dua.
Bằng cách sống dối trá đó, như Havel đã nêu, "các cá nhân xác quyết thể
chế, hoàn chỉnh thể chế, tạo lập thể chế, và chính là thể chế."
'Rắc rối lớn nhất'
"Rắc
rối lớn nhất đối với Havel và những người khác là việc nhiều đồng
nghiệp bất đồng chính kiến của họ vẫn tiếp tục một cuộc sống khác với sự
dối trá, bằng cách tự báo cáo bí mật các hoạt động của mình cho cảnh
sát chìm hay mật vụ"
Rắc rối lớn nhất đối với Havel và những người
khác là việc nhiều đồng nghiệp bất đồng chính kiến của họ vẫn tiếp tục
một cuộc sống khác với sự dối trá, bằng cách tự báo cáo bí mật các hoạt
động của mình cho cảnh sát chìm hay mật vụ. Hành vi tốt nhất để chống
lại điều khó tránh khỏi này là hoàn toàn minh bạch. Các tổ chức như Hiến
chương 77 và Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan đã hoạt động hoàn toàn công
khai, các nhà lãnh đạo và người phát ngôn của họ được công khai biết đến
và công nhận. Tất cả các thông cáo và các ấn phẩm samizdat đều mang tên
của họ. Trong chừng mực có thể, họ cố gắng hoạt động phù hợp với các
chuẩn mực và giá trị mà họ ủng hộ, tiếp cận bằng sự đồng thuận, bằng
công khai tranh luận và đưa ra các quan điểm khác nhau, đấu tranh cho
các trình tự và tổng thể công bằng. Sự công khai trên thực tế là sách
lược bảo hiểm tốt nhất của họ, trong khi bí hiểm, nước đôi có thể dẫn
đến đặt điều, vu cáo hay bị tống tiền.
Tuy nhiên, vì sự theo dõi, kiểm duyệt và các mối
đe dọa bắt giữ, tống giam tùy tiện của chính quyền luôn hiện diện,
những người bất đồng chính kiến buộc phải rơi vào một thế giới của bất
chắn và thông tin không đầy đủ. Các hoạt động của họ phụ thuộc vào một
mức độ cao của tình bạn thân thiết và tin tưởng xã hội, nhưng điều này
lại thường bị các tin đồn, nhỏ to, sự khác biệt chính trị, xung đột cá
nhân và hành động khiêu khích có chủ ý làm xói mòn. Ngày nay chúng ta
được biết qua nhiều tiết lộ và qua việc tiếp cận các hồ sơ mật vụ rằng
một số người tham gia vào các phong trào bất đồng chính kiến đã báo cáo
về hoạt động của những người khác. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần lưu
ý rằng hành vi "báo cáo" có sự khác biệt đáng kể: không phải tất cả
những người cung cấp thông tin đều cung cấp cùng một loại hình hoặc cùng
tính chất thông tin, nhiều người đã bị chính quyền, chế độ cũ đe dọa và
bị đặt dưới các áp lực, cưỡng bức cá nhân, do đó tính trung thực tương
đối của các tập hồ sơ sẽ còn tiếp tục được mở ra cho các cuộc tranh
luận. Và một số khác thì cố chơi trò hai mặt, thường làm cho việc dán
nhãn một cá nhân cụ thể như một nhà "bất đồng chính kiến" hoặc người
"chỉ điểm"… trở nên quá phức tạp.
Giai đoạn Hậu 1989
Nhà cựu độc tài Nicolais Ceaucescu nắm quyền ở Romania từ 3/1974 đến 12/1989
Giai đoạn hậu 1989, nhiều nhà bất đồng chính
kiến thường được coi không hoàn toàn xác đáng là các anh hùng hay về mặt
lịch sử, là các nhà quán quân trong một câu chuyện kể vĩ đại, trong đó
cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản là không thể tránh khỏi. Những
người ăn mừng chiến thắng hậu chiến tranh lạnh cho rằng, mặc dù là
thiểu số, những cá nhân tự hy sinh đứng lên, nói ra sự thật trước cường
quyền, đã đóng góp một phần đáng khen ngợi và cần thiết trong thay đổi
chế độ. Thực tế, tất nhiên phức tạp, lẫn lộn và khó tiên đoán hơn thế.
Không có thời điểm nào mà bất kỳ các nhà bất đồng chính kiến hay những
phong trào của họ cho thấy dân chủ hóa và tự do hóa trên quy mô lớn là
có thể, hoặc rằng một kết thúc hòa bình cho cộng sản có thể xảy ra chỉ
thông qua thương lượng.
Thật vậy, nhiều người đã bị những người biểu
tình trẻ tuổi hay những thành viên cấp tiến cao độ chỉ trích rằng vào
những thời điểm quan trọng trong năm 1989, họ đã không đi đủ xa hoặc
không có hành động đủ nhanh. Nhưng thế hệ cũ của những người bất đồng
chính kiến, dày dạn kinh nghiệm trong lịch sử quốc gia vốn từng trải qua
nhiều chu kỳ sóng gió và đàn áp, đã tỏ ra thận trọng hơn. Ngày
04/6/1989 là ngày cuộc bầu cử tự do đầu tiên giành chiến thắng áp đảo
trong vùng của Công đoàn Đoàn kết, nhưng nó cũng là khởi đầu của cuộc
đàn áp của Bắc Kinh ở Quảng trường Thiên An Môn. Và trong khi nhiều nỗ
lực kiên trì đàm phán đã thu được những kết quả quan trọng và lâu dài,
như các cuộc đàm phán ở Hội nghị Bàn tròn ở Hungary và Ba Lan, không
phải tất cả các nhà lãnh đạo cộng sản đều sẵn sàng đồng ý một cách hòa
bình để đi tới thùng rác của lịch sử. Nicolai Ceauşescu của Romania là
một trường hợp điển hình.
'Vai trò lịch sử'
"Nhiều
nhà bất đồng chính kiến thường được lãng mạn hóa như các hình mẫu lý
tưởng và cô đơn về lòng can đảm chính trị trên một đại dương mênh mông
của sự cúi đầu tuân thủ"
Nhiều nhà bất đồng chính kiến thường được lãng
mạn hóa như các hình mẫu lý tưởng và cô đơn về lòng can đảm chính trị
trên một đại dương mênh mông của sự cúi đầu tuân thủ: một quan điểm đã
không nhận được sự chấp nhận công khai hay trở nên nổi tiếng ngay lập
tức trong thời kỳ hậu cộng sản. Bằng cách nào đó, chính sự tồn tại của
điều này nhắc nhở những người khác rằng họ đã không có lập trường can
đảm hoặc không chịu các rủi ro cá nhân: đã làm bất cứ điều gì phải làm
để tồn tại, để thích ứng với thực tế thời buổi khi còn ít người cảm thấy
đã được trao quyền lực để thách thức hay để nghĩ rằng có thể thay đổi.
Nhiều người không phải là những siêu sao trí tuệ và các nhà hoạt động
nổi tiếng nhất trong các phong trào đối lập đã bị lãng quên. Vai trò của
các nhà bất đồng chính kiến trong sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vẫn
còn nhiều tranh luận. Các kỳ vọng của người tiêu dùng gia tăng, sự thất
bại của nền kinh tế chỉ huy trì trệ, bế tắc tạo ra sự mọi mức độ nghiêm
trọng để đi tới đổi mới hoặc cải cách, nhân tố "Gorbachev" và sự thiếu
năng lực, vụng về của các nhà lãnh đạo mệt mỏi, tất cả đều có vai trò.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng các quốc gia có
các phong trào rộng rãi và hiệu quả hơn về bất đồng chính kiến và các
nhà lãnh đạo bất đồng đã có những kinh nghiệm tốt hơn về quá trình
chuyển đổi kinh tế, tự do hóa và dân chủ hóa nền chính trị trong hai
thập kỷ đầu tiên của giai đoạn hậu cộng sản. Đồng thời, các nước này,
đặc biệt là Ba Lan, Hungary, bây giờ là nước Đức thống nhất, Cộng hòa
Czech và Slovakia, đều có ít nhất một phần kinh nghiệm lịch sử hay các
ví dụ về quá trình dân chủ hóa vốn giúp cho họ kết nối sâu sắc hơn với
các truyền thống trí tuệ, tri thức và chính trị châu Âu và góp phần giúp
cho các nước này định vị tốt hơn trong quá trình đi tới thành công. Tuy
nhiên, các kinh nghiệm cũng giúp cho các chính trị gia và các nhân vật
công chúng trong tương lai với tư cách những nhà bất đồng chính kiến về
sau phát triển được những "kỹ năng" để phụng sự đất nước của họ tốt
nhất: Václav Havel đã trở thành Tổng thống của Tiệp Khắc và sau đó là
của Cộng hòa Czech, hay Adam Michnik trở thành Tổng biên tập lâu năm của
Gazeta Wyborcza, tờ báo được Ba Lan trọng vọng.
Tác giả Barbara J. Falk là Phó Giáo sư làm
việc tại Khoa Nghiên cứu Quốc phòng, thuộc viện Canada Forces Colleage
và Trung tâm Nghiên cứu châu Âu, Nga và Á-Âu, thuộc Đại học Toronto. Bà
có nhiều công trình nghiên cứu về các chủ đề từ chiến tranh lạnh, quan
hệ quốc tế cho tới chính sách công ở châu Âu.