VRNs (22.06.2013)
– Washington DC, USA – Việt Nam đã đồng ý để cho Trung Cộng được quyền
tìm kiếm dầu chung giữa hai nước bên trong phần biển của Việt Nam tại
Vịnh Bắc Bộ, theo nguyên tắc “hợp tác cùng phát triển” mà hai Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch Nhà nước Trung Cộng Hồ Cẩm
Đào đã ký tại Bắc Kinh ngày 11/10/2011.
Việc này xẩy ra ngay sau khi Chủ tịch
nhà nước Trương Tấn Sang đến Bắc Kinh họp với Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà
nước Trung Cộng Tập Cận Bình vào chiều ngày 19/6 (2013).
Cùng đi với ông Sang thăm Trung Cộng 3
ngày theo lời mời của ông Tập Cận Bình còn có Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện
Nhân; Bộ trưởng Ngọai giao Phạm Bình Minh; Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ
Huy Hoàng; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức
Phát; Thứ trường Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh và một số viên chức khác.
Theo thỏa hiệp mới được phía Việt Nam
gọi là “gia hạn” và “sửa đổi” lần thứ 4 hợp tác giữa Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam và Tổng Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation,
CNOOC), thì diện tích tìm kiếm chung sẽ mở rộng từ 1541 cây số vuông
lên thành 4076 cây số vuông. Và hiệu lực của Thỏa thuận Thăm dò Chung có
hiệu lực đến hết năm 2016.
Ông Đỗ Văn Hậu-Tổng Giám đốc Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã giải thích về nguồn gốc của thỏa
thuận giữa hai nước như thế này: “Theo Quy định tại Điều 7 của Hiệp
định Việt Nam-Trung Quốc về Phân định Lãnh hải, Vùng Đặc quyền Kinh tế
và Thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ (ký ngày 25/12/2000 và có hiệu lực từ
ngày 20/6/2004), nếu có các mỏ dầu khí vắt ngang qua Đường Phân định,
hai nước sẽ cùng nhau hợp tác khai thác chung.
Từ năm 2005, Tổng Công ty Dầu khí
Quốc gia Việt Nam, nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
(Petrovietnam) và Tổng Công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc
(CNOOC) đã ký kết và thực hiện Thỏa thuận Khung về hợp tác dầu khí trong
Khu vực Thỏa thuận Ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ. Trên cơ sở kết quả
thực hiện Thỏa thuận Khung, Thỏa thuận Thăm dò chung Việt Nam-Trung Quốc
trong Khu vực xác định Ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa
Petrovietnam và CNOOC ngày 6/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 2/1/2007,
sau khi được Chính phủ hai nước phê chuẩn.”
Quốc hội của Nhà nước Cộng sản Việt Nam
cũng đã nhắm mắt phê chuẩn Hiệp định này vào năm 2004 mà không có bất cứ
cuộc điều tra hay nghe điều trần của Chính phủ nên cũng mập mờ như dân !
Do đó, sau khi có loan báo từ Bắc Kinh
nói rằng hai phiá Việt-Trung đã thỏa thuận “gia hạn” và “sửa đổi” hợp
tác giữa hai tập đòan dầu khí của hai nước trên Vịnh Bắc Bộ thì mọi
người mới biết rằng Việt Nam đã chịu để cho Trung Cộng được quyền cùng
khai thác dầu khí bên trong phần biển thuộc về Việt Nam, dù khu vực khai
thác chung nằm trên đường ranh giới phân định giữa hai nước !
TA THẮNG TO
Hãy nghe tiếp lời giải thích thêm của ông Đỗ Văn Hậu: “Thỏa
thuận hợp tác giữa PVN và CNOOC được ký lần đầu từ năm 2006 phù hợp với
Hiệp định đã ký kết giữa hai nước về phân định Vịnh Bắc Bộ. Thỏa thuận
này đã được gia hạn 3 lần và lần này là lần thứ 4 với thời hạn đến năm
2016.
Theo đó, Việt Nam và Trung Quốc đã
thỏa thuận với nhau về một vùng biển nằm trên Vịnh Bắc Bộ, nằm trên
đường phân định hai quốc gia; cùng thăm dò và cùng khai thác khi phát
hiện có dầu khí. Ngoài việc gia hạn, thỏa thuận lần thứ 4 này đã thống
nhất mở rộng khu vực thăm dò chung nằm trên đường phân định hai quốc gia
trên Vịnh Bắc Bộ lên gần 3 lần so với lần đầu năm 2006.
Khu vực này được chia đều qua đường
phân định trên Vịnh Bắc Bộ, một nửa nằm phía Việt Nam và một nửa nằm bên
phía Trung Quốc. Trên khu vực này, hai Tổng công ty của hai Nhà nước sẽ
cùng nhau tiến hành thăm dò, nhằm phát hiện các cấu tạo địa chất có
chứa dầu khí. Khi phát hiện có dầu khí thì 2 bên sẽ tiếp tục bàn thảo,
để cùng nhau hợp tác khai thác.” (Thống tấn xã Việt Nam, TTXVN, 20-6-2013)
Trả lời câu hỏi “Liệu có vấn đề gì nhạy cảm trong thỏa thuận này không ?”, Ông Đỗ Văn Hậu đáp:
“Đây là thỏa thuận hợp tác về một
khu vực nằm trong Vịnh Bắc Bộ, là nơi mà mọi người đều biết, Việt Nam và
Trung Quốc đã ký kết Hiệp định phân định đường biên giới trên biển. Vì
vậy, thỏa thuận hợp tác này không có gì ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia
của mỗi nước trên Vịnh Bắc Bộ. Đây chỉ là hợp tác thuần túy về kinh tế,
cùng nhau thăm dò, khai thác nếu phát hiện ra dầu khí.”
Vẫn theo TTXVN thì ông Hậu còn lý giải
về sự khác biệt giữa “chủ quyền riêng của Việt Nam” và “chủ quyền chung
Việt-Trung” như sau:
“Thỏa thuận này có khác. Trước đây
ta ký kết những hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí với những quốc gia
khác là hợp đồng thực hiện trên vùng biển hoàn toàn thuộc chủ quyền của
Việt Nam. Còn đây là hợp tác giữa hai tổng công ty dầu khí quốc gia của
hai nước, về việc thăm dò và khai thác ở một vùng biển chung, có diện
tích chồng lấn hai bên, nhưng đã được phân định đường biên giới trên
biển. Theo dự báo, khu vực này có cấu tạo địa chất liền nhau, có khả
năng có dầu khí, nên hai bên xác định để có lợi cao nhất, thì cùng hợp
tác thăm dò và tiến tới khai thác. Điều này chỉ phục vụ lợi ích kinh tế
hai nước, không liên quan đến nước thứ ba.”
Ngoài ra Ông Đỗ Văn Hậu, qua cơ quan Thống tấn của nhà nước, còn muốn biện bạch: “Ý
nghĩa quan trọng nhất là sự tăng cường hợp tác giữa PVN và CNOOC. Qua
đó sẽ góp phần tăng cường sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa hai nhà
nước nói chung. Thực ra, trong nhiều năm qua, hai công ty đã có sự hợp
tác với nhau. Những gì liên quan đến lợi ích, chủ quyền quốc gia thì hai
bên đều tôn trọng, đề cao trong quá trình hợp tác này. Nếu có ai đó
không tôn trọng chủ quyền của nhau thì chúng tôi sẽ phản đối.”
Nghe những lời trình bầy nghe rất bùi
tai như “danh chính ngôn thuận” của ông Đỗ Văn Hậu về sự “hợp tác cùng
có lợi” giữa Việt Nam và Trung Cộng thì có vẻ như Việt Nam chẳng bị
thiệt thòi gì.
Nhưng nếu nghiên cứu cho thật kỹ thì
thấy rằng cho đến nay, ngòai lập luận một chiều và bảo thủ của phiá Việt
Nam thì chưa một chuyên gia nào về chủ quyền lãnh hải Vịnh Bắc Bộ có
thể khẳng định rằng Hiệp định vịnh Bắc Bộ năm 2000 là công bằng, mặc dù
văn kiện ký kết ngày 25/12/2000 giữa Việt Nam và Trung Cộng đã dành cho
Việt Nam được 53.23% và Trung Quốc được 46.77% diện tích Vịnh.
Theo báo Nhân Dân ngày 02/07/2004 thì
diện tích vịnh Bắc Bộ có khoảng 126.250 km2 (36.000 hải lý vuông) chiều
ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lý), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh
rộng khoảng 207,4 km (112 hải lý).
Vì chưa có bất cứ cuộc điều tra quốc tế chuyên nghiệp nào về Hiệp
ước vịnh Bắc Bộ năm 2000 nên hòai nghi Việt Nam bị thiệt càng được nhiều
người đồng ý vì Trung Cộng không chấp nhận yêu sách của Việt Nam muốn
thương thuyết dựa trên Công ước Pháp-Thanh 1887, vì Bắc Kinh sợ Việt Nam
sẽ được lợi hơn.
Có một điểm rất rõ là Trung Cộng đã đòi
và được là chia Vịnh làm 2, lấy biên giới từ “điểm nhô ra” của đảo Hải
Nam đến bờ biển của Việt Nam làm chuẩn đo để chia đôi. Vì vậy các chuyên
gia của Qũy nghiên cứu Biển Đông của Việt Nam khi phân tích đường trung
tuyến trong vịnh, đã kết luận sau khi họ “
vẽ các đường tròn có tâm
là 21 điểm phân định thì bên Việt Nam bị lấn từ 3 cho đến 27 hải lý ở
khu vực các đảo Vĩnh Thực, đảo Trần, đảo Thanh Lam, đảo Cô Tô tỉnh Quảng
Ninh, đảo Bạch Long Vĩ thuộc Hải Phòng, vùng cửa Ba Lạt, bờ biển Ninh Bình và khu vực nam Hà Tĩnh đối chiếu với bờ tây và bờ nam đảo Hải Nam của Trung Quốc.” (Tài liệu Bách khoa Tòan thư mở).
Do đó, khi vùng khai thác dầu khí chung
hai nước Việt-Trung được ấn định nằm ngay trên đường ranh giới phân chia
hai vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ, như đã công bố tại Bắc Kinh hôm
19/6/2013, thì rõ ràng Trung Cộng đã dành được quyền khai thác bên trong
phần biển của Việt Nam.
Ngoài Thỏa hiệp mới về hợp tác tìm đầu
trong Vịnh Bắc Bộ, hai bên còn ký kết 9 Thỏa hiệp khác, nhưng quan trọng
là hai bên đã đồng ý:
- Chương trình hành động giữa Chính
phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác
hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc.
- Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa hai Bộ Quốc phòng.
- Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết
lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề
cá trên biển.
Chi tiết về đường giây nóng không được
tiết lộ, nhưng việc này có liên hệ đến công tác cứu hộ trên biển và ngăn
chặn những tai nạn xẩy đến cho ngư dân Việt Nam như họ đã từng bị lính
Trung Cộng bắn giết, xua đuổi và ngăn cấm đánh cá trên Biển Đông.
Tuy nhiên Trung Cộng vẫn chưa trả lời đề nghị của Việt Nam muốn quân đội hai nước ký Thỏa hiệp không nổ súng trên Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Trung Cộng Thường
Vạn Toàn nói rằng hiện giữa hai nước đã có rất nhiều cam kết, nhiều bản
tuyên bố chung về việc không sử dụng vũ lực trong xử lý các tranh chấp ở
Biển Đông nên đề nghị mới của Việt Nam cần được nghiên cứu.
Họ Thường nói với Thượng tướng Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chĩ Vịnh rằng “hai quân đội trước mắt tuyệt đối tuân thủ những cam kết này”,
nhưng trong những thàng qua Hải quân Trung Cộng đã không ngừng bắn phá
và làm bị thương nhiều ngư dân Việt Nam khi họ đánh bắt ở Hòang Sa cà
Trường Sa.
Nhiều thuyến đánh cá khác của Việt Nam
cũng đã bị tầu không mang số của Trung Cộng đâm chìm làm một số ngư dân
Việt Nanm thiệt mạng.
Đó là bằng chứng hiển nhiên những vụ
việc Trung Cộng đã nói một đàng làm một nẻo kể từ khi ông Tập Cận Bình
lên cầm quyền ở Trung Cộng từ tháng 11/2012.
Hãy chờ xem họ Tập có giữ lời hưá với
ông Trương Tấn Sang hay sau khi đã đạt được thỏa hiệp “cùng khai thác”
dầu khí ở Vịnh Bắc Bộ thì Bắc Kinh lại đòi “hợp tác cùng phát triển” ở
các vùng biển khác của Việt Nam ?
CÓ NHƯỢNG BỘ KHÔNG ?
Về lĩnh vực kinh tế thì ông Sang cũng
không nhận được cam kết gì từ hai ông Tập Cận Bình và Thủ tướng Trung
Cộng Lý Khắc Cường, mặc dù ông Sang đã chính thức đề nghị Trung Cộng
“tăng cường đầu tư và giảm nhập siêu với Việt Nam”.
Theo tài liệu của phiá Việt Nam thì riêng trong năm 2012 “ tổng kim ngạch thương mại Việt-Trung đạt 41,18 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất gần 12,4 tỷ USD, nhập gần 28,8 tỷ USD (nhập siêu: chênh lệch 15.8 Tỷ dolars).
Riêng 4 tháng đầu năm 2013, thương mại hai nước “đạt hơn 14,3 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất gần 3,9 tỷ USD, nhập hơn 10,4 tỷ USD (nhập siêu 6.5 Tỷ dollars từ Trung Cộng)
Phía Việt Nam cũng cho biết “Quan hệ
hợp tác đầu tư có bước phát triển mới, tính đến hết tháng 3/2013, Trung
Quốc có 899 dự án đầu tư tại Việt Nam, tổng vốn đăng ký hơn 4,7 tỷ USD,
vươn lên vị trí thứ 13/94 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt
Nam”.
Trong khi đó đầu tư của Việt Nam vào Trung Quốc có hay không, không được được báo cáo.
Cơ quan Thông Tấn Xã của Việt Nam còn viết: “Trong
những năm qua, Trung Quốc đã không ngừng tăng quy mô tín dụng ưu đãi
dành cho Việt Nam. Đến nay, Trung Quốc đã cho ta vay 1,6 tỷ USD ưu đãi,
tập trung vào những lĩnh vực công nghiệp, khai khoáng, đường sắt, năng
lượng, dệt may, hóa chất… Ngoài tín dụng ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc
còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại. (Nguyễn Hồng Diệp, Thông Tấn Xã Việt Nam, 17-06-013).
Riêng trong chuyến đi của ông Trương Tấn Sang, Việt Nam cũng đã nhận được từ phiá Trung Cộng “khoản tín dụng ưu đãi (cho Dự án hệ thống thông tin đường sắt) trị giá 320 triệu Nhân dân tệ” và “vay cụ thể tín dụng người mua ưu đãi cho Dự án Nhà máy Đạm than Ninh Bình trị giá 45 triệu đôla Mỹ”.
Như vậy, sự lệ thuộc và nhượng bộ không
thể tránh khỏi của Việt Nam với Trung Cộng là điều đã được chứng minh
trong chuyến đi của phái đòan Trương Tấn Sang.
Cho nên bất cứ lời giải thích nào của
phía Việt Nam nói rằng chủ quyền của mình đã không bị Trung Cộng xâm hại
trong Thỏa thuận giữa hai Công ty dầu khí của hai nước về việc “thăm dò
chung trong khu vực thỏa thuận ngòai khơi trong vịnh Bắc Bộ” là không
đứng vững.
Phạm Trần
(06/013)
Copy từ:
Truyền Thông Chúa Cứu Thế