CHƯA TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐỜI.

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

Chưa rõ địa vị pháp lý của Hội đồng Hiến pháp


Xung quanh định chế tài phán Hiến pháp liên quan quá trình xây dựng dự thảo Hiến pháp 1992 (sửa đổi), các nhà khoa học và lập pháp đã có nhiều quan điểm khác nhau. Theo thiển ý của tôi, điểm mấu chốt trong giải quyết bài toán mâu thuẫn hiện nay là làm thế nào có được thiết chế độc lập trong việc giám sát, phán định các hành vi vi hiến trong điều kiện mô hình tổ chức Quốc hội vẫn được xác định là cơ quan  quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trong đó có giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội?
Hội đồng hiến pháp trùng lặp với các ủy ban của Quốc hội

Về mặt pháp lý, điều 120 dự thảo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định về Hội đồng Hiến pháp, là cơ quan do Quốc hội thành lập, có chức năng kiểm tra tính hợp hiến, kiến nghị xem xét lại và yêu cầu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch Nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao ban hành hoặc khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp; kiểm tra tính hợp hiến của điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch Nước phê chuẩn.

Dự thảo xác định, Hội đồng Hiến pháp chỉ là cơ quan do Quốc hội thành lập, nên về mặt pháp lý, đó là một thiết chế không có địa vị pháp lý độc lập để thực hiện chức năng tài phán hiến pháp. Hơn nữa, với tư cách là cơ quan trực thuộc Quốc hội, Hội đồng Hiến pháp bị chế ước bởi thẩm quyền và chức năng như là các ủy ban khác do Quốc hội thành lập theo Luật Tổ chức Quốc hội 2011.
Dự thảo xác định Hội đồng Hiến pháp chỉ là cơ quan do Quốc hội thành lập.

Đó là chưa kể, Hội đồng Dân tộc và nhiều ủy ban được thành lập theo luật này đều có chức năng thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát; kiến nghị với  Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình…

Diễn đàn góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992

Nhằm hoàn thiện cho bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Ban Biên tập Báo Lao Động mở “Diễn đàn góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992” trên Lao Động điện tử. Nội dung góp ý có thể toàn bộ dự thảo, một nội dung hoặc từng điều, hoặc cách bố cục của dự thảo... Hình thức góp ý có thể là bài viết về một đề tài, một nội dung nào đó hoặc những ý kiến về một điều ... Ban Biên tập Báo Lao Động xin mời bạn đọc gửi bài, ý kiến của mình về địa chỉ “gopyhienphap@ laodong.com.vn”. Lao Động trân trọng cảm ơn.
Mặt khác, như điều 2 dự thảo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Với tư cách là một đạo luật cơ bản, “luật cái” của nước nhà, về pháp lý và thực tiễn lập pháp, Hiến pháp phải có một cơ chế hữu hiệu bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp, là nền tảng và nguyên tắc không thể thiếu được của nhà nước pháp quyền, phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong trường hợp này, Hội đồng Hiến pháp như được nêu trong dự thảo lại chưa thỏa mãn được quan điểm nói trên.

Cơ chế bảo hiến hiện nay bị dàn trải

Địa vị pháp lý chưa rõ ràng của Hội đồng Hiến pháp còn xuất phát từ việc chưa phản ánh được Hiến pháp là hình thức pháp lý cao nhất ghi nhận và khẳng định chủ quyền của nhân dân, nên nhân dân là chủ thể có quyền phúc quyết Hiến pháp, thay vì chỉ do cơ quan lập pháp là Quốc hội chế định ra.

Lịch sử lập hiến từ Hiến pháp 1946, 1959 và 1980 trước đây, cũng như Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) cho thấy, tuy đã có những quy định chung về giám sát Hiến pháp, nhưng thẩm quyền lại phân tán cho nhiều cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều có thẩm quyền bảo đảm thi hành Hiến pháp, kiểm tra, giám sát và xử lý các văn bản pháp luật trái Hiến pháp, trong đó Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Cơ chế này bộc lộ nhiều bất cập, khiếm khuyết như đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu.

Cần có cơ chế bảo hiến độc lập

Mấu chốt của quan điểm coi Hiến pháp là biểu tượng của quyền lực nhân dân chính là cơ chế giám sát quyền lực mà nhân dân giao cho các cơ quan công quyền. Cơ chế  này phải được độc lập nhằm phán quyết các hành vi vi hiến trong cả lập pháp, hành pháp và tư pháp, những xung đột có thể có giữa các nhánh quyền lực này, đảm bảo sự kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực. Trong khi đó, phương án thành lập Hội đồng Hiến pháp về căn bản vẫn do chính cơ quan do Quốc hội thành lập tự giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, nên cũng không bảo đảm tính khách quan trong thực hiện quyền tài phán của mình.

Vì vậy, theo suy nghĩ của cá nhân, định chế Hội đồng Hiến pháp chưa phản ánh được bản chất của quyền tài phán Hiến pháp, nên cần được đánh giá và xem xét lại. Trong bối cảnh hiện nay, với cách tiếp cận khuôn khổ điều chỉnh của Hiến pháp mang tính định hướng cho cả một thời gian lâu dài, nên tôi đồng thuận với ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu đưa ra phương án thành lập tòa án hiến pháp chuyên trách và độc lập là phù hợp hơn cả.



Copy từ: Lao Động


 

THẾ NÀO LÀ “ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ” ?


* BÙI VĂN BỒNG
Lúc này, trong dư luận xã hội, câu hỏi đó đang được đặt ra khá phổ biển coi đây là vẫn đề cấp bách. Ở tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới, bất cứ một thể chế xã hội nào cũng mang màu sắc chính trị riêng, hoặc khu biệt. Điều hiển nhiên, không ổn định chính trị thì không một xã hội náo có thể tồn tại và phát triển.
Trong các kỳ Đại hội Đảng vẫn có những đánh giá như một thành tích, đầy tự hào, rất mỹ mãn về “giữ vững ổng định chính trị”. Nhưng, cần xem xét, phân tích rõ: “Thực chất của ổn định chính trị là gì?”. 
Trong chế độ chính trị do Đảng cầm quyền, ổn định chính trị được đánh giá là khả năng lãnh đạo, uy tín của Đảng đối với quần chúng, khả năng tập hợp để phát huy sức mạnh nội lực từ trong quần chúng, sức mạnh của cả hệ thống chính trị gắn chặt với sức mạnh toàn dân, của cả dân tộc; thể hiện bằng hiệu quả, chất lượng kinh tế-xã hội phát triển mạnh, uy tín trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Đó chính là thực thi nền dân chủ xã hội, tôn trọng dân quyền, kết hợp chặt chẽ kỷ cương phép nước với phát triển lành mạnh xã hội dân sự. Dân chủ tư sản, dân chủ chuyên chế, hay dân chủ XHCN cũng đều đi đến kết cục là sự hài lòng, tin tưởng của người dân đối với chế độ chính trị, thể chế quản lý, điều hành xã hội.
Cần phải có quan điểm nhất quán là đứng ở góc độ nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta có thật sự là đảng vững mạnh hay không? Đảng có tập hợp, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc hay không? Người dân có hài lòng với đảng lãnh đạo hay không? Đảng ta đã đúc kết: “Thực tiễn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ chủ nghĩa Mác”. Nhưng miệng hô hào trung thành tuyệt đối với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, còn thực tế hành động thì xa rời thực tiễn, nặng về lý luận giáo điều, nhất là không học được ở Chủ tịch Hồ Chí Minh được gì, mặc du đã cả chục năm tốn kém tiền bạc, mất nhiều thời gian tổ chức đủ loại hình “học tập, làm theo”!.
Không thể né tránh một thực tế là Đảng ta ngày càng đánh mất vị thế, vai trò lãnh đạo, uy tín bị xói mòn, mất dần và đứng trước nguy cơ tồn vong của một chính đảng cầm quyền, kèm theo đó là nguy cơ tồn vong của chế độ. Đảng không còn được cái danh tiếng “đạo đức, văn minh”, tóm lại: Mất thiêng rồi!
Chỉ nhìn từ hơn 20 năm qua, 5 nhiệm kỳ Đại hội Đảng, vấn đề uy tín lãnh đạo của Đảng, vấn đề ổn định chính trị đã được nêu ra, thấy hết thực chất, thực trạng,  nhìn rõ mạnh-yếu ở chỗ nào, nhưng dù hô hào mạnh mà khắc phục lại quá yếu kém, uy tín lãnh đạo mất dần.  Nhiều mặt cho thấy ngày càng bị xuống cấp. Vai trò lãnh đạo của Đảng mờ nhạt dần, sức chiến đấu kém, đội ngũ đảng viên đông đảo, nhưng không mạnh. Gọi là “phai nhạt lý tưởng”, nhưng thực chất là không có lý tưởng. Sự hào nhoáng, tô vẽ vẫn gia tăng, nhưng thực chất bên trong ngày càng biểu hiện sự mục ruỗng, kém, nát, chỉ còn cái vỏ bề ngoài, nước sơn tự phết! Thực tế đó không nên có ai đó cố tình ngụy lý, phủ nhận, tiếp tục “tự hào cái không có”.
Hãy bình tĩnh đọc lại những câu chữ được dùng trong Văn kiện Đại hội VII của Đảng, tháng 6-1991: “Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, một bộ phận đã tha hoá, tham nhũng, xa dân, làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đổi mới còn chậm, cơ cấu tổ chức còn nhiều bất hợp lý, bộ máy vẫn cồng kềnh, kém hiệu quả.
Phương hướng tới cần chú trọng thực hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội một cách đúng hướng, vừa phát huy trí tuệ tập thể, thực hiện quyền công dân, vừa bảo đảm sự ổn định về chính trị”. Tuy nhiên, trong Nghị quyết Đại hội VII của Đảng vẫn không quên đánh giá: “Mặc dù những khó khăn trở ngại còn nhiều, nhưng những thành tựu đổi mới đã xác nhận khả năng tự đổi mới của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam”. Phải chăng đó cũng là thói quen tự khen, chủ quan, vỗ ngực, tự huyễn hoặc, từ PR cho chính mình?
Từ tháng 6 -1991 đến nay, cái cụm từ “ổn định chính trị” liên tục được nhắc tới, nhấn mạnh, và có vẻ rất tự hào, coi là thành tích: “Giữ vững ổn định chính trị”. Nhưng, cần phân định rõ, đánh giá một cách nghiêm túc: “Thực chất ổn định chính trị” là gì? Chỉ cần gõ vào mục tìm kiếm trên trang Google, trong 0,20 giây đã hiện lên trên 11.600.000 kết quả của 4 từ: “Ổn định chính trị”.
         Thực tế cần khẳng định rằng ít nhất đã hơn 20 năm qua, thực chất xã hội ta chưa có ổn định chính trị, nền chính trị-xã hội đặt trong những hoàn cảnh bấp bênh.
           Sự trì trệ, yếu kém kéo dài, rõ nhất là nhiệm kỳ lãnh đạo IX và X đã buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI nêu rõ: "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội". Vậy là do chất lượng, vai trò lãnh đạo của Đảng mà nền chính trị đất nước vào đầu năm 2011 đã mất ổn định hơn so với 20 năm trước (Đại hội VII - 1991). Qua 4 nhiệm kỳ, nghị quyết vẫn chỉ là nghị quyết mà thôi.
Nguy cơ báo động mất ổn định chính trị phát sinh ngay trong nội bộ Đảng chính là sự tiềm ẩn nguy cơ tồn vong của Đảng và chế độ. Có 7 biểu hiện cơ bản như sau: 
- Lãnh đạo mà gian dối, trước tổ chức, trước nhân dân thì nhũn nhặn, xin lỗi, hứa hẹn cho xong, nhưng "qua cầu rút ván", thoát nạn rồi thì vẫn chứng nào tật ấy, thủ đoạn càng sâu hiểm thêm, vỏ bọc dày thêm. 
- Nội bộ Đảng không thống nhất cao, bằng mặt không bằng lòng; có những biểu hiện tranh quyền, đoạt lợi; dùng nhiều thủ đoạn kéo bè kết cánh, xâu xé chia rẽ, bài trung dùng gian, xưng hùng xưng bá, mất đoàn kết; từ đó xuất hiện các nhóm đối trọng, thậm chí đối địch nhau về quyền lợi, quyền hành.
- Mất dân chủ ngày càng nghiêm trọng.
- Vi phạm pháp luật ngày càng phổ biến và trắng trợn, kỷ cương phép nước không nghiêm. Không dám kỷ luật, truy tố ai, giữ một đội ngũ xấu-tốt lẫn lộn, cào bằng, đánh đồng hổ lốn trung kiên lẫn với gian hùng, kẻ suy thoái, biến chất lẫn với người giữ vững phẩm chất - như thể không thể gọi là "giữ vững ổn định chính trị" mà là duy trì mầm mống sinh loạn, đảng càng mất uy tín. 
- Khoảng cách giữa lãnh đạo với người dân ngày càng bị roãng xa, thiếu hẳn sự gắn kết cần thiết, phát sinh mâu thuẫn.
- Phân hóa giàu-nghèo theo kiểu chia ra tầng lớp, giai cấp ngày càng rõ nét, mất dần đoàn kết cộng đồng, bất công phát sinh ngày càng nguy hại.
- Pháp luật Nhà nước, nguyên tắc điều lệ Đảng bị xem nhẹ. Khiếu nại, tố cáo, mít tinh, biểu tình gia tăng.
              Bên ngoài giặc ngoại xâm lăm le, bên trong như ngọn lửa ngún cháy chỉ chờ bùng phát đấu tranh nội bộ với nhau, đấu tranh vì quyền vì dân chủ, dân sinh, vì công bằng xã hội, làm sao mà gọi là "ổn định chính trị"?      
Những việc cần làm:
- Năng cao sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đề phòng trong cuộc chống suy thoái, chống tham nhũng lại nảy sinh ra đấu trận giữa Đảng, Nhà nước, Chính phủ, tự phân rã nội bộ. Tăng cường và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng phải mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực chất mạnh-yếu, nhất là trong đội ngũ lãnh đạo có chức có quyền.
- Cần xác định chính xác “thế lực thù địch” của cách mạng, của nhân dân là kẻ nào?
- Coi trọng dân chủ và nhân quyền.
- Nhìn rõ nguy cơ “tự diễn biến” do suy thoái, biến chất, tham nhũng ngay trong nội bộ đảng cầm quyền.
- Kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng, dứt khoát đưa pháp luật, nguyên tắc điều lệ vào việc xử lý kỷ luật nội bộ đảng, kiên quyết đưa ra khỏi đảng những cán bộ lãnh đạo, đảng viên không còn đủ tư cách đảng viên cộng sản. thoái hóa, biến chất.
- Không nên dùng quyền đảng, quyền của chính quyền (vì bảo thủ, cố hữu, độc đoán chuyên quyền) huy động công an, quân đội thay hai chữ "dân chủ" thành “chuyên chính với nhân dân”, mất cảnh giác với thù trong-giặc ngoài; không được làm mất quyền dân chủ, hoặc mù quáng đi ngăn chặn những hoạt động dân chủ của xã hội.
- Lãnh đạo không nhu nhược, không luồn cúi trước thế lực thù địch lớn nhất là Trung Quốc đe dọa chủ quyền dân tộc, biển đảo của VN, không ngăn chặn những bày tỏ thái độ lòng yêu nước, kể cả mít tinh, biểu tình chống quân xâm lược Trung Quốc, bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc. Cần có thái độ dứt khoát, kiên quyết, làm yên lòng dân thì mới "ổn định chính trị"...

Cũng về nội dung này, trong bài “Đất nước Miến Điện và dân chủ”, nhà bình luận Trần Bình Nam đã nói: “Cái luận thuyết: 'Ổn định chính trị là môi trường cần thiết cho sự phát triển kinh tế' cũng có cái giá trị thực tế của nó, nhưng vấn đề là môi trường nào và có thực chất hay không. Thông thường các chế độ độc tài hay dùng luận thuyết đó như một chiêu bài. Không ai đặt câu hỏi, thế nào là ổn định chính trị và muốn ổn định chính trị có nhất thiết phải duy trì một chính sách độc tài không. Một chế độ dân chủ với khối quần chúng có trình độ và với những người lãnh đạo có trách nhiệm là môi trường tốt nhất cho ổn định chính trị và phát triển kinh tế. Trên căn bản đó tôi cho lập luận 'ổn định chính trị để phát triển kinh tế' cũng là ngụy biện cho sự bảo thủ".
              Nhìn rõ thực trạng đánh giá đúng tình hình, có giải pháp thích hợp và kiên quyết, thì mới giữ vững được ổn định chính trị trong tình hình hiện nay, thoát khỏi được những nguy cơ mất nước, mất dân.
BVB
 
 

Copy từ: Bùi Vắn Bồng

Quan tham hại dân nghèo!


Phòng GD - ĐT Yên Bình ( Yên Bái )
           Ở huyện Yên Bình của tỉnh Yên Bái, cùng lúc người ta đòi “đuổi” 80 giáo viên vô tội ra khỏi biên chế nhà nước, “tống” nhiều người khỏi bục giảng vĩnh viễn khi họ mới vừa tốt nghiệp sư phạm.
           Nhiều người trong số đó đã phải lo lót, bỏ mấy chục đến cả trăm triệu đồng ra để “chạy” đi dạy học tít rừng xanh núi đỏ. Chưa hết, huyện này còn nhận “thừa” đến hơn 300 trường hợp vào các hợp đồng, tuyển dụng, biên chế để rồi… tự tin đòi thải loại.
GS Nguyễn Minh Thuyết: "80 giáo viên ở Yên Bình (Yên Bái) bỗng dưng bị cắt biên chế do "quan tham" ăn tiền, rồi nhận thừa cả mấy trăm giáo viên... Đây là tin quá sốc".
Trái đạo lý và pháp lý
             - Ông nghĩ thế nào về sự việc 80 giáo viên ở Yên Bình đột ngột bị cắt biên chế?
GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng
của Quốc hội 
           - Tin đó làm tôi rất sốc. Tôi không thể nghĩ được ở một huyện miền núi có thể sa thải một lúc 80 giáo viên. Đáng lẽ ở những vùng như thế thì phải động viên người ta làm việc tốt hơn nhưng chính quyền lại làm việc ngược đời là đưa họ ra khỏi biên chế không có lý do thuyết phục.
              - Thừa thì cắt, điều đó theo lý lẽ của lãnh đạo huyện này chắc cũng là bình thường?
            - Nhưng có thật huyện Yên Bình và tỉnh Yên Bái thừa giáo viên không? Thực ra biên chế của mình hiện nay, nhất là ngành giáo dục, nhiều khi phân bổ không đúng đâu. Những chỉ tiêu hành chính rất máy móc. Ví dụ, Bộ GD&ĐT quy định mỗi lớp không quá 35 học sinh nhưng trên thực tế, đa số lớp là 50 - 60 học sinh.
              Ở miền núi có thể lớp học không đông như vậy, nhưng lại có những lớp ghép ba bốn khối với nhau - em lớp 1, em lớp 3, em lớp 4. Những lớp đông, lớp ghép như vậy cũng chỉ bố trí một biên chế giáo viên có hợp lý không? Nhưng dù biên chế có thừa cũng không thể đối xử với con người như thế được, huống chi đây là những nhà giáo.
Dư luận bất bình với quyết định này!
             Đó là quyết định thiếu tình người. Chưa kể nhiều trường hợp để được đi dạy học đã buộc phải đút lót cho quan chức, giờ lại bị đuổi khỏi ngành thì xử sự như vậy rất là vô đạo đức. Về pháp luật mà nói, cũng không có căn cứ nào để thải loại một lúc 80 giáo viên cả.
                Lãnh đạo huyện coi đó là hành động để "sửa sai", ông đánh giá thế nào về giải pháp "sửa sai" này?
              Ai sai thì người đó phải chịu trách nhiệm. Không thể bắt giáo viên phải gánh chịu cái sai của lãnh đạo.
Không ai ký biên nhận khi ăn tiền cả!
              - Theo điều tra ban đầu thì lý do để thải loại 80 giáo viên là có những khuất tất trong việc nhận biên chế. Điều này theo ông có khó hiểu không?
              - Nếu có khuất tất thì trước hết những người đã nhận tiền của giáo viên để "nhét" họ vào các trường phải chịu trách nhiệm. Dư luận nói rất nhiều về chạy việc chạy chức chạy quyền rồi. Nhưng các cấp quản lý luôn nói không có bằng chứng. Vậy những trường hợp này có phải bằng chứng không? Khi đã có tố cáo của người liên quan thì chính quyền phải vào cuộc làm rõ.
            Và theo thông tin đến thời điểm hiện tại thì ông chủ tịch huyện tai tiếng nhất trong vụ này thì chuyển lên đảm trách cương vị phó trưởng ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh.
              Tôi sửng sốt khi nghe thông tin trong phóng sự rằng phần lớn những người bị giáo viên tố cáo đều đã được thăng chức. Cần phải làm rõ sự thực như thế nào để xử lý thích đáng.
                  - Nhưng theo luật, người đưa hối lộ cũng bị xử lý. Những giáo viên này cũng vi phạm pháp luật?
               - Đúng vậy. Nhưng sẽ phải xem xét hoàn cảnh cụ thể. Ở đời, không ai tự nguyện đưa tiền cho người khác cả, trừ bố mẹ đưa tiền cho con. Trong trường hợp người đưa hối lộ đứng ra tố cáo thì họ sẽ được xem xét để giảm mức hình phạt.
                 - Được biết có những người phải bán trâu, bán ruộng, bán thóc để có 40 - 50 triệu đồng chạy việc. Vì vậy, có ý kiến cho rằng họ đáng thương hơn là đáng trách?
               Dù đáng thương thì theo quy định của Bộ luật Hình sự người đưa hối lộ cũng vi phạm pháp luật rồi. Tốt nhất là hãy tố cáo kẻ ăn hối lộ để được khoan hồng.
                 - Giả sử không có bằng chứng thì liệu có xử lý được không?
                - Tôi nghĩ là lãnh đạo quyết tâm, cơ quan thanh tra, điều tra quyết tâm thì làm được. Thông thường, chẳng mấy ai ăn hối lộ lại ký biên nhận. Nhưng hãy thử hỏi xem vì sao mà ông quan nọ quan kia cố "ấn" những giáo viên này xuống trường dù trường đã có đủ biên chế? Bằng chứng ở đó chứ ở đâu! Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, cơ quan thanh tra, điều tra còn nắm được những chi tiết như người ta đưa tiền cho ai, lúc nào, ở đâu, người đưa tiền mô tả nhà cửa, phòng trong phòng ngoài thế nào... để đấu tranh với quan tham. Nhiều người cùng tố cáo thì dễ tìm ra thôi. Nhưng nói thật là giao cho cơ quan cấp tỉnh thanh tra, điều tra mấy ông quan tỉnh thì khó lắm.
                - Qua sự việc này có lẽ sẽ có người nghĩ rằng: Quan tham làm hại dân nghèo. Ông có nghĩ vậy không?
                - Quan tham nào chả hại dân. Dân càng nghèo thì càng bị hại nặng hơn.
Ngành nào cũng thế thôi!
               - Câu chuyện "chạy công chức" có phổ biến trong ngành giáo dục?
                 - Theo quan sát của tôi thì nó phổ biến trong tất cả các ngành. Nhìn chung bây giờ làm cái gì cũng phải tiền. Nó thành tập quán xã hội mất rồi. Tập quán ấy đã đẩy người đi tìm việc đến chỗ phải hối lộ. Trách họ một phần, trách những quan tham  mấy phần. Nếu quan chức đứng đắn, nhất định không nhận thì ai hối lộ cho được!
                   Ở góc độ công luận, nếu những giáo viên này bị xử lý thì sẽ là một sự chua xót!
                    Bản thân tôi cũng thấy áp dụng hình phạt với họ thì bất nhẫn. Vì bất đắc dĩ mà họ phải làm thế. Mất tiền, họ được cái công việc chẳng đáng gì, với mức lương bèo bọt. Nếu là tôi thì chắc là tôi sẽ gom tiền mở cửa hàng kinh doanh tạp hóa để sống còn hơn là làm việc đó.
                  - Nhưng như thế sẽ phí công học hành của mình?
                 - Biết làm thế nào? Còn hơn là mất cả chì lẫn chài như những giáo viên ở Yên Bình. Mình tự tạo ra sự nghiệp của mình có phải hơn không?
Nhưng trong ngành giáo dục, số biên chế hiện nay là quá ít so với số sinh viên sư phạm ra trường  hàng năm. Nhiều cử nhân đi làm xe ôm, lái taxi, bán hàng thuê...
             Không chỉ ngành sư phạm mà nhiều ngành khác cũng thế thôi. Thực tế chỉ có khoảng 20% sinh viên ra trường là kiếm được việc làm đúng nghề được đào tạo. Cử nhân tốt nghiệp ngành kỹ thuật bây giờ cũng đi bán mỳ tôm... Đó là vấn đề xã hội rồi. Bước đường cùng họ mới tố cáo.
            - Theo ông thì vì sao mãi đến khi bị đuổi, số giáo viên này mới dám tố cáo?
            - Họ chẳng dại gì gây sự khi đã có việc làm. Nhất là khi người nhận tiền lại đang có chức có quyền, nắm sinh mạng chính trị của họ. Giờ đến bước đường cùng rồi, của đau con xót thì họ mới phẫn nộ mà nói thôi. Đó là tâm lý bình thường của con người.
              - Vậy để làm một cuộc thanh lọc cán bộ, chỉ mặt người từng ăn hối lộ có dễ không?
              - Tôi tin là nếu các cơ quan chống tham nhũng vận động người dân tố cáo và cam kết bảo vệ họ thì có thể tìm ra rất nhiều vụ. Nhưng vấn đề là các cơ quan phòng chống tham nhũng có quyết tâm làm không.
               - Theo quy định thì khi nào giáo viên bị sa thải?
              - Thường thì phải phạm lỗi rất nghiêm trọng, thường là về đạo đức, về kỷ luật thì mới bị sa thải. Ít có giáo viên phải ra khỏi ngành vì chuyên môn yếu lắm.
                 - Liệu có khả năng nào 80 giáo viên này được trở lại biên chế?
                 - Tôi tin là 80 giáo viên này phải được trở lại biên chế.
                 - Quay lại để bị trù dập?
              - Nếu những tố cáo của giáo viên được chứng minh thì liệu những người ăn tiền của họ có còn "ghế" không mà trù dập họ?
                 - Xin cảm ơn ông!
Công đoàn giáo dục không thể bỏ mặc anh chị em trong hoàn cảnh này. Ngoài công đoàn, còn có đoàn thanh niên, hội phụ nữ... sao không thấy đoàn thể nào lên tiếng? Chính quyền huyện Yên Bình và tỉnh Yên Bái cũng phải có lời giải thích và có biện pháp giải quyết tình trạng này, chứ không thể phớt lờ dư luận, báo chí được.
  Tô Hội (Thực hiện) -  Nguồn: Kiến thức.net 

Một trường, có... 2.000 đồng “ngân khố”/năm học
Một lãnh đạo UBKTTU Yên Bái đau đớn nói: Chúng tôi phải lên tận Bộ Nội vụ để hỏi xem, việc thừa biên chế và cán bộ giáo viên như thế, xử lý thế nào? Câu trả lời là ai lấy thừa thì người đó chịu trách nhiệm. Nhưng mà ngân sách nhà nước lấy đâu để trả lương cho hơn 300 lao động “thừa” đó? Nhất là trong thời buổi thắt hầu bao, giảm chi như bây giờ. Theo quy chế, lẽ ra, sau khi trả lương thì ngân sách dành cho giáo dục còn 18% kinh phí để phục vụ các hoạt động dạy và học cùng nhiều hoạt động bổ trợ khác. Thế mà, vì thừa giáo viên quá nhiều, nên không có tiền để trả, họ đã phải nợ hàng tỉ đồng tiền lương. Dẫn đến, có trường mỗi năm chỉ có 2.000 đồng... chi cho các khoản khác. Cả huyện trường nào cũng cắt hết các suất mua báo phục vụ nhà trường, “mù thông tin tuốt”. Thiếu tiền đã dẫn đến lạm thu của học sinh và nhiều bi kịch khác. Tính đến kết thúc đợt thanh tra, như trường ở xã Tân Hương, đã nợ 200 triệu đồng tiền lương thầy-cô giáo.

Copy từ: Bùi Văn Bồng


Từ Bá Thanh, Ba Dũng đến... Kim Chi và Hiến Pháp


Vũ Đông Hà (Danlambao) - Sau khi vở tuồng đấu đá Sang Trọng Dũng hạ màn với sự ra đời của đồng chí X thì chính/chiến trường của đảng yên ắng mùa đông được vài tuần. Khi con số 2013 hiện trên tờ lịch mới thì Ba Đình nóng lại với bàn cờ và con cờ mới: Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh. Những tên trùm ăn cướp tiếp tục vừa nắm quyền, vừa bán nước, vừa kết án bỏ tù người yêu nước, vừa đánh đấm, đấu đá nhau trong sự nghiệp ăn cướp trường kỳ. Trong bối cảnh đó, bước sang 2013, hình như vẫn còn, vẫn có những con người bị cướp tiếp tục sống trong niềm hy vọng một cách tuyệt vọng rằng chúng đánh nhau thì chúng sẽ yếu. Bất chiến tự nhiên thành!?
Phe chống Dũng nêu lên những con số "tàn tệ" từ sự điều hành của Ba Dũng, bí danh mới X: 1,33 triệu tỷ đồng, tức hơn 60 tỷ đô la tổng nợ của doanh nghiệp nhà nước. Nợ vì tiền đã vào túi của chúng. Và ai sẽ là người phải trả món nợ khổng lồ này nếu không là 90 triệu người dân? 
Phe X phản pháo công bố việc bỏ túi ngân sách của Bá Thanh tổng cộng 3434 tỷ đồng tức 165 triệu đô. Ngân sách cũng là tiền của dân mà đảng nắm quyền cùng nhau chia chác, đã biết từ lâu nhưng bây giờ vì muốn bôi đen nhau nên giải mật để làm dập mật nhau. 
Trong hiệp đấu đá mới này, cuối cùng qua việc bạch hóa những bê bối cho nhu cầu làm xấu mặt đồng chí nhau, vẫn hiện hình nạn nhân là những người dân Việt khốn cùng; và họ - những kẻ cai trị thì cướp vẫn hoàn cướp. 
Chỉ có khác với những tên cướp đầu đường xó chợ, đây là những tên cướp đang nắm quyền Thủ tướng, đang là lãnh chúa Đà Nẵng nay trở thành trùm chống tham nhũng; và chung quanh là một bộ phận không nhỏ thoái hóa, tham ô, một bầy sâu nhung nhúc theo đúng lời của Trọng Lú đầu đảng và Tư Sang trùm nước. Chỉ có khác, đây không phải là những lời vu khống của "các thế lực thù địch" mà do chính họ vạch áo lẫn nhau. 
Ở đảng này, bạn nào đó còn tin tưởng trong băng của họ có những "tên cướp đàng hoàng" sẽ dẹp những "tên cướp không đàng hoàng" và sau đó đảng này sẽ "thôi là" đảng cướp? Bạn còn tin rằng khi chúng đánh nhau chúng sẽ yếu và chính quyền sẽ tự nhiên rơi trở lại vào tay nhân dân? 
Một năm vừa qua và sự ra đời của "đồng chí X" vào ngày bế mạc đại hội đảng cướp 2012 chưa đủ để dân ta ngưng làm khán giả, cổ vũ bên này hoặc bên kia, hy vọng phe này thắng, phe kia thua thì đất nước sẽ khá hơn? Chưa đủ để nhận ra rằng, thay vào đó, chúng ta phải chủ lực tìm mọi cách cùng nhau vượt qua sợ hãi, từng bước xây dựng được sức mạnh quần chúng để bứng đám cướp ngày lẫn cướp đêm này ra khỏi vị trí cai trị hay sao? 
Và trong sự tình cờ hay không tình cờ, giữa màn đấu đá mới của các trùm cộng sản ở tầng cao này cũng xuất hiện lạ lùng một chuyện nhỏ mà không nhỏ, lớn mà không lớn: 
- “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm.”

- “Tôi có thể không tin cá nhân ông thủ tướng nhưng mà tôi tin cái chung, còn nhiều cái điều tốt đẹp.” 

- “Tôi cũng nói thẳng, tôi là nghệ sỹ cộng sản chính hiệu, và cho tới bây giờ, trái tim tôi là tim của một người cộng sản mong cái đất nước này sẽ hòa nhập được với thế giới, tốt đẹp hơn, giàu có hơn, và dân không khổ nữa.” 
Những câu nói của Nghệ Sỹ Kim Chi đã làm nhiều người ca tụng, lẫn nghi ngờ, chê bai... Nhưng nó có nằm đâu trong bàn cờ thế sự của những người cộng sản ai cũng cho mình là chính hiệu này? Có gì khác / giống giữa bà Kim Chi và Bá Thanh, hai đồng chí cộng sản đang cùng nhau mần thịt đồng chí Ba Dũng bằng những góc cạnh, hình thức khác nhau?
Và ngày hôm nay, cùng lúc, giữa những màn đấu đá lẫn nhau không ngừng nghỉ, những kẻ cai trị lại đưa ra màn kịch đã được diễn tuồng nhiều lần: góp ý sửa đổi hiến pháp - một hiến pháp đã được tạo dựng, tùy nghi thay đổi, thao túng, khống chế bởi những người cộng sản chân chính trong suốt bao năm qua. 
Đã bao lần dân ta mang thân phận "được" cho phép góp ý trong thể chế xin-cho này? Chưa đủ sao! 
Đã bao lần kết quả cho thấy dân mình là nạn nhân của một trò lừa hay đúng hơn là diễn viên vô tình góp phần cho một màn kịch dân chủ giả hiệu của đảng cầm quyền, cầm tiền, cầm búa, cầm liềm, cầm chìa khóa nhà tù...? Chưa thấm sao! 
Đã nhiều lần, và bây giờ nữa, nhiều người cho rằng dù sao góp ý cũng hơn là không nói gì để rồi sau mỗi một màn kịch như thế, đảng công bố văn bản theo ý đảng nhưng vẫn tuyên truyền với cả nước một "sự thật": có sự góp ý của mọi thành phần quần chúng. 
Một chế độ độc tài khi đưa ra việc sửa đổi Hiến Pháp chỉ có một mục tiêu duy nhất: tìm cách củng cố khả năng cai trị và gia tăng vị trí độc tài cũng như khả năng trấn áp bằng văn bản cao nhất là Hiến Pháp. Kêu gọi góp ý có sự kiểm soát của đảng chỉ là trò dân chủ mị dân. 
Vì thế, tại sao còn có thể hy vọng trong việc "góp ý" cho những kẻ mà chúng ta biết rõ ý thuận là ý đảng, ý nghịch là của thù địch. Sẽ được gì từ những người sẽ bằng mọi giá để nắm quyền sinh sát trong tay? Tin tưởng gì với những con người bất chấp dư luận của nhân dân 90 triệu người, lẫn cả thế giới? Mong mỏi gì ở những kẻ vừa ăn cướp vừa nghênh ngang giảng bài tự trọng, vừa bán nước vừa thuyết pháp đừng hỗ thẹn với tiền nhân? 
Và chúng ta đang đứng ở đâu? Tiếp tay với những kẻ vẫn mang thẻ đảng, vẫn tự hào mình là những người cộng sản chân chính, vẫn nắm trong tay cái sổ hưu, đang tìm mọi cách gọi là "chỉnh đốn đảng" để đảng của họ tiếp tục là đảng lãnh đạo duy nhất và muôn năm theo điều 4 do chính họ đặt ra và áp đặt lên đầu cả một dân tộc? 
Do đó, cần gì phải viết cả một bài dài dòng góp ý về Hiến Pháp. Cần gì phải lách qua lách lại để đòi hỏi những điều nhỏ bé và im lặng trước những điều không thể không thay đổi vì biết trước rằng... họ sẽ không chịu. 
Kiến nghị, góp ý những gì mà đảng cầm quyền có thể "cho" và im lặng về những mà họ không "chịu cho" là một thái độ mà sau đó sẽ bị khai thác, lợi dụng tuyên truyền và bị xem là chấp nhận, đồng lòng với đảng cầm quyền về những điều mà ta im lặng. 
Vận mạng của đất nước này khó mà thay đổi được bằng góp ý, kiến nghị, xin phép và mong rằng "họ sẽ chịu". Vận mạng của dân tộc này chỉ thay đổi bằng tranh đấu và tạo sức ép buộc những kẻ cầm quyền phải nhượng bộ hay tan hàng. 
Do đó, nếu lên tiếng chỉ cần một câu: Chúng tôi, những công dân có tên sau đây không chấp nhận điều 4 trong hiến pháp. Và cùng nhau ký tên. Thái độ cần phải có của những công dân có trách nhiệm: đây không phải là một lời góp ý với ai cả mà là một khẳng định ý chí; đây là mục tiêu của tranh đấu chứ không phải mong mỏi của một sự xin cho
Đã đến lúc cần ngừng những việc làm vô ích của góp ý, xin xỏ, thuyết phục, kiến nghị đối với tập đoàn thiểu số cai trị về nội dung của một văn bản mà đúng ra là của đại số nhân dân. Hãy bắt đầu chấm dứt tình trạng một tập thể 90 triệu người bị một thiểu số cộng sản đè đầu cưỡi cổ, hành xử theo sự xin-cho của họ. Có sự dứt khoát như thế thì mới còn có đầu óc và ý chí để tìm phương thức cùng nhau dẹp hẳn cái chế độ này. 
Mọi cuộc cách mạng đều phải bắt đầu bằng một thái độ dứt khoát ngay cả vào những lúc mà ta cảm thấy tuyệt vọng và yếu đuối nhất.

Copy từ: Dân Làm Báo


 

Hội chứng hoang tưởng

Hội chứng hoang tưởng (paranoid personality disorder, sẽ viết tắt là PPD) là một rối loạn tâm thần với đặc điểm là người mắc bệnh hay nghi kỵ người khác. Người mặc bệnh PPD không có khả năng tin tưởng vào người khác, nhìn người khác như là những người thù địch. Có thể nói rằng bệnh nhân PPD rất giống với người cộng sản.
“Thế lực thù địch” là cụm từ mới xuất hiện gần đây, nhưng đã trở thành khá phổ biến. Chỉ cần gõ “thế lực thù địch” trong hộp tìm kiếm của Google tôi được kết quả hơn 2 triệu kết quả trong vòng 0,26 giây. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình không ngớt lớn tiếng cảnh báo người dân rằng thế lực thù địch đang len lỏi vào guồng máy của Nhà nước, đang gây tác hại nghiêm trọng cho Việt Nam. Có khi họ cảnh báo rằng thế lực thù địch đe doạ đến sự sống còn của đảng, của Nhà nước và sự an sinh của người dân. Có thể nói rằng những người làm truyền thông cho đảng đã dùng thế lực thù địch như một con ngáo ộp, kích động người dân, làm cho người dân cảm thấy bất an.
Chỉ một thời gian ngắn tiến hoá “thế lực thù địch” đã trở thành một câu thần chú của người cộng sản. Trong bài diễn văn dài bế mạc Hội nghị 6 gì đó của ngài tổng bí thư NPT có đoạn: “Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”. Trong những năm qua, dường như trong đầu óc của những người cộng sản họ chỉ nghĩ đến những thế lực thù địch. Ngay cả khi đất nước ở trong tình trạng thù trong giặc ngoài như thế mà họ chỉ nghĩ đến thế lực thù địch! “Thế lực thù địch” gần như là một câu kinh của những người cộng sản Việt Nam trong thế kỷ 21.
Nhưng ai là thế lực thù địch thì chẳng ai biết nhưng có thể đoán được. Dù họ không nói thẳng ra ai là thế lực thù địch, nhưng ai cũng hiểu rằng bất cứ người nào phê bình chính sách của đảng đều được xếp trong danh sách thù địch. Mỹ và các nước phương Tây được Trung cộng xem là thế lực thù địch. Người cộng sản Việt Nam cũng xem Mỹ và các nước phương Tây là thế lực thù địch dù họ rất thích gửi con cháu sang đó du học. Người dân đi biểu tình chống Trung cộng xâm lăng cũng bị xem là thế lực thù địch, là phản động. Một điểm đáng nói ở đây là bất cứ ai mà Trung cộng xem là thế lực thù địch thì người cộng sản VN cũng xem là thế lực thù địch.
Vì không biết cụ thể thế lực thù địch là ai, nên chúng ta có thể tạm cho đó là một thế lực ma. Ma là một khái niệm trừu tượng, thường đề cập đến người đã chết, nhưng vì còn ân oán với người cõi trần nên hay hiện về để nhát. Ma không hiện hình mà chỉ xuất hiện trong tâm tưởng của con người. Người sợ ma là người thiếu tự tin. Thiếu tự tin nên họ tin vào thần thánh, bùa ngải. Thiếu tự tin là một thể hiện của người bất an và thiếu học vấn. Nếu là người có tự tin và học vấn thì không ai tin vào ma quỷ, chẳng ai khấn nguyện nhờ đến thần thánh để che chở. Chỉ có người vì biết mình bất tài, biết mình thất học, biết mình làm chuyện ác ôn, nên mới cảm thấy bất an và hô toáng lên là có ma. Do đó, có thể nói rằng người cộng sản đang hô toáng thế lực thù địch cũng có nghĩa họ đang bất an.
Nhưng tại sao người cộng sản lại đa nghi, không tin người dân? Nghĩ một chút tôi thấy những gì người cộng sản suy nghĩ, nói và làm rất phù hợp với những đặc điểm của hội chứng hoang tưởng PPD hoặc hội chứng phản xã hội. Tôi sẽ bàn về hội chứng PPD trước.
Hội chứng hoang tưởng  
Triệu chứng nổi bật của người mắc chứng PPD là không tin tưởng vào người khác, lúc nào cũng nghi ngờ người khác, nghi ngờ cả người thân và đồng nghiệp. Người mắc bệnh PPD có những đặc tính nổi bật như thiếu tin tưởng vào người khác, lúc nào cũng nghi kị người khác. Trong đầu của bệnh nhân PPD là người khác lúc nào cũng tìm cách ám hại mình, bất cứ hành động mang tính tích cực nào của người khác cũng được hiểu là có ý đồ xấu xa. Điều này rất đúng với người cộng sản vì họ không tin ai cả. Trong xã hội do người cộng sản điều hành và cấu tạo nên, ai cũng nghi kỵ lẫn nhau. Ngay cả trong gia đình cũng nghi kỵ lẫn nhau. Trong xã hội VN hiện nay mọi thành viên đều là những người tù dự khuyết. Bầu Kiên có thể là anh hùng hôm qua nhưng đùng một cái là tù nhân. Một ông cựu bộ trưởng đáng kính vẫn có thể đi tù dễ dàng. Người cộng sản không tin ai cả vì chính họ cũng không tin họ nói thật. Ngoài triệu chứng chính vừa đề cập người mắc chứng PPD còn có một số biểu hiện như sau:
Một là nghi ngờ người khác một cách vô căn cớ, nghĩ rằng người khác đang lợi dụng mình, hãm hại mình, hay lường gạt mình. Người cộng sản lúc nào cũng nghi ngờ người ngoài đảng. Họ xem người ngoài đảng như tín đồ Hồi giáo xem người không theo đạo Hồi là những kẻ ngoại đạo, đáng nghi ngờ. Chính vì suy nghĩ này mà người cộng sản chỉ chia chác quyền lực và đặc lợi cho người trong đảng. Nói ra thì có vẻ quá đáng như đảng Mafia cũng làm như thế. Vì nghi ngờ nên người cộng sản xem bất cứ việc làm gì của các tổ chức phi chính phủ (NGO) là những thế lực đáng ngại, cần phải theo dõi. Chính vì thói nghi ngờ và thiếu tự tin nên họ không tin vào Việt kiều. Bao nhiêu trí thức Việt kiều muốn góp một tay cho chế độ mà có được đâu. Ngay cả những người trí thức trong nước góp ý chân tình cho họ mà vẫn bị theo dõi, thậm chí bắt bớ giam cầm.
Hai là bị ám ảnh bởi những nghi ngờ về sự trung thành và tin cậy của bạn bè, đồng nghiệp. Khi người khác giúp họ thật tình, họ cũng nghi ngờ sự giúp đỡ đó. Mỹ muốn giúp đào tạo chuyên gia cho VN, nhưng người cộng sản nhìn đó như là một thế lực đe doạ, và xem Mỹ như kẻ thù. Ngay cả trong nội bộ đảng họ cũng có cơ chế kiểm tra hành động của đảng viên. Đi xa hơn kiểm tra hành động là kiểm soát tư tưởng của đảng viên. Do đó, toàn bộ đảng viên trở thành những con cừu, chỉ biết suy nghĩ và nói theo một định hướng. Những ai có suy nghĩ khác thì sống bằng cuộc sống 2 mặt. Bên Tàu có một cuốn tiểu thuyết mô tả một nhân vật sống 2 mặt rất sống động. Sáng sớm anh ra vườn sau chửi bới đảng cộng sản, chửi xong, anh thay đồ đi làm và lên lớp ca ngợi công ơn trời biển của đảng!
Ba là không muốn chia sẻ thông tin với người khác vì họ sợ thông tin sẽ được sử dụng để chống lại hay ám hại mình. Người cộng sản xem thông tin là vũ khí. Mà vũ khí thì có thể dùng để gây tác hại. Do đó, người cộng sản kiểm soát toàn bộ thông tin. Từ báo chí, đài phát thanh, đến đài truyền hình và mạng, họ kiểm soát tất cả. Thật ra, đây là một hành động suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá khứ họ từng lũng đoạn thông tin và lợi dụng tự do thông tin để gây tác hại đến đối phương.
Bốn là lúc nào cũng diễn dịch ý nghĩa tiềm ẩn đằng sau mỗi thông tin và sự kiện vì họ nghi ngờ rằng thông tin được trình bày chỉ là bề mặt, còn đằng sau là hàm ý ám hại họ. Người cộng sản rất thích nói về “bản chất và hiện tượng”. Những gì xảy ra họ xem là hiện tượng, họ không quan tâm mấy, nhưng họ rất quan tâm đến bản chất. Khi công an “làm việc” với ai họ nghi là “phản động” (nghi ngờ là bản chất của họ) thì câu hỏi xoay quanh ai đứng đằng sau việc làm của người đó. Đây cũng là một bản chất mang tính suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá khứ họ đứng đằng sau xúi dục trí thức miền Nam xuống đường chống lại chế độ Mỹ-Thiệu. Tương tự, khi người dân xuống đường đòi đất, họ không quan tâm giải quyết vấn đề mà chỉ truy tìm mầm mống mà họ gọi là “phản động”.
Năm là lúc nào cũng tỏ thái độ đố kỵ, thù hận. Người mắc bệnh PPD không có khả năng tha thứ, họ luôn tìm cách dìm người khác, nói xấu người khác và khi cần ám hại họ. Tha thứ không có trong từ điển ngữ vựng của người cộng sản. Họ đày đoạ quân lính, sĩ quan, viên chức của chế độ cũ ra sao thì chúng ta đều biết. Có thể nói đó là một chương sử đen tối nhất của người cộng sản.
Một đặc điểm khác là người mắc chứng PPD rất huênh hoang. Họ tự xem mình là tài giỏi nhất thế giớilà trường tồn. Đặc điểm này cũng giống với người cộng sản. Họ tự xem mình là “quang vinh”, là tài ba nhất thiên hạ, là “đỉnh cao trí tuệ”, là bách chiến bách thắng. Họ không ngần ngại tuyên bố đảng của họ là “muôn năm” dù trong lịch sử nhân loại không có chế độ nào hay đảng phái nào tồn tại muôn năm.
Tất cả những đặc điểm của chứng bệnh hoang tưởng vừa mô tả trên đều rất phù hợp với người cộng sản. Theo y văn thì hội chứng PPD khá phổ biến trong dân số. Trên thế giới, thống kê cho biết có khoảng 0,5 đến 3% người mắc chứng hoang tưởng. Nam giới có khuynh hướng dễ mắc PPD hơn nữ giới. Phần lớn những người mắc chứng PPD ở độ tuổi 40-50. Hiện nay có khoảng 3 triệu đảng viên đảng CSVN, chiếm 3% dân số. Con số này cũng phù hợp vối y văn thế giới. Số nam đảng viên cao hơn nữ đảng viên. Do đó, số người mắc chứng hoang tưởng nhiều hơn trong nam giới, cũng phù hợp với y văn thế giới.
Hội chứng phản xã hội
Một hội chứng có liên quan đến PPD là hội chứng phản xã hội (antisocial personality disorder, viết tắt APD). Đặc điểm chính của APD là khuynh hướng không quan tâm đến quyền lợi của người khác, hay xâm phạm quyền lợi người khác. Hội chứng này cũng rất phù hợp với người cộng sản vốn rất vô cảm và có khi tàn ác. Người mắc chứng APD có những triệu chứng như sau:
Một là không sống theo chuẩn mực xã hội. Họ không tôn trọng luật pháp, họ sống theo luật của chính họ đặt ra. Người cộng sản một mặt nói đến luật pháp như là một khuôn mẫu về trật tự xã hội, nhưng khi hành động thì hoàn toàn trái với pháp luật. Họ bắt người một cách tuỳ tiện. Muốn bắt thì bắt, không cần đến luật pháp, toà án. Họ thậm chí còn tuyên bố “luật là ta, ta là luật”. Mà đúng như thế. Họ ngồi xổm trên luật pháp. Chúng ta thấy một mặt họ kêu gọi thắt lưng buộc bụng, nhưng mặt khác họ sống như những bậc đế vương thời phong kiến mà họ từng nguyền rũa. Trong khi người dân chen chút nhau trong bệnh viện, họ có bệnh viện riêng, bác sĩ riêng, thậm chí còn có cả vườn rau riêng, đàn bò sữa riêng. Họ ra điều luật cho cán bộ cao cấp không được kết hôn với những ai có gốc gác “nguỵ”, nhưng con gái thủ tướng thì được lấy con trai của cựu thứ trưởng “nguỵ”. Con gái tổng bí thư Lê Duẩn cũng được kết hôn với người Nga, trái 180 độ với qui định do chính ông đề ra! Người cộng sản nói một đằng làm một nẻo.
Hai là lường gạt, giả dối. Người mắc chứng ADP rất hay nói dối, dùng tên giả để nói xấu người khác. Nói dối, với người cộng sản, là một quán tính. Họ có thể biến trắng thành đen, nói đen là trắng. Điển hình như vụ việc ở Văn Giang, Tiên Lãng. Họ cho công an đánh dân, nhưng đài báo thì nói là “xã hội đen”. Ai cũng biết lãnh đạo cộng sản hay dùng tên giả. Có người dùng đến cả trăm tên giả! Thời chiến thì có thể hiểu được, nhưng thời bình họ cũng dùng tên giả. Mỗi khi muốn nói xấu ai họ cho phóng viên ký tên giả để tha hồ viết. Ai cũng biết đó là một thái độ tiểu nhân, nhưng họ làm gì có quân tử tính mà chúng ta phải ngạc nhiên. Còn tính giả dối của người cộng sản thì gần như là một đặc tính tiêu biểu. Giả dối về lịch sử như vụ Lê Văn Tám. Giả dối trong khoa học. Giả dối trong giáo dục. Giả dối bằng cấp. Lĩnh vực nào cũng giả dối. Nói chung sau 37 năm thống trị, người cộng sản đã biến một xã hội lành mạnh trở thành một xã hội giả dối.
Ba là hung hãn, hay đánh người. Người cộng sản xem công an không phải là lực lượng bảo vệ an ninh cho dân mà là một thanh kiếm của đảng. Kiếm thì chỉ dùng cho chuyện đâm chém, giết người, răn đe. Nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy công an là một kiêu binh thời nay. Công an bắt người vô cớ, đánh người, giết người thoải mái. Giết người trong đồn. Giết người trên đường lộ. Dàn cảnh gây tai nạn. Tất cả những hành động này cho thấy công an là những người mắc bệnh phản xã hội.
Bốn là làm việc tuỳ tiện. Sự tuỳ tiện của người cộng sản có thể nói là ghê gớm. Qua bên Hàn Quốc thấy người ta có những tập đoàn lớn, về nhà cũng bắt chước làm theo mà không có chiến lược gì cả. Dự án đường sắt cao tốc giá trị mấy chục tỷ đôla chỉ có vài chục trang giấy. Hậu quả là Vinashin, Vinalines gây tổn hại ngân sách quốc gia hàng trăm ngàn tỷ đồng. Họ quen làm việc như thời chiến, nên không có quốc sách lâu dài nào cả.
Năm là tỏ ra vô trách nhiệm. Ông Nguyễn Cao Kỳ lúc còn sinh tiền có lần nhận xét rằng trong hệ thống chính quyền VN không ai chịu trách nhiệm cả. Điều này đúng vì đảng là người đứng đằng sau chính phủ, nhưng đảng không chịu trách nhiệm. Người cộng sản gây ra nhiều thảm hoạ chính trị và kinh tế cho đất nước. Cải cách ruộng đất. Nhân văn giai phẩm. Trại “học tập cải tạo”. Vinashin. Vinalines. Mất Hoàng Sa vào tay kẻ thù. Nhượng một phần thác Bản Giốc cho kẻ thù. Chúng ta nghĩ rằng người cộng sản sẽ chịu trách nhiệm trước toàn dân, nhưng không. Họ không nhận lỗi. Họ rất vô trách nhiệm.
Sáu là không có cảm giác ăn năn hối lỗi và vô cảm. Vô cảm là một đặc điểm rất nổi bậc của bệnh nhân ADP. Bệnh nhân ADP rất bàng quang trước những gì xảy ra trước mắt họ. Thấy người ta bị nạn, họ chỉ đứng nhìn mà không có một hành động giúp đỡ hay một lời phân ưu. Người cộng sản cũng thế. Những cái chết trong đồn công an trong thời gian gần đây là một minh chứng hùng hồn. Chúng ta còn nhớ ông Trịnh Xuân Tùng trong khi bị đánh gần chết chỉ muốn uống nước mà họ cũng không cho. Bà Liêng ở Bạc Liêu tự thiêu chẳng làm cho 700 tờ báo động lòng. Trong khi đó Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu gây ra một làn sóng câm phẫn trong dư luận báo chí thời trước 1975. Người cộng sản không ăn năn xám hối trước những cái chết như thế. Họ cũng chẳng bao giờ xin lỗi những vong hồn trong vụ Mậu Thân ở Huế hay vụ Cải cách ruộng đất. Có thể nói rằng người cộng sản rất vô cảm. Và khi họ cai trị đất nước sau 37 năm thì cả nước cũng trở nên vô cảm.
Tóm lại, những người cộng sản có lẽ đã và đang mắc chứng hoang tưởng PPD và phản xã hội APD. Nhận ra bệnh để mà chạy chữa. Nhưng cái khó là cả hai bệnh này đều là bệnh tâm thần, hay cũng có thể nói là bệnh liên quan đến thần kinh, nên rất khó chữa trị.
Để tìm phương án chữa trị, cần phải biết nguyên nhân gây bệnh. Các chuyên gia tâm thần cho rằng bệnh có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân tương tác xã hội. Khi người ta trưởng thành một môi trường đảng, qua tương tác, bị tiêm nhiễm những giáo điều, thói quen và suy nghĩ của đảng, và dẫn đến bệnh.
Nếu chẩn đoán trên là đúng và nếu nguyên nhân xã hội là đúng thì có lẽ biện pháp điều trị bệnh này là hoàn toàn có thể. Nga và các nước Đông Âu đã điều trị bệnh này. Họ cũng đã thành công. Nếu vì sức khoẻ của đất nước, những người cộng sản Việt Nam nên xem trường hợp Nga và Đông Âu như là những kinh nghiệm chữa trị bệnh hoang tưởng và phản xã hội./.


Copy từ:BS Ngọc


 

Ông Hoàng Trung Hải lại tiếp tục ca bài mị dân


Lê Anh Hùng (Danlambao) - Tại hội nghị triển khai kế hoạch năm 2013 mới đây của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), PTT Hoàng Trung Hải đã khiến không ít người nghe “mát lòng” khi phát biểu: “Giá điện hiện nay không rẻ!”. Tuy nhiên, nếu ai đó vội tin rằng ngài Phó Thủ tướng “phụ trách kinh tế ngành” có giải pháp thích đáng giúp hạ giá điện thì sẽ sớm thất vọng tràn trề.
Mười hai năm trước, khi mới rời vị trí Tổng Giám đốc EVN để đảm nhiệm cương vị Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ, vị tân Thứ trưởng đã khẳng định chắc nịch: An ninh năng lượng là vấn đề quốc gia nào cũng đặt lên hàng đầu. Mặc dù Trung Quốc, Campuchia, Lào có tiềm năng và đã sản xuất thủy điện rất lớn, nếu nhập điện từ họ có thể giá rẻ, nhưng chúng ta có thể sẽ mất cơ hội làm chủ công nghệ và mất cơ hội tạo công ăn việc làm trong nước và mất cả ngoại tệ.” Ấy vậy nhưng, suốt nhiều năm qua, dưới sự chỉ đạo của cánh tay phải của Thủ tướng đương nhiệm, Việt Nam không chỉ nhập khẩu điện ngày càng nhiều từ Trung Quốc với giá cao (cùng những điều kiện hợp đồng ngặt nghèo), mà còn gần như dâng cả ngành điện lực, một ngành kinh tế trọng yếu của quốc gia, cho người láng giềng “4 tốt 16 chữ vàng” này. (1) 
Ai cũng biết rằng, chỉ trong một thị trường điện cạnh tranh, người dân mới được hưởng giá điện cạnh tranh kèm theo dịch vụ tương xứng, phản ánh đúng mức giá thị trường của loại hàng hóa đặc biệt này. Trong khi đó, ở Việt Nam, kể từ khi nền kinh tế đất nước chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường “định hướng XHCN”, Tổng Cty Điện lực Việt Nam mà bây giờ là Tập đoàn Điện lực Việt Nam luôn là một người khổng lồ thống trị tuyệt đối trên thị trường điện, cả ở khâu sản xuất lẫn khâu truyền tải và phân phối. Theo báo Kinh tế và Đô thị ngày 4/4/2012: “Hiện tại, các doanh nghiệp của EVN chiếm trên 70% tổng sản lượng điện sản xuất, EVN độc quyền 100% ở khâu truyền tải và giữ 95% ở khâu phân phối điện cả nước. Cùng với đó, công ty mua buôn điện duy nhất là Công ty mua bán điện và đơn vị vận hành hệ thống và thị trường điện là Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia vẫn trực thuộc EVN. Thực tế này cho thấy, rất khó tạo ra thị trường phát điện cạnh tranh, chưa nói gì đến thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.” 
Việc mở cửa ngành điện, tạo lập thị trường điện cạnh tranh lành mạnh đã được nói đến nhiều ngay từ những năm 1990, song luôn bị ông Hoàng Trung Hải, người khuynh loát ngành điện Việt Nam suốt 15 năm qua, (2) tìm mọi cách trì hoãn. Cũng trong cuộc phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ nói trên, trước câu hỏi “Như thế tới đây thị trường điện sẽ mở rộng cửa?”, ngài tân Thứ trưởng lúc bấy giờ đã hồn nhiên thế này: “Có một vấn đề: khi có sự độc quyền thì trách nhiệm cung cấp điện là của Tổng Cty nhưng nếu mở cửa thị trường thì trách nhiệm của các doanh nghiệp là như nhau. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy nếu đi quá nhanh sẽ gây hoảng loạn trên thị trường vì trách nhiệm đấy không còn ai lo” (!!!). Và chính nhờ sự “lo xa” của ngài Thứ trưởng rằng “trách nhiệm cung cấp điện không ai lo” nên trên thị trường điện Việt Nam mới có những hiện tượng kỳ lạ như báo Tiền Phong ngày 26/7/2012 đã nêu: “Trong khi ra sức ép các nhà máy thủy điện, thậm chí họ phải chào giá 0 đồng để được chạy máy thì Tập đoàn điện lực VN (EVN) lại vác tiền đi mua điện của Trung Quốc với giá cao gấp 2 đến 3 lần.” 
Trong cuộc trao đổi với báo giới bên hành lang Quốc hội ngày 7/11/2011, khi phóng viên đặt câu hỏi “Trước đây Chính phủ cho tạm ngừng cổ phần hóa doanh nghiệp thuộc EVN, đã kéo dài nhiều năm, đến nay chưa biết khi nào tiếp tục cổ phần hóa các nhà máy điện. Tại sao phải ngừng lâu như vậy trong khi EVN đang cần tiền để giải quyết khó khăn?”, ngài PTT đã điềm nhiên rằng: “… việc ngừng cổ phần hóa các công ty cũ là để sắp xếp, chờ tái cơ cấu xong vì liên quan đến thị trường. Nếu cứ để nguyên như vậy, để cho lẻ tẻ các nhà máy điện cổ phần hóa thì về sau thị trường sẽ bị chia lắt nhắt, quá nhỏ. Như vậy sẽ tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng, không lành mạnh. Thứ hai, khi các nhà máy tách riêng, khả năng cạnh tranh rất khó khăn vì mỗi nhà máy có đặc thù riêng: nhiệt điện, điện khí, thủy điện…”(!!!). 
Bên hành lang Quốc hội ngày 7/11/2011: “Phải hình thành thị trường điện cạnh tranh, ít nhất là ở khâu phát điện!” (Ảnh: Ngọc Thắng – Vietnamnet
Và đến khi Đề án Tái cơ cấu Tập đoàn Điện lực Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ thông qua ngày 23/11/2012 theo Quyết định số 1782/QĐ-TTg (3) thì người ta hiểu rằng chắc phải đợi đến Tết Công Gô, Việt Nam may ra mới có cái gọi là “thị trường điện cạnh tranh” bởi EVN vẫn tiếp tục cuộc chơi “cạnh tranh” theo kiểu “một mình một chợ”, sẵn sàng và dư sức bóp chết bất kỳ đối thủ nào dám manh nha ý đồ “cạnh tranh lành mạnh”. 
Dĩ nhiên, chừng nào Tết Công Gô còn chưa đến, chừng đó người dân còn tiếp tục được nghe những điệp khúc “mát ruột mát gan” (4) của ngài Phó Thủ tướng như: “Cần giá điện cạnh tranh, minh bạch và công bằng”; “Giá điện không phải muốn là tăng”; “Tới đây phải công khai giá thành điện”; “Giá điện sẽ theo cơ chế thị trường”, v.v và v.v. (5) 
Để hình dung ra bức chân dung đích thực của ngài PTT “phụ trách kinh tế ngành”, cánh tay phải của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, mời quý vị xem thêm các bài: Điều gì đang xẩy ra với ngành điện lực của Việt Nam; Một nền kinh tế đang trên đà “Hán hoá”?
Hà Nội, 18/1/2013

________________________________________

Chú thích:

(1) Báo Thanh Niên ngày 14/1/2013 còn đăng bài “Điện nội ế vẫn nhập điện từ Trung Quốc” với giá cao.
(2) Giai đoạn 9/1995-6/1997, ông Hoàng Trung Hải là Ủy viên Hội đồng quản trị kiêm Trưởng ban Kiểm soát Tổng Công ty Điện lực Việt Nam; giai đoạn 4/1998-8/2000: Ủy viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam; sau khi rời EVN để đảm nhiệm chức vụ Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (2000 – 2007) và sau đó là Phó Thủ tướng “phụ trách kinh tế ngành” từ năm 2007 đến nay, EVN luôn thuộc quyền chỉ đạo của ông ta.

(3) Trong quyết định này, đáng chú ý là (i) Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia và Cty Mua bán điện được giữ nguyên tổ chức, cơ chế hoạt động và nằm trong cơ cấu Cty mẹ - EVN, và (ii) con số doanh nghiệp phải cổ phần hoá là rất ít và đều là DN nhỏ, chủ yếu mang tính chất hỗ trợ chứ không chuyên về sản xuất hay truyền tải và phân phối điện, số DN sẽ cổ phần hoá mà EVN nắm giữ vốn điều lệ dưới 50% lại càng ít ỏi.

(4) Hẳn nhiều người vẫn chưa quên là trong cuộc hội thảo khoa học về vai trò của công nghiệp khai thác bauxite - sản xuất alumina - nhôm ngày 9/4/2009 tại Hà Nội, chính Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cũng từng kết luận một câu xanh rờn: “Không khai thác bauxite bằng mọi giá!” Đến giờ thì chắc ai cũng biết dự án khai thác bauxite Tây Nguyên “nổi tiếng” kia đang “tiến triển” như thế nào và “hiệu quả” ra sao. Là dự án thuộc lĩnh vực quản lý của mình nên, dĩ nhiên, dự án Bauxite Tây Nguyên có sự “đóng góp” rất lớn của ngài PTT “phụ tránh kinh tế ngành”.

(5) Theo Quyết định số 1476/QĐ-TTg ngày 25/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ thì PTT Hoàng Trung Hải được giao những nhiệm vụ:
  1. Giúp Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác trong khối kinh tế ngành và phát triển sản xuất bao gồm: nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, thương mại - xuất nhập khẩu, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường.
    • Chỉ đạo bảo đảm năng lượng và tiết kiệm năng lượng.
    • Các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia và các dự án nhóm A có nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
    • Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất.
    • Phát triển các loại hình doanh nghiệp và kinh tế hợp tác, hợp tác xã.
    • Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và đầu tư ODA.
    • Công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn.
  2. Giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Công Thương; Bộ Xây dựng; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài nguyên và Môi trường.
  3. Làm nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các Dự án trọng điểm về dầu khí; Trưởng Ban Chỉ đạo Tổ chức điều phối phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm; Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản; Chủ tịch Hội đồng quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo các lĩnh vực có liên quan.
  4. Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng.

Ngày 25/3/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 320/QĐ-TTg bổ nhiệm PTT Hoàng Trung Hải làm Trưởng ban Ban Chỉ đạo Quy hoạch và Đầu tư Xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội; ngày 12/9/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định số 1250/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án trọng điểm ngành Giao thông vận tải, Trưởng ban là Phó TT Hoàng Trung Hải; ngày 4/5/2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 580/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước Dự án Điện Hạt nhân Ninh Thuận, Trưởng ban là PTT Hoàng Trung Hải; ngày 15/4/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 546/QĐ-TTg, bổ nhiệm PTT Hoàng Trung Hải làm Chủ tịch Uỷ ban An ninh Hàng không Dân dụng Quốc gia. Ngoài ra PTT Hoàng Trung Hải còn là Trưởng ban Ban chỉ đạo Nhà nước Dự án Thuỷ điện Sơn La; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quy hoạch điện VI, v.v.


Tóm lại, ông Hoàng Trung Hải chính là người nắm giữ chiếc ghế quan trọng thứ hai trong Chính phủ sau Thủ tướng.
 
 

Copy từ: Dân Làm Báo


 

Thăm vợ liệt sĩ Ngụy Văn Thà


Mục sư Thân Văn Trường (Danlambao) - Chiều 19/1/2013, Đức Chúa Trời sai chúng tôi tới thăm bà Huỳnh Thị Sinh, vợ cố trung tá Ngụy Văn Thà, bà ở nhờ nhà người em ở đường Nguyễn Kim, quận 10, Sài Gòn. Vì bà ở nhờ nên chúng tôi không gặp được 3 con gái và 6 cháu ngoại của trung tá. Trong căn nhà chật hẹp giữa nội đô ồn ã, nhưng tấm lòng của gia đình rộng mở. Họ gần như dành riêng phòng khách cho chúng tôi nói chuyện, dù biết tôi là cựu sĩ quan Việt Cộng. Bà Thà đồng ý với tôi, chuyện chiến tranh đã qua lâu rồi, nhưng sự thật chúng ta là con một nhà. Chẳng có lý do gì để kẻ bắc, người nam cứ cựu thù mãi.
Trung tá Ngụy Văn Thà sinh ngày 16/1/1943 tại Tây Ninh, hy sinh cùng 74 chiến hữu vào ngày 19/1/1974 khi ông chỉ huy chiến đấu bảo vệ đảo Hoàng Sa, cấp hàm thiếu tá và được truy phong trung tá. Ông Thà tốt nghiệp sĩ quan Hải quân Nha Trang với quân hàm thiếu úy lúc 22 tuổi. Bà Thà (Huỳnh Thị Sinh) quê Cà Mau, nhưng học trung học ở Sài Gòn. Hai người gặp nhau trong lớp Anh văn Hội Việt- Mỹ, rồi yêu nhau, nên vợ chồng. Lúc ông hy sinh, bà mới 26 tuổi, nay bà 65 tuổi, tóc đã bạc quá bán. Ba con gái của bà, lớn 47, kế 44 và út 42 đều đã có gia đình riêng. Cháu ngoại của bà có sáu tất cả, đứa lớn đã học lớp 12, đứa bé nhất lớp 3. Hy vọng các cháu sẽ vào được đại học, chứ không như mẹ chúng, cô trượt đại học y khoa, người trượt Đại học kinh tế, cũng vì lý lịch xấu.
Mục sư Thân Văn Trường đến thăm bà trung tá Ngụy Văn Thà ngày 19.01.2013 tại Saigon
Chúng tôi tặng Kinh Thánh cho bà Thà, rồi cùng thảo luận câu Kinh Thánh: VÌ ĐỨC CHÚA TRỜI YÊU THƯƠNG THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN CON MỘT CỦA NGÀI, ĐỂ AI TIN CON ẤY KHÔNG BỊ CHẾT MẤT MÀ ĐƯỢC SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (Giăng 3: 16).
Chúng tôi thấy vui khi bà Thà đọc Kinh Thánh không cần mang kính.
Đức Chúa Trời yêu mọi người, đặc biệt là kẻ mồ côi, người góa bụa. Khẩu hiệu của Việt Nam là “Đời đời nhớ ơn các liệt sĩ”. Chúng tôi thăm vợ liệt sĩ Ngụy Văn Thà, thấy gia cảnh của bà mà ước mong bà cũng được hưởng chính sách đền ơn, đáp nghĩa như những người hy sinh cho tổ quốc. Bà cũng có nhà ở, để khỏi ở nhờ. Mong bà cũng được hưởng trợ cấp như ai. Nhiều bộ đội hy sinh còn có mộ phần xây đẹp trong nghĩa trang liệt sĩ. Trung tá Ngụy Văn Thà và gần 100 chiến sĩ hy sinh, không tìm thấy một ai giữa biển khơi!
Sao chúng ta lại quên những người đã hy sinh và bỏ rơi thân nhân họ nhỉ?
Làng Đại học Thủ Đức, Mùa Xuân 2013

Mục sư Thân Văn Trường(Sổ hưu số 2931)
 
 

Copy từ: Dân Làm Báo

Để tránh tiêu cực về đất đai


Chủ Nhật, 20/01/2013 00:04

Quy định Nhà nước có quyền thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội có thể làm gia tăng mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền

Thứ nhất, quy định về quyền thu hồi đất, khoản 3 điều 58 dự thảo Hiến pháp quy định “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Tôi cho rằng chúng ta không nên hợp hiến quá quyền thu hồi đất của Nhà nước trong các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
 
Nhiều vấn đề về đất đai cần bàn thảo trong dự thảo hiến pháp sửa đổi
Ảnh: THỐT NỐT
Hiến pháp năm 1992 và pháp luật đất đai hiện hành cho phép Nhà nước có quyền thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Quy định này thoáng qua có vẻ nhằm mục đích phát triển kinh tế, giúp cho xã hội đi lên thật nhưng suy nghĩ kỹ lại thì nó có khả năng làm gia tăng mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền. Có một sự thực là trong thời gian qua, các vụ khiếu kiện về đền bù giải tỏa đất đai vẫn gia tăng hằng năm; độ quyết liệt, gay gắt, dai dẳng của các cuộc tranh chấp cũng tăng.
Theo pháp luật đất đai hiện nay thì chủ đầu tư có thể có đất thông qua hai kênh: một là tự thỏa thuận với người có đất; hai là Nhà nước thu hồi đất nếu dự án thuộc các trường hợp Nhà nước thu hồi đất. Và thông thường nhà đầu tư chọn cách thứ hai, bởi giá đất bồi thường rất rẻ, thậm chí như trong vụ thu hồi đất ở Đông Triều, Quảng Ninh, giá đất bồi thường chỉ là 38.000 đồng/m2 trong khi giá bán ra là rất lớn.
Do đó, các nhà đầu tư thường “bắt tay” với chính quyền địa phương để cố gắng tìm cách đưa dự án của mình thuộc diện Nhà nước thu hồi đất. Thực tiễn quá trình thực hiện Luật Đất đai 2003 thời gian qua cho thấy nhà đầu tư, chính quyền địa phương sau khi “bắt tay” với nhau  thường có hiện tượng nhập nhằng giữa trường hợp Nhà nước thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế và trường hợp không thuộc diện Nhà nước thu hồi đất.
 
Chính vì vậy, để tránh tiêu cực, tham nhũng trong đất đai, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất, tránh trường hợp khiếu nại, khiếu kiện kéo dài  thì mấu chốt cơ bản nhất là thu hẹp tiến tới xóa bỏ các trường hợp thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế để không thể có hiện tượng nhập nhằng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Theo tôi, chúng ta cần xem nhà đầu tư hay người dân đều là những chủ thể bình đẳng trước luật pháp; lợi ích chính đáng của họ đều phải được tôn trọng và bảo vệ như nhau, không phân biệt.
 
Nhà đầu tư nhiều tiền của có thể tạo lập những khu phức hợp nhà ở - trung tâm thương mại, du lịch, những dự án đầu tư hoành tráng, hiện đại; nhưng họ phải tuân thủ khuôn khổ sự vận động bình thường của đời sống dân sự. Từ những bài học về giải quyết xung đột liên quan đến đất đai trong thời gian vừa qua và kinh nghiệm của các nước, tôi cho rằng không nên thừa nhận quyền thu hồi đất để thực hiện các dự án kinh tế - xã hội như quy định tại khoản 3 điều 58 dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
 
Thứ hai, quy định về tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Điều 57 dự thảo Hiến pháp quy định “Đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên khác, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”.
 
Quy định chung chung như vậy rất dễ dẫn đến việc hiểu nhầm, ví dụ rừng trồng mà không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước thì đâu thể thuộc sở hữu của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, mà nó phải thuộc sở hữu của chủ đầu tư, điều này cũng được Luật Bảo vệ và phát triển rừng quy định rõ.
 
Do đó, tôi cho rằng cần bổ sung và cụ thể hóa điều 57 dự thảo Hiến pháp như sau: “Đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn ngân sách Nhà nước, núi, sông, hồ, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, ngoại giao, quốc phòng, an ninh là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”.
Luật sư NGUYỄN VĂN HẬU, (Phó Chủ tịch Hội Luật gia TPHCM)
 
 

Copy từ: Người Lao Động