Tống Văn Công
Trong bản tự kiểm điểm ngày 22-2, ở phần “tự nhận một hình thức kỷ luật”, tôi đã viết:
Là
một đảng viên hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, 82
tuổi còn làm việc hợp đồng, lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy
thoái của Đảng, tôi nghĩ rằng, tôi không phải thuộc số không nhỏ đảng
viên thoái hóa chính trị mà chính những người bảo thủ, giáo điều không
sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh
hùng trong sự nghiệp giải phóng, nay trở thành một Đảng độc đoán, tham
nhũng mới đúng là những kẻ suy thoái chính trị. Do đó tôi không thể nhận
bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên là suy thoái tư tưởng chính trị.
Tuy
vậy, tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin nhường cho Đảng quyền
khai trừ mình. Bởi vì làm như vậy, tôi sẽ yên lòng rằng, Đảng khai trừ
tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và thề
phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó mà mai kia tôi sẽ không còn quá băn
khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn quá bức xúc cứ muốn góp ý
xây dựng.
Ngày 24 tháng 2
năm 2014, tôi nhận được văn thư của đảng ủy cho rằng tự kiểm điểm của
tôi “chưa đạt yêu cầu”, phải “nghiêm túc viết lại bản tự kiểm điểm và tự
nhận hình thức kỷ luật”. Cùng với văn thư trên, có bản gợi ý nêu ra ba
trường hợp mà theo Quyết định 47 -QĐ/TW là phải khai trừ: “Có quan điểm
ủng hộ hoặc tán thành đa nguyên chính trị, đa đảng; công khai phê phán
bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung
dân chủ của Đảng.”
Tôi hiểu, Ban chỉ đạo muốn
bảo rằng: Khuyết điểm của tôi là phải tự nhận hình thức khai trừ ra khỏi
Đảng. Không làm như vậy thì tôi gây khó cho tổ chức Đảng. Nhưng làm như
vậy thì thật là khó cho tôi. Bởi vì cho đến nay, tôi vẫn tự hào về cái
ngày là anh lính vệ quốc đoàn, viết đơn xin vào Đảng để được noi gương
các đảng viên trong giờ phút gay go của chiến dịch Cầu Kè năm 1950 (Trà
Vinh) đã hô to “Các đảng viên cộng sản! Xung phong!”. Tôi vẫn tự hào
ngày được vào Đảng, giơ tay thề hy sinh chiến đấu cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất, dân chủ cho nhân dân. Còn chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là gì thì, thú thật không chỉ tôi mà cả
các bậc đàn anh cũng chẳng hiểu!
Càng tự hào về
lý tưởng cao cả mà mình đã bỏ cả đời để phục vụ, tôi càng day dứt, xấu
hổ vì sự thoái hóa, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ những người
trong guồng máy lãnh đạo, khiến Đảng cầm quyền phạm nhiều sai lầm, làm
mất hết niềm tin của nhân dân, làm khoảng cách tụt hậu của đất nước càng
ngày càng xa so với các nước khu vực. Những người lúc nào cũng hô hào
kiên trì ý thức hệ lỗi thời, cấm không được tự diễn biến, thực ra, họ
chỉ nhằm duy trì quyền lực, khai thác “lợi ích nhóm”, làm giàu cho bản
thân, bất chấp thiệt hại của nhân dân lao động và đất nước. Giặc “nội
xâm” bao giờ cũng là chỗ dựạ của giặc “ngoại xâm”. Bất kể bọn bành
trướng hung hăng ra rả khẳng định toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa, cả “lưỡi
bò” Biển Đông là của Trung Quốc, lời họ đáp lại chủ yếu vẫn là kiên trì
“16 chữ vàng” và “4 tốt”, vì đây là “đồng chí cùng chung ý thức hệ”,
cùng chống lại các thế lực thù địch phương Tây. Truyền thống bất khuất,
lòng tự tôn dân tộc bị xúc phạm nghiêm trọng, làm mất dần sự đồng thuận
xã hội trước hiểm họa đe dọa sự tồn vong của dân tộc, mà thực ra cũng là
sự tồn vong của chính Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì
những lẽ đó mà thời gian qua, tôi hết sức tự kiềm chế, cố gắng tiếp tục
đứng trong hàng ngũ Đảng để cùng với các đảng viên chân chính trực tiếp
đấu tranh, góp ý xây dựng Đảng, hi vọng những người lãnh đạo nhận ra
sai lầm, vứt bỏ ý thức hệ lạc hậu, tiến tới một Đại hội Đảng đổi mới lần
2: Đổi mới chính trị, thực hiện nhà nước pháp quyền đúng như các thể
chế chính trị hiện đại. Từ đó mà vực dậy niềm tin đang cùng kiệt của
nhân dân, tiếp tục sứ mệnh mà đảng viên và nhân dân giao cho.
Hôm
nay, con đường ấy đã bị chặn lại. Đau lòng lắm, nhưng phải đành vậy
thôi! Từ giờ phút này, từ ngày hôm nay, 25-2-2014, tôi xin nói lời chia
tay với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 25 tháng 2 năm 2014
Tống Văn Công
Phụ lục:
BẢN KIỂM ĐIỂM KHÔNG ĐẠT YÊU CẦU
TỐNG VĂN CÔNG
Ngày
14-2- 2014, tôi được Đảng ủy mời họp tại văn phòng đảng ủy phường Tân
Kiểng, quận 7, TP HCM, để nghe chỉ đạo tự kiểm điểm về những khuyết điểm
của mình. Do không được trao văn bản, tôi đã ghi chép mấy điểm chính:
Từ năm 2009 đã viết hơn 30 bài trái quan điểm của Đảng, đưa lên mạng gây
tác động xấu; có 15 cuộc kiểm điểm góp ý mà không sửa chữa; có những
bài chống Trung Quốc, gây chia rẽ hai Đảng, hai nước xã hội chủ nghĩa;
xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh; tự diễn biến hòa bình suy thoái chính
trị: cổ vũ tam quyền phân lập, đa nguyên, đa đảng, vi phạm 19 điều cấm
đảng viên không được làm theo Quyết định 47- QĐ/TW của Bộ Chính trị.
Đồng chí Công phải viết bản tự kiểm điểm và tự nhận một hình thức kỷ
luật của Đảng.
♦
Tháng
9 năm 2009 tôi viết bài trên với mở đầu bằng câu “Tổ quốc Việt Nam đang
đứng trước hai hiểm họa: giặc ngoại xâm và giặc nội xâm”.
Từ
2005, Trung Quốc bắt đầu bắn giết đuổi bắt ngư dân đòi tiền chuộc. Ngày
9-1-2005, chúng bắn chết 9 ngư dân Hoằng Hóa, Thanh Hóa, bắn bị thương 9
người, bắt sống 9 người đòi tiền chuộc mỗi người hơn 100 triệu đồng.
Các hãng tin nước ngoài đưa tin, ta im lặng. Sau 4 ngày, người phát ngôn
Trung Quốc Khổng Tuyền tuyên bố “Qua 55 năm quan hệ ngoại giao hai nước
đã bước qua giai đoạn phát triển mới vô cùng tốt đẹp”. Tiếp theo Bộ
Quốc phòng cử đoàn cán bộ quân sự cao cấp sang Trung Quốc học tập chính
trị. Nhưng không vì thế mà Trung Quốc giảm bớt các hành động bắn giết,
đuổi bắt ngư dân. Tháng 6 năm ngoái (2013), trong khi người dân bức xúc
vì liên tiếp hai tàu cá Quảng Ngãi, bị bắn chìm, một ngư dân chết thì
báo chí đưa tin ngày 6-6-2013, Bộ Quốc phòng cử 22 cán bộ cao cấp sang
Trung Quốc học chính trị, đây là đợt thứ 6.
Năm
2009 còn có chuyện mở đầu thực hiện với Trung Quốc khai thác bôxit Tây
Nguyên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi liên tiếp ba thư yêu cầu ngưng dự
án này với hai lý do: Tây Nguyên là địa bàn an ninh quốc phòng, không
nên đưa nước ngoài khai thác; hai là không có hiệu quả kinh tế. Các nhà
khoa học tổ chức nhiều cuộc hội thảo và kiến nghị giống như Đại tướng,
có nêu thêm cảnh báo sẽ có hàng vạn tấn bùn đỏ trên cao hơn 1000 mét có
thể đổ ụp xuống làm miền Đông và Sài Gòn chết khát. Nhưng Đảng, Nhà nước
ta vẫn kiên trì thực hiện thông cáo chung đã được TBT Nông Đức Mạnh cam
kết với Đảng bạn. Năm 2013, nhà máy Tân Rai đã cho ra sản phẩm. Trung
Quốc mua dưới giá thành. Tính ra mỗi năm lỗ khoảng 100 triệu đô la.
Những vị có trách nhiệm xin miễn giảm thuế và cam kết từ năm 2020 sẽ lãi
to!
Về hiểm họa nội xâm: Tham nhũng tỏ ra bất
trị, cứ tăng nhanh từng năm, tháng. Tại Hội nghị Trung ương 3, năm 2006,
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh phát biểu: “Tham nhũng là một trong những
nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Là một đảng viên, sao có thể
vô cảm trước “sự sống còn” ghê gớm ấy? Tuy nhiên dù rất nhiều cảnh báo
góp ý, 6 năm sau, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài diễn văn khai
mạc Hội nghị Trung ương 4 sáng ngày 26 tháng 12 năm 2011 có đoạn như
sau: “Đặc biệt có một câu hỏi lớn rất day dứt, trăn trở lâu nay, cần
được trả lời cặn kẽ là: Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung ương
rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều
cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu? Tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng
phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả ở cấp
cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng
hơn, làm xói mòn lòng tin đối với Đảng? Vướng mắc chính là chỗ nào?”.
Như
vậy là dù 30 năm với rất nhiều nghị quyết, chỉ thị, tham nhũng vẫn
không lùi nhưng Tổng bí thư vẫn cho rằng Nghị quyết, chỉ thị rất đúng!
Sau
một năm thi hành Nghị quyết Trung ương 4, Tổ chức Minh Bạch thế giới
xếp hạng Việt Nam tụt 11 bậc về kết quả chống tham nhũng. Nhân loại tiến
bộ đã rút ra bài học thực tế rất ngắn gọn về tham nhũng như sau: Tham
nhũng là do Nhà cầm quyền độc tài, quyền quyết định của viên chức quá
rộng, thiếu công khai minh bạch và quyền tư pháp không độc lập, do đó
không kiểm soát được quyền lực.
Lẽ ra những
người lãnh đạo của Đảng cầm quyền sau hàng chục năm với nhiều nghị quyết
vẫn không chống được tham nhũng thì phải hiểu rằng các nghị quyết ấy
sai, hoặc chưa đầy đủ, phải học cách làm của những quốc gia chống tham
nhũng thành công đặt ra cho mình những câu hỏỉ từ bài học của nhân loại.
Quan
liêu, độc quyền đẻ ra tham nhũng, làm suy thoái Đảng cầm quyền, gây ra
khủng hoảng chính trị. Lịch sử 84 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam chưa
bao giờ có chuyện Tổng bí thư thay mặt Bộ Chính trị đề cử hai người vào
Bộ Chính trị mà bị bác bỏ cả hai và bầu hai người khác. Chưa bao giờ có
tình trạng các nhà lãnh đạo công kích nhau trước nhân dân. Chưa bao giờ
trong một cuộc họp báo công khai mà ông nói gà, bà nói vịt. (Họp báo đầu
năm ngày 7-2, Đinh Thế Huynh nói, báo chí thông tin, bình luận phải có
lương tâm và trách nhiệm tạo ra sự đồng thuận, không được phép nói trái
làm phân tâm các véctơ phát triển. Sau đó, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói:
“Tạo đồng thuận không phải là khen xuôi chiều mà phải phát hiện phê
phán với tinh thần xây dựng”). Chưa bao giờ có tình trạng nhiều đảng
viên tuyên bố bỏ Đảng như bây giờ!
Từ khủng hoảng chính trị đã gây ra khủng hoảng toàn diện cho đất nước. Chỉ xin nêu sơ lược vài nét:
+
Nền kinh tế được hi vọng sẽ sớm xuất hiện “con rồng Việt Nam” đã lâm
vào khủng hoảng hai năm trước khủng hoảng của thế giới, đến nay theo
Viện trưởng Quản lý kinh tế Trần Đình Thiên, “kinh tế thế giới đã bước
vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam thì còn ở dưới đáy, bởi nợ xấu, sở
hữu chéo, đề án tái cơ cấu tiếp tục nằm trên giấy”. (Tại Hội thảo mùa
Thu ở Huế)
+ Nông dân kéo đi khiếu kiện vượt cấp
hàng chục năm, tới lúc dùng súng chống cưỡng chế. Nguyên chủ tịch tỉnh
lúa An Giang Nguyễn Minh Nhị nói: “Bao nhiêu năm theo Đảng giành độc
lập, có độc lập rồi thì mất quyền sở hữu ruộng đất, dắt díu nhau lên các
khu công nghiệp tìm sống với đồng lương bèo bọt” (báo Nông nghiệp Việt
Nam Tết Tân Mão).
+ Giai cấp công nhân được mệnh
danh là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng của mình. Nhưng họ
đang trong tình trạng cùng khổ chưa từng có. Giống như giai cấp công
nhân ở thế kỷ 19 mà Marx – Engels đã mô tả, nhưng còn khổ hơn vì không
được phép đình công. Theo Tổng Liên đoàn Lao động lương tối thiểu của họ
chỉ đủ cho 60% mức sống tối thiểu, có 94% phải tăng ca, tăng giờ. Họ đã
tự tổ chức hơn 5000 cuộc đình công bị coi là bất hợp pháp vì không được
công đoàn lãnh đạo! Trước đây công nhân còn cử ban đại diện ra đối
thoại với chủ, nhưng từ 2013 không còn ai dám đứng ra làm đại diện nữa,
vì sau khi tình hình ổn định thì người đại diện bị chủ sa thải, hoặc bị
bắt về tội kích động đình công.
+ Năm 2013 Công
ty tư vấn tài sản WealthX và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS thông báo: “Mặc cho
kinh tế khó khăn, số người “siêu giàu” ở Việt Nam (có tài sản 30 triệu
USD) đã tăng 15%, trong khi đó có 8,1 triệu người nghèo đói”. Có thể nêu
tên hai người nghèo phải tìm cái chết đã được đăng báo là: Chị Lê Thị
Ngọc Nhãn ở Cà Mau trước khi tự tử đã gửi thư cho Trung tá Diện: “Sau
khi cháu chết rồi xin chú giúp các con của cháu được vào trại mồ côi.
Cháu đội ơn chú đời đời”. Chị Nguyễn thị Mỹ Nhân cũng ở Cà Mau tự tử để
được công nhận diện nghèo, đã gửi thư cho Đảng ủy xã: “Xin thấu hiểu
hoàn cảnh không lối ra của gia đình tôi, sau khi tôi chết, đồng ý cấp sổ
nghèo cho chồng con tôi được sống.”
+ Đạo đức
xã hội băng hoại chưa từng thấy. Một dân tộc sống theo phương châm
“thương người như thể thương thân”, những năm kháng chiến nhà nhà đêm
không gài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Sau 38 năm sống trong chế độ xã hội
chủ nghĩa sao biến đổi ghê gớm như vậy? Con đánh giết cha mẹ, cháu đánh
giết ông bà, vợ đốt chồng. Thanh niên ném đá lên ô tô tàu hỏa làm vui.
Thợ vá xe rắc đinh bẫy người đi mô tô. Đi lao động nước ngoài thì trộm
cắp và bỏ trốn để sống bất hợp pháp. Các báo mới đưa tin thày trò đánh
nhau giữa lớp. Chuyện thầy gạ tình cho điểm, ép mua dâm học trò vị thành
niên liên tục xảy ra. Điều tra của Trung tâm xã hội học cho hay: Học
sinh cấp 1 có tỉ lệ nói dối 22%, cấp 2 tăng lên 50%, cấp 3 64%, đại học
80 %. Chúng ta sắp có lớp trí thức mới nói dối nhất thế giới. Nguyên Bộ
trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình nói: “Giáo dục Việt Nam kém hơn cả
Campuchia, Lào” (trên báo Giáo Dục).
Cũng chính
vì không chịu đổi mới chính trị, khư khư ý thức hệ giáo điều mà không có
một sách lược đối ngoại đúng đắn nhất là đối với Trung Quốc, bị họ lòe
bịp “16 chữ vàng” và “4 tốt”. Trung Quốc chưa bao giờ là nước xã hội chủ
nghĩa, và ngày càng tỏ ra là một nước phát xít. Sau giải phóng họ bắt
đầu thôn tính Tây Tạng, Tân Cương, đàn áp, không ghê tay, sau đó tấn
công biên giới Ấn Độ, Liên Xô… Họ dùng hai thủ đoạn xảo trá để buộc
chúng ta khuất phục: Một là kể công ơn đã giúp ta; hai là đề cao cùng
chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, phải cùng “chống âm mưu diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch phương Tây. Họ khuyên ta cử cán bộ sang
nghe họ giảng dạy về bảo đảm an ninh chính trị, chống âm mưu diễn biến
hòa bình và ta đã làm theo.
Nên biết, ngày xưa
họ giúp ta chỉ vì sách lược dùng máu Việt Nam để mặc cả với Mỹ và phương
Tây và để có điều kiện thao túng ta. Năm 1954, họ ép ta nhận sự chia
đôi đất nước. Năm 1972 họ bắt tay Nixon bán đứng ta, để chiếm trọn Hoàng
Sa. Năm 1975 họ nhờ tướng Pháp Vanuxem khuyên Dương Văn Minh lên tiếng
cầu cứu, Bắc Kinh sẽ cứu Việt Nam Cộng hòa, bị tướng Minh từ chối. Năm
1979, họ xui Pôn Pốt đánh ta, rồi cho rằng ta bị kẹt ở Campuchia, họ đưa
600.000 quân xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc, giết hàng vạn dân
thường, đập phá từng cái nồi, hãm hiếp, giết chết đàn bà con trẻ ném
xuống giếng. Bị thua đau, họ rút quân, nhưng vẫn chiếm giữ nhiều vùng
núi hiểm trở. Năm 1988 họ tấn công đảo Gạc Ma và các đảo ở Trường Sa, xả
súng giết 74 hải quân ta. Mỗi dịp kỷ niệm ngày hải quân họ đưa phim này
ra chiếu. Hiện nay họ vẫn tuyên bố toàn bộ Trường Sa và 80% Biển Đông
là của họ, việc đánh chiếm chỉ là chờ thời cơ.
Nhiều
đảng viên cộng sản dẫn đầu biểu tình phản đối tội ác của chúng đã bị
đuổi bắt. Nhà văn Nguyên Ngọc đi biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn
đã bị Đài Truyền hình Hà Nội gọi là bọn phản động, ông kiện, tòa trả lại
hồ sơ không xử. Tôi và đồng chí giáo sư Tương Lai trên đường đi dự cuộc
mít tinh phản đối Trung Quốc xâm lược tại Nhà hát Thành phố (ngày hôm
trước đã báo với ông Lê Minh Trí Phó chủ tịch UBND TP HCM) đã bị hơn
chục xe cảnh sát bao vây buộc phải vào đồn.
Quá
bức xúc trước tình trạng khốn khổ của ngư dân, anh André Menras tên Việt
Nam là Hồ Cương Quyết, người từng treo cờ Mặt trận giải phóng trước
Nghị viện Sài Gòn, bị Chính quyền Sài Gòn bỏ tù, đã xin Chủ tịch Nguyễn
Minh Triết cho phép làm bộ phim “Hoàng Sa - Việt Nam, nỗi đau mất mát”.
Anh bỏ tiền dành dụm nghỉ hưu đem làm phim. Phim làm xong được duyệt,
nhưng cho tới nay vẫn cấm chiếu. Một lần họp mặt với bạn tù thời chống
Mỹ ông đem phim ra chiếu đã bị cảnh sát giải tán. Hồ Cương Quyết búc xúc
kêu: “Bác Hồ ơi, Bác sống lại mà coi!”.
Nhân đây tôi muốn nhắc lại trong cuộc kiểm điểm tôi về bài viết ”Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ”,
có chi ủy viên đã nói: “Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa. Ta
nói của ta. Trung Quốc nói của Trung Quốc. Đồng chí Công nói vậy là gây
chia rẽ hai Đảng và hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Lãnh đạo các cấp
ủy không ai có ý kiến gì. Tôi không chê trách các đồng chí mà chỉ băn
khoăn lo lắng, vì sao Đảng lãnh đạo không quan tâm giáo dục cho đảng
viên và nhân dân hiểu lời của đức Trần Nhân Tông: “Các ngươi phải nhớ
lời ta dặn: Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào
tay giặc”. Tháng trước, Thủ tướng chỉ đạo phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa
vào sách giáo khoa, báo vừa đăng lên đã bị gỡ xuống. Quan hệ với Trung
Quốc gây thiệt hại về phía Việt Nam chưa thể lường hết. Qua 20 năm, FDI
từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% nhưng Trung Quốc lại trúng thầu hơn 90% các
công trình điện, khai khoáng, luyện kim, hóa chất. Họ đưa cho ta thiết
bị lỗi thời. Mấy năm qua ngành mía đường cứ kêu bị đường nhập lậu đánh
bại là do thiết bị Trung Quốc cũ kĩ, tiêu hao năng lượng, lao động
nhiều, giá thành cao, chất lượng kém. Sau đường là xi măng và nhiều thứ
khác. Các công trình trúng thầu, họ đưa lao động cơ bắp người Trung Quốc
sang xây nhà ở, lập nhà hàng, lấy vợ sinh con, mua đất đứng tên vợ. Các
làng Trung Quốc hình thành khắp nơi từ Móng Cái đến Hải Phòng, Ninh
Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Khánh Hòa… Thương lái Trung Quốc gây
khó từ Lạng Sơn tới tận Cà Mau, họ hợp đồng mua rễ hồi, móng trâu, khoai
lang, đỉa, ốc bươu vàng, lá vải… ít lâu thì họ biến mất.
Chúng
ta đã lập quan hệ hữu nghị hợp tác với những “kẻ thù cũ” Pháp, Mỹ, đặc
biệt đã đưa Tổng thống Pháp Mitterand đi thăm chiến trường xưa Điện Biên
Phủ nơi họ bị bắt sống 17.000 quân nhục nhã. Suốt hơn nửa thế kỷ chúng
ta vẫn long trọng tổ chức những ngày kỷ niệm chiến thắng. Thậm chí hàng
ngày báo chí, đài tuyền hình phát thanh còn ra rả chửi thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ. Nhưng không vì thế mà họ gây khó khăn cho ta, thậm chí họ vẫn
viện trợ, tạo điều kiện cho ta phát triển. Cuộc chiến chống xâm lược
biên giới phía Bắc từng được báo Nhân Dân bình luận với tựa đề “Chiến
công hiển hách ghi vào lịch sử chống xâm lược của dân tộc”, thế nhưng
sau khi lập lại quan hệ bình thường với Trung Quốc thì dường như bị buộc
phải quên chiến công hiển hách ấy đi? Tại sao với Trung Quốc chúng ta
không dám đòi bình đẳng như các quốc gia khác? Rất tệ hại là chủ trương
đục bỏ bia chiến thắng ở Cầu Chánh Khê, bôi xóa tên liệt sĩ Hoàng Thị
Hồng Chiêm trên tượng đài của chị và đổi tên trường trung học mang tên
chị thành trường Bình Ngọc (thuộc Móng Cái). Ở tận núi Quyết, thành phố
Vinh Nghệ An, người ta còn đập bỏ tấm bia của Chủ tịch Hồ Chí Minh ca
ngợi Quang Trung vì có hai chữ “giặc Tàu”. Bài thơ như sau:
“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
“Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu.
“Ông đà chí cả, mưu cao,
“ Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
“Cho nên Tàu dẫu làm hung,
“Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà”.
Cách
xử lý như trên cùng với việc cho cảnh sát đuổi bắt, ném lên xe những
đảng viên và nhân dân đi biểu tình mỗi lần Trung Quốc gây hấn vô lý, có
phải là sách lược sáng suốt hay không? Một Đảng trong sạch không tham
nhũng, tôn trọng và hết lòng phục vụ nhân dân, đồng thời không khuất
phục trước kẻ thù hung bạo là hai điều kiện quyết định để có thể đứng
vững và tồn tại.
Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài
nói sau ngày chiến thắng biên giới phía Bắc năm 1979 có đại ý: Trung
Quốc từ lâu có âm mưu bành trướng xuống phía Nam. Khi chúng có điều kiện
thực hiện thì đầu tiên sẽ là xâm lược Việt Nam. Muốn không bị xâm lược
chúng ta phải mạnh lên, cả nước đoàn kết một lòng. Chúng ta không thù
hằn Trung Quốc, coi nhân dân Trung Quốc là anh em. Bọn phản động cầm
quyền chỉ là một bè lũ. Ý kiến của ông vẫn còn nguyên giá trị thời sự!
Nguyên
nhân của mọi nguyên nhân gây khủng hoảng và hèn yếu trước ngoại bang là
do Đảng không đổi mới chính trị tương ứng với đổi mới kinh tế. Thế nào
là đổi mới chính trị? Nội dung chủ yếu đã có trong hai câu mở đầu Tuyên
ngôn độc lập năm 1945 trích từ Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ: “Tất cả
mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn nhân quyền 1791
của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải
luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hơn
60 năm qua Liên Hiệp Quốc đã lần lượt ban hành nhiều Tuyên ngôn, Công
ước cụ thể hóa các quyền tự do của con người. Nhà nước Việt Nam cũng đã
ký cam kêt thực hiện nhiều công ước quan trọng.
Các
quyền tự do gồm có: Quyền sở hữu tài sản riêng, quyền tự do tư tưởng,
nhận thức và tôn giáo, tự do ngôn luận, báo chí, tự do hội họp và lập
hội, tự do đi lại và cư trú, quyền tham gia quản lý đất nước trực tiếp,
hoặc thông qua lựa chọn người đại diện bằng cuộc tự do bầu cử thường kỳ,
chân thực, bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín. Các quyền tự
do nói trên đều được ghi vào Hiến pháp, nhưng suốt 70 năm chưa được
thực hiện hoặc thực hiện một cách hình thức. Cho nên nhân dân có câu
“Đảng cử dân bầu”. Quyền lập hội chỉ là vào các hội, đoàn do Đảng lập
ra. Quyền tự do báo chí là viết báo của Đảng, nhà nước. Hồ Chủ tịch từng
nói, báo nhà nước lập ra không phải là báo chí tự do (sách Hồ Chủ tịch với báo chí, do Hội nhà báo TP HCM xuất bản 1980, trang 9). Đó là trái với các Công ước mà nhà nước ta đã ký kết.
Để
các quyền tự do của con người trở thành hiện thực thì phải có một chế
độ dân chủ để thực thi. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do của con
người bằng một bản hiến pháp đảm bảo pháp quyền, thể hiện trung thực ý
chí chính trị của nhân dân. Theo bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
đã nói ở trên, điêù 16 có nội dung như sau: “Một xã hội mà trong đó các
quyền con người không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không
được tôn trọng, thì hiến pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý
nghĩa gì”. Tức là phải có nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập
thì mới có thể đảm bảo quyền tự do của con người. (Nga và các nước Đông
Âu ngày nay đều ghi “tam quyền phân lập” trong hiến pháp của họ). Thông
điệp đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: “Dân chủ và nhà nước
pháp quyền là cặp song sinh trong thể chế chính trị hiện đại” là có ý
nghĩa như vậy. Nhà nước dân chủ phải là nhà nước pháp quyền với tam
quyền phân lập. Nhà nước dân chủ phải tôn trọng đời sống của một xã hội
dân sự, nội dung phong phú của nó đã được ghi đầy đủ trong “Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” mà nhà nước Việt Nam đã ký cam
kết thực hiện từ ngày 24 -9-1982, nhưng sau 30 năm hầu như chưa thực
hiện được gì đáng kể!
TẠI SAO TỰ DIỄN BIẾN?
Cuộc
sống luôn luôn biến động. Cái hôm qua cho là đúng hôm nay không còn
thích hợp. Cho nên chống “tự diễn biến”, chống “diễn biến hòa bình” tức
là chống lại sự thay đổi, chống tinh thần sáng tạo tìm những điều thích
hợp trong hoàn cảnh mới, chống trào lưu tiến bộ, cố ôm giữ mớ giáo điều
mà ngay những nhà mác xít trước đây cũng không chấp nhận. Phép biện
chứng cho rằng, mọi sự vật đều tiệm tiến dần dần đi tới đột biến. Tôi
xin ôn lại về sự “tự diễn biến” của chính hai ông tổ khai sáng chủ nghĩa
cộng sản là Karl Marx và F. Engels.
Năm 1848
Marx và Engels công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cơ sở lý luận của
Quốc tế Cộng sản thứ nhất. Trong đó có những luận điểm về đấu tranh giai
cấp, cho rằng giai cấp tư sản tạo ra những người đào huyệt chôn chính
nó, cách mạng vô sản sẽ lật đổ nhà nước tư sản, thực hiện chuyên chính
vô sản, xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ thị trường, xóa bỏ cả tôn giáo… Từ thập
niên 60 thế kỷ 19 hai ông bắt đầu thấy có sự biến đổi trong chủ nghĩa tư
bản và chủ trương đấu tranh hợp pháp, không làm cách mạng để lật đổ nhà
nước tư bản. Sau khủng hoảng kinh tế năm 1866, các công ty cổ phần và
các ngân hàng đầu tư quy mô lớn ra đời làm thay đổi cơ cấu xã hội của
chủ nghĩa tư bản. Marx nhận xét, vậy là nhà tư bản “đã từ bỏ sản nghiệp
tư hữu của chủ nghĩa tư bản họ chỉ còn là chủ cổ phần của xí nghiệp”. Do
đó, phát biểu với quần chúng ngày 8-9-1872 ở Amsterdam (Hà Lan), Marx
công nhận các nước như Mỹ, Anh, Hà Lan… công nhân có thể đạt được mục
đích của mình bằng biện pháp hòa bình. Hai ông tán thành quan điểm của
Ferdinand Lassalle lãnh tụ Đảng Xã hội Dân chủ Đức chủ trương hòa bình
đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tan rã quốc tế thứ nhất năm 1876, hai
ông không tìm cách khôi phục lại mà bắt đầu soạn thảo Cương lĩnh chuẩn
bị ra đời Quốc tế thứ 2. Năm 1883 Marx qua đời, do đó Engels là người
chủ trì Đại hội quốc tế của những người lao động xã hội chủ nghĩa tại
Pari từ 14 đến 21 tháng 7 năm 1889 thành lập Quốc tế thứ 2 mà nội dung
của nó hoàn toàn khác với Tuyên ngôn cộng sản năm 1948 ở những điểm lớn
sau đây:
- Đảng và công đoàn đấu tranh bênh vực, bảo vệ quyền lợi mọi mặt của công nhân lao động.
-
Không dùng bạo lực cách mạng lật đổ nhà nước tư sản mà đấu tranh nghị
trường đa nguyên đa đảng, chấp nhận thể chế đại nghị, cử đại diện tham
gia bầu cử, nếu thắng cử thì nắm quyền chính trị thực hiện chế độ xã hội
- dân chủ.
- Trong Đảng không lấy lập trường, quan điểm ý thức hệ sát phạt nhau mà tự do tư tưởng, và tất cả thượng tôn pháp luật.
Ngày
6-3-1895, Engels viết lời tựa cho quyển sách “Đấu tranh giai cấp ở
Pháp”, trong đó có đoạn như sau: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta mắc sai lầm.
Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch sử còn làm được
nhiều hơn, không những xóa bỏ những mê muội của chúng ta mà còn thay
đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản. Phương pháp đấu tranh năm
1848 đã lỗi thời về mọi mặt”.
Lênin không chấp
nhận đường lối của Quốc tế thứ 2. Do đó không thể xem ông là người kế
tục Marx và Engels. Ông kế thừa chủ nghĩa Blanqui, phái bạo lực trong
Quốc tế thứ 1, cho rằng, chỉ cần dựa vào cách mạng bạo lực là có thể
sáng tạo được một thế giới mới không có bóc lột và áp bức.
Do
Lênin chống Quốc tế 2, Đảng Xã hội Dân chủ Nga chia ra thành hai phái
đối lập nhau, phái theo Lênin chiếm đa số nên gọi là bonsevich. Trái với
dự đoán của Marx - Engels là cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ thành công ở
nước tư bản phát triển nhất như Đức, Lênin lãnh đạo Cách mạng tháng
Mười thành công ở nước Nga nông nghiệp lạc hậu. Điều này đã làm cho ông
tự tin rằng mình không kém Marx, mà còn đúng hơn Marx! Ông đề ra các
nguyên lý về chuyên chính vô sản không phải là chuyên chính của cả giai
cấp mà là chuyên chính của Đảng độc quyền, không còn bảo đảm “sự tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người” (Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản), ông đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ, …
Ngay
sau cách mạng tháng Mười thắng lợi đã có nhiều nhà cách mạng Nga và thế
giới không đồng ý với các quan điểm của Lênin như Plekhanov, Kausky,
Rosa Luxemburg … Trong đó, bà Luxemburg được Franz Mehring người viết
tiểu sử của Marx cho là “khối óc tốt nhất đứng sau Marx”, bà nhẬn định
“chuyên chính vô sản của Lênin đối lập với dân chủ”.
Các
ý kiến phản đối cho rằng Lênin sẽ làm chế độ cách mạng Liên Xô đi tới
chỗ sụp đổ đã được nhà nghiên cứu xã hội John Reed ghi lại trong quyển
“Mười ngày rung chuyển thế giới” (Việt Nam đã dịch và xuất bản hai lần
năm 1960 và 1977). Lênin đọc sách này một cách hứng thú, ông đã viết thư
cỗ vũ nhà xuất bản in sách, chấp nhận công khai các lời chỉ trích nói
trên đối với ông. Do đó, sau khi Liên Xô sụp đổ nhiều nhà bình luận cho
rằng chính Lênin mới là người gieo mầm cho Liên Xô bị tan rã 70 năm sau.
Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu có uy tín đều
cho rằng chính các Đảng xã hội - dân chủ mới là những Đảng thừa kế đúng
đắn tư tưởng của Marx và Engel. Nhiều nước Bắc Âu vận dụng tư tưởng này
đã giành thắng lợi lớn, thực hiện đa nguyên, đa đảng, nhưng luôn giành
thắng lợi trên nghị trường, xây dựng nhà nước phúc lợi, nâng cao đời
sống nhân dân, đặc biệt là công nhân lao động, khoảng cách giàu nghèo
không đáng kể, tham nhũng hầu như không có.
Đảng
xã hội - dân chủ Thụy Điển, chấp nhận đa nguyên, dựa vào người lao
động, đấu tranh nghị trường. Có thời gian rất dài Đảng liên tục cầm
quyền 44 năm, đưa nước Thụy Điển nghèo nàn, lạc hậu trở thành nước giàu
bật nhất, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, hầu như không có tham
nhũng, ổn định nhất thế giới. Năm 2013 Cộng hòa Liên Bang Đức nước giàu
mạnh nhất Châu Âu kỷ niệm 150 năm Đảng Dân chủ Xã hội Đức, một Đảng theo
đường lối của Quốc tế 2 lâu đời và vững mạnh vào bậc nhất. Nhân dịp này
Tổng thống Joachim Gauck có bài diễn văn
ca ngợi Đảng có lịch sử lâu dài dám xả thân vì niềm tin của mình: “Đó
là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt xã hội
của những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án
phải độc lập”. Quan điểm đúng đắn đã thắng thế trong Đảng, đó là: “không
thiết lập một đặc quyền giai cấp mới nào”, “dân chủ phải vừa là phương
tiện vừa là mục tiêu”, “đấu tranh cho cải cách chứ không phải cho việc
làm cách mạng”, “can đảm phấn đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực
lượng to lớn khác của các đảng phái tư sản”, “cải thiện từng bước cụ
thể đời sống con người, thay vì công bố những mục tiêu xa vời không
tưởng”. Do đó, Đảng kế thừa tư tưởng của Marx, Engels, Lassalle vững
mạnh suốt 150 năm làm cho Tây Đức có thu nhập cao gấp 4 lần Đông Đức xã
hội chủ nghĩa theo chuyên chính vô sản của Lênin khi thống nhất!
Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tỏ rõ một quá trình tự diễn biến rất
gian nan, có lúc nhanh, lúc chậm, có lúc đúng, lúc sai và nhiều lần sai
rất nghiêm trọng và kéo dài. Khoảng 1930- 1931 khẩu hiệu vang dội của
Đảng là “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rễ”. Năm 1945 đảo
ngược lại hoàn toàn: Đoàn kết mọi người yêu nước, không phân biệt, đảng
phái, giai cấp… Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Khoảng năm 1950 bắt
đầu nói “Đoàn kết công, nông, binh”. Còn hiện nay thì nói “ Liên minh
công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng”.
Sau
năm 1975, Đại hội 4, Đại hội 5 đều đặt nhiệm vụ lớn nhất là “Thiết lập
hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước” và “Nắm vững chuyên chính vô
sản là nắm vững đường lối của Đảng”. Nội dung của nó là tiếp tục đấu
tranh giai cấp, tiêu diệt mầm móng bóc lột, giải quyết triệt để “vấn đề
ai thắng ai”. Ngày nay hầu như những chữ “chuyên chính vô sản” và “ai
thắng ai” đã biến mất mà Nghị quyết bắt đầu nói “con người là trung
tâm”, và “phải thực hiện quyền con người”. Nghị quyết Đại hội 4 và 5 đều
có chủ trương lớn là cải tạo xã hội chủ nghĩa về công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp. Về công nghiệp không để một xí nghiệp tư nhân
nào. Nông dân phải vào hợp tác xã. Cửa hàng tạp hóa của tiểu thương cũng
không còn. Nghị quyết Đại hội 4 ghi “Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa chỉ
có thể thành công thông qua xây dựng có ý thức, có kế hoạch. Vì vậy kế
hoạch là công cụ chính để quản lý và điều khiển quá trình từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.” Hiện nay, nghị quyết bảo phải
vận dụng đầy đủ quy luật thị trường. Đại hội 4 và Đại hội 5 đều quyết
định “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Năm
1976, Tổng bí thư Lê Duẩn nói “thời kỳ quá độ kéo dài khoảng 20 năm”.
Năm 2013, tại Quốc hội Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, chưa biết đến
hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hay chưa. Đại hội 6 nhận định nền
kinh tế đạt kết quả không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ
ra. Nguyên nhân là do “Mười năm qua đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác
định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về cải
tạo xã hội chủ nghĩa và về quản lý kinh tế”. Đại hội 6 cho sai lầm là do
“duy ý chí” không nhìn đúng sự thật và đưa ra khẩu hiệu “Nhìn thẳng sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội quyết định Đổi mới
toàn diện, bắt đầu là đổi mới kinh tế. Đại hội 9 cho phép doanh nhân
(tên mới của nhà tư sản) được thuê công nhân với số lượng không hạn chế.
Đại hội 11 chủ trương kết nạp doanh nhân vào Đảng Cộng sản, tức là nhà
tư sản được đứng vào đội tham mưu của giai cấp công nhân lãnh đạo cách
mạng. (Điều này ông Nguyễn Đức Bình nguyên ủy viên Bộ chính trị, Giám
đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc kiên trì cực lực phản đối vì cho rằng như
vậy không còn gì là chủ nghĩa xã hội!).
Lược qua
ở trên đã cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn tự diễn biến hòa
bình. Nhờ đó mà Đảng thoát khỏi những tai ương cho mình và tai họa cho
dân tộc như: cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, bỏ tù hàng
loạt cán bộ cao cấp gọi là “ nhóm chống Đảng”. Diễn biến hòa bình lớn
nhất là Đổi mới của Đại hội 6, quyết định bỏ một nửa, nhưng là một nửa
quan trọng nhất lý thuyết xã hội chủ nghĩa của Lênin, Stalin. Quan trọng
nhất là nói theo Marx: cơ sở kinh tế quyết định đối với thượng tầng
kiến trúc. Nhờ đó mà dư luận quốc tế hi vọng sẽ sớm xuất hiện “Con rồng
Việt Nam”. Nhưng sau gần 30 năm đã làm người ta thất vọng. Thành tích
đổi mới kinh tế đã làm cho những người lãnh đạo chủ quan cho rằng có thể
không cần đổi mới chính trị. Thực ra những người lãnh đạo sợ rằng đổi
mới chính trị sẽ đe dọa sự tồn tại vị trí cầm quyền của Đảng. Những
người sáng suốt nhất, dũng cảm nhất của Đảng như Trần Xuân Bách, Trần
Độ, Nguyễn Hộ… đề nghị đổi mới chính trị đều bị sa thảỉ.
TẠI SAO TÁN THÀNH TAM QUYỀN PHÂN LẬP?
Chủ
nghĩa Marx và chủ nghĩa Lênin đều không có nhà nước pháp quyền mà chỉ
có nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân
lập là của nền dân chủ phương Tây. Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1946
là nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập. Các Hiến pháp sau này khác
Hiến pháp 1946 chính là ở đó. Sau Đổi mới, đến Đại hội 7 Tổng bí thư Đỗ
Mười là người có sáng kiến đưa ra khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa”, có định nghĩa như hiện nay.
Các nhà
tuyên huấn của Đảng giải thích: Quyền lực nhà nước là thống nhất. Bởi vì
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân dân thì không thể chia cắt
(chuyên viên cao cấp của Ban Tuyên giáo Trung ương giảng về Hiến pháp
2013 ở đảng bộ phường Tân Kiểng). Lý lẽ đó không chính xác. Nhà nước là
công cụ của nhân dân. Nhân dân có quyền phân chia các quyền tư pháp,
hành pháp, tư pháp như thế nào để có hiệu quả nhất cho phát triển và
chống tham nhũng. Phân quyền của nhà nước pháp quyền, chứ đâu phải là
phân chia nhân dân! Còn có lý lẽ thứ hai, “tam quyền phân lập” là của
phương Tây của tư sản không thích hợp cho phương Đông và nước xã hội chủ
nghĩa. Về điều này có thể lấy ý kiến của Tôn Trung Sơn nhà cách mạng vĩ
đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đề cao. Ông nói trong bài phát
biểu năm 1927 trước quốc dân: “Dân chủ dân quyền thì phải học Phương
Tây. Bởi vì Phương Đông và Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm
trong quân quyền”. Việt Nam ta cũng theo “quân quyền” cho đến 1945.
Xin trích hai ý kiến cách nhau hơn 2000 năm về “tam quyền phân lập” mà cho đến nay vẫn được cả nhân loại truyền tụng làm theo.
Triết
gia vĩ đại thời cổ đại, Aristote nói: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh
chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới
quyền của một ai đó. Còn nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền
và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi thấy sự cứu
thoát của nhà nước”.
Một triết gia Pháp vĩ đại
của thế kỷ 19 là Montesquieu nói: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp
nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên lão thì không còn gì là
tự do nữa. Người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy, chỉ đặt ra luật
độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có tự do nếu như quyền
tư pháp không tách rời quyền hành pháp và lập pháp. Nếu như quyền tư
pháp được nhập với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền
sống và quyền tự do của công dân. Quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu
quyền tư pháp nhập với quyền hành pháp thì quan tòa có sức mạnh của kẻ
đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức nắm cả ba quyền thì tất cả đều mất
hết”.
Ngày nay các nước dân chủ đều thực hiện
nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập để xã hội được tự do khi nhà
nước bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích là để bảo vệ quyền con
người. Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp. Thông điệp
đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có câu “Người dân có quyền
làm tất cả những điều gì luật pháp không cấm và sử dụng luật pháp để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ công
chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.”
Đó
là những ý kiến rất đúng đắn nhưng không thể thực hiện được nếu như
không có nhà nước pháp quyền, với tam quyền phân lập! Vì sao? Bởi vì ở
Điều 2 của Hiến pháp ghi “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện cá quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quốc hội là cơ quan lập pháp, nhưng thực
ra gồm có đủ mặt những người của hành pháp và tư pháp. Điều đó gây hậu
quả đúng như Montesquieu cảnh báo như trên. Quyền tư pháp độc lập không
thể thực hiện theo “sự phân công phối hợp” được. Do đó nó đẻ ra điều
người gọi là “án bỏ túi”. Án oan sai nhiều không kể xiết, rất đáng lo là
nhiếu oan sai tới mức án tử hình. Rất nhiều vụ án xét xử kéo dài hàng
chục năm như vụ án “vườn đào”, vụ án “ăn trộm dê”… Nghị quyết 49/TW của
Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020 không có đề ra việc thực
hiện quyền Tư pháp độc lập. Do đó, mỗi năm đều họp bàn mà suốt 10 năm
vẫn không có nền Tư pháp trong sạch vững mạnh như mục tiêu đề ra!
Nguyên
nhân quan trọng nhất khiến quyền tư pháp không thể độc lập là do Điều 4
Hiến pháp quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội”. Như vậy “quyền lực nhà nước là thống nhất…” nhưng cuối
cùng cả ba quyền đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tức là Đảng có quyền
đứng trên quyền tư pháp, đứng trên pháp luật.
Một
số nhà nghiên cứu pháp luật là đảng viên đã hơn chục năm nay kiên trì
góp ý rằng: Đảng đã lãnh đạo xây dựng Hiến pháp cụ thể hóa Cương lĩnh
của Đảng rồi thì không nên trực tiếp lãnh đạo quyền tư pháp. Phải để
quyền tư pháp đứng trên thì mới ngăn chặn được tham nhũng. Đảng đang lâm
vào tình trạng tham nhũng suốt hơn 30 năm, càng ngày càng nghiêm trọng,
nếu không dũng cảm chấp nhận tư pháp độc lập thì không khác nào người
bị bệnh nặng mà cứ giành quyền chỉ đạo thầy thuốc!
TẠI SAO ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN LẠI TÁN THÀNH ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG?
Như
vậy là tạo điều kiện cho các đảng đối lập giành quyền lãnh đạo của Đảng
mình? Hậu thuẫn cho câu hỏi này là lập luận: Trong thời kháng chiến
gian khổ, tại sao các đảng đối lập không nhảy ra tranh với Đảng Cộng sản
về sự hi sinh, nay sau khi đất nước hòa bình phát triển lại muốn nhảy
ra tranh phần? Cách nghĩ như vậy giống như đòi chia “quả thực” trong cải
cách ruộng đất, ai “đấu tố” mạnh thì phải được chia phần nhiều hơn;
hoặc giống như một công ty cổ phần bàn chuyện chia lãi, chứ không giống
một Đảng cách mạng từng tuyên bố “Đảng ta không có lợi ích nào khác
ngoài mục đích phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân
dân” (giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh của Bộ Giáo dục - Đào tạo). Trong
hạnh phúc của nhân dân có quyền tự do, mà chủ tịch Hồ Chí Minh có câu
thơ rất hay “Trên đời nghìn vạn điều cay đắng. Cay đắng chi bằng mất tự
do”. Trong các quyền tự do có quyền tự do chính trị. Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị mà Nhà nước Việt Nam ký kết từ 24-9-1982 ở
Lời nói đầu có ghi “Chỉ có thể đạt được lý tưởng của con người tự do
được tận hưởng tự do về dân sự và chính trị không bị sợ hãi…” và ở Điều 1
ghi nhận “quyền quyết định thể chế chính trị”. Hiến pháp 1946 ghi nhận
quyền: “Tự do tổ chức và hội họp”. Các Hiến pháp sau này đều có ghi nhận
tất cả các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, nhưng đã mắc nợ nhân
dân suốt 70 năm không được thực hiện. Mặc dù Hiến pháp và Luật đều
không điều nào cấm lập đảng, lập hội, nhưng thực tế thì không cho phép.
Và như phần trên đã nói, từ 1866 Marx và Engels đã chấp nhận đa đảng.
Thật ra ngay từ 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ở chương 4 về
“Thái độ đối với các đảng đối lập” (trang 99) hai ông đã dạy những người
cộng sản cách sống chung với các đảng tư sản. Không chấp nhận đa nguyên
chính trị, cứ tưởng sẽ tốt, có lợi cho Đảng cầm quyền, bởi vì không sợ
ai tranh giành với mình. Nhưng theo bài học rất sơ đẳng thì chính đó lại
là tự giết mình. Đó là bài học từ sự sụp đổ của các Đảng Cộng sản Liên
Xô, Đông Âu. Bởi vì độc quyền thì sinh ra quan liêu, quan liêu sinh tham
nhũng, tham nhũng lũng đoạn mọi mặt sẽ làm bại hoại mục ruỗng cả Đảng
và cả dân tộc. Chấp nhận đa nguyên đa đảng là học bài học trường tồn một
cách đường đường chính chính của các Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển,
Na Uy, Đức… Nguyên ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An
trong bài nói ngày 7-12-2010 trên Tuần Việt Nam, cho rằng tình trạng
suy thoái của Đảng như hiện nay, “không phải là do bị diễn biến hòa
bình… Chính những đảng viên cộng sản chân chính, liên minh giai cấp công
nhân, nông dân và đội ngũ trí thức cách mạng, cũng không muốn bảo vệ sự
độc quyền của một Đảng biến chất, thoái hóa, tham nhũng. Đảng đã thành
vua tập thể”. Ông vua phong kiến thì chẳng sao, dù cho ông ta có 3000
cung nữ, dù cho đất đai cả nước là của vua. Nhưng Đảng thì lại khác, bởi
Đảng phải nói và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là nhân dân, vì dân là chủ”. Và người dân luôn luôn
so sánh lời nói với việc làm của đảng viên có đi đôi hay không.
TẠI SAO VI PHẠM 19 ĐIỀU CẤM THEO QUYẾT ĐỊNH 47/QĐ/TW?
Mấy
mươi năm trước đảng viên chỉ thực hịên Điều lệ, Nghị quyết Đảng và pháp
luật mà nói chung rất tốt. Hơn 10 năm qua có thêm quy định các điều cấm
không được làm, nhưng tình hình cứ xấu đi. Quyết định 47/ QĐ/TW ghi là
“Căn cứ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam”. Nhưng Hiến pháp Việt Nam có
ghi các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội, biểu tình thì
Quyết định 47/QĐ/TW ở Điều 6 cấm “biểu tình tập trung đông người gây mất
an ninh trật tự”. Quy định này không rõ, bao nhiêu người thì gọi là
đông người, và nếu đông người mà không gây mất trật tự thì có được phép
hay không? Như trên tôi đã kể, chúng tôi mới trên đường đi thì đã bị vây
bắt rồi, làm gì đã gây ra mất an ninh!
Và nói
trái nghị quyết cũng là một khái niệm rất khó xác định. Mọi đảng viên
đều phải bình đẳng, vậy Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói ở Vĩnh Phú, phê
phán các đảng viên đi biểu tình phản đối Trung Quốc là suy thoái chính
trị có đúng Nghị quyết Đảng và Hiến pháp không? Ông nói “hết thế kỷ này
cũng chưa chắc có chủ nghĩa xã hội” có đúng Nghị quyết không? Ông nói Hồ
Chủ tịch viết trong Di chúc “Đảng ta là Đảng cầm quyền là hơi hẹp, đúng
ra phải nói Đảng ta là Đảng lãnh đạo” có đúng nghị quyết không? Có xúc
phạm lãnh tụ không?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có
nhiều phát biểu rất đúng, nhưng tôi e rằng nếu là người khác nói thì
rất có thể sẽ bị quy là trái Nghị quyết. Ví như ông lên tiếng giữa Quốc
hội đòi Hoàng Sa, phê phán Trung Quốc ở Shangri-la làm cho họ cáu giận,
và Thông điệp đầu năm 2014 của ông đưa ra nhiều khái niệm đúng đắn về
dân chủ giống như của phương Tây mà các Nghị quyết của Đảng đều chưa hề
ghi nhận. Chẳng lẽ trong Đảng không có bình đẳng về phát ngôn? Cấp trên
muốn nói gì cũng được còn cấp dưới thì không?
Tôi
cho rằng Quyết định 47/QĐ/TW hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh: “Một
Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có
gan thừa nhận khuyết điểm của mình vạch rõ những cái đó vì đâu mà có
khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rổi kiếm mọi cách
để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc
chắn, chân chính”, “Nghị quyết gì mà người dân nói là không đúng thì để
họ để nghị sửa lại”, “Quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do phục
tùng chân lý” và “Dân chủ là người dân được mở mồm ra nói”. Chẳng lẽ
đảng viên cũng là công dân lại không được mở mồm như người dân? Cách quy
định những điều cấm như thế qua hơn 10 năm đã chứng tỏ nó không làm
Đảng mạnh và tốt lên, trái lại, bêu riếu sự lạc hậu trong thời đại bùng
nổ thông tin. Thời đại ngày nay các đảng chính trị đều thực hiện dân chủ
nội bộ và thực hiện công khai minh bạch không chỉ trong nội bộ mà trước
toàn dân. Chỉ có như vậy mới không tái diễn chuyện “khoán chui” và “xé
rào”. Tuy vậy, tôi cũng đã nhiều lần định không đưa bài góp ý lên mạng
mà chỉ gửi cho Đảng và các báo, các mạng của Đảng, nhưng các báo đều
không đăng, Đảng thì không bao giờ hồi âm!
Thưa
các đồng chí, nhiều khi tôi quá bức xúc, đau lòng, cảm thấy dường như
Đảng ngày nay không phải là Đảng mà ngày xưa mà tôi giơ tay thề hi sinh
đến giọt máu cuối cùng vì Đảng ấy “không phải là một tổ chức để làm quan
phát tài. Nó làm trọn nhiệm vụ giải phóng dân tộc làm cho Tổ quốc giàu
mạnh đồng bào sung sướng.” Hình như có những kẻ muốn biến Đảng thành
công cụ của các “nhóm lợi ích” giúp họ giữ ghế và làm giàu! Là một nhà
báo có 35 năm theo dõi phong trào công nhân lao động, cho nên bức xúc
nhất của tôi là nhìn thân phận khốn cùng của giai cấp công nhân hôm nay.
Tôi vô cùng bức xúc khi cảm nhận rằng hai giai cấp lớn nhất, có công
đóng góp lớn nhất cho thắng lợi của cách mạng và kháng chiến là công
nhân và nông dân đã bị phản bội bằng nhiều chính sách quá bất công đối
với họ.
Có lẽ bản kiểm điểm của tôi không đáp
ứng được yêu cầu của các đồng chí chỉ đạo cuộc kiểm điểm. Nhưng biết làm
sao, khi đó là nhận thức thành thật của tôi, một đảng viên sau hơn 55
năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, ngoài 80 tuổi còn ký kết
hợp đồng viết bài cho báo Lao Động và lúc nào cũng nghĩ về vận nước và
sự suy thoái của Đảng, lại là kẻ suy thoái chính trị ư? Không! Tôi cho
rằng chính những người bảo thủ, giáo điều, không sáng suốt chấp nhận đổi
mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh hùng, trở thành một
Đảng suy thoái tham nhũng, họ mới chính là kẻ suy thoái chính trị. Do
đó, tôi không nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên gọi là suy thoái
tư tưởng chính trị. Nhưng tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin
nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì như vậy, tôi sẽ được yên
lòng rằng, Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết
xin được gia nhập và thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó từ ngày mai
tôi sẽ không còn quá băn khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn
bức xúc cứ muốn viết bài góp ý, xây dựng Đảng.
Ngày 22 - 2-2014
Tống Văn Công
Tác giả gửi trực tiếp cho: Bauxite Việt Nam
..........