Tại Hội thảo quốc
tế về tranh chấp Biển Đông ở New York với sự tham gia của các học giả,
quan chức từ Việt Nam, Trung Quốc, Singapore, Mỹ, giữa tháng Ba vừa qua,
quan chức Trung Quốc trích dẫn Công hàm Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Cộng hoà Nhân dân Trung hoa
(CHNDTH) Chu Ân Lai năm 1958 như bằng chứng Việt Nam công nhận chủ quyền
Hoàng Sa – Trường Sa thuộc Trung Quốc [1].
Trong hơn một thập niên nay, học giả người gốc Hoa và quan chức Trung
Quốc nhiều lần đề cập đến Công hàm 1958 với cùng nhận định [2].
Qua nghiên cứu phổ biến năm 1996, chuyên gia luật quốc tế người Pháp
phủ nhận giá trị pháp lý của Công hàm 1958 trên cơ sở hai quần đảo Hoàng
Sa – Trường Sa, kể từ Hội nghị Geneva mùa Hè năm 1954 cho đến cuối
tháng tư năm 1975, hoàn toàn thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hoà
(VNCH), chính quyền ở phía Nam vĩ tuyến 17. Một số chuyên gia luật quốc
tế khác đưa ý kiến bác bỏ nguyên tắc ngăn chặn (estoppel) có thể được
viện dẫn từ Công hàm 1958 [3].
Mục đích của bài viết này là để trả lời câu hỏi, có chăng hai
Nhà nước (States) Việt Nam hiện hữu trong 20 năm trước khi khai sinh
Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), và để xét đến
một số vấn đề nóng bỏng liên hệ đến chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
1. HAI VIỆT NAM?
Hội nghị Geneva 1954, với sự tham dự của Trung Quốc, Liên Xô, Pháp,
Anh, Mỹ, và ba nước Đông Dương, đưa đến việc ký kết Hiệp định phục hồi
hoà bình trên bán đảo Đông Dương. Điều 7 trong Tuyên bố cuối cùng của
Hội nghị nói, hai miền Bắc và Nam Việt Nam tổ chức bầu cử tự do, dưới sự
giám sát của quốc tế, vào tháng 7 năm 1956, để thống nhất đất nước.
Cuộc bầu cử năm 1956 không xảy ra như quy định [4].
Tháng Một năm 1957, Liên Xô đề nghị Liên Hiệp Quốc thu nhận VNDCCH và VNCH làm thành viên.
Liên Xô lập luận,
“ở Việt Nam hai Nhà nước riêng biệt
hiện hữu, khác biệt trong cấu trúc chính trị và kinh tế. Do đó, thống
nhất qua bầu cử trở thành xa vời đối với Việt Nam như trong trường hợp
nước Triều Tiên hay nước Đức” [5].
Không muốn công nhận VNCH, VNDCCH phản đối đề nghị của Liên Xô [6].
Khi Liên Hiệp Quốc tuyên bố VNCH hội đủ điều kiện gia nhập và đa số
thành viên trong Đại hội đồng biểu quyết thu nhận VNCH vào LHQ, Liên Xô
dùng quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an LHQ để ngăn chặn [7].
Tháng 9 năm 1958, Mỹ đề nghị Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc thu nhận
VNCH làm thành viên; một lần nữa, Liên Xô dùng quyền phủ quyết để ngăn
chặn [8].
Tháng 8 năm 1975, sau khi VNCH ngừng hiện hữu, Cộng hoà Miền Nam Việt
Nam (CHMNVN), chính quyền ở phía Nam vĩ tuyến 17, và VNDCCH nộp đơn gia
nhập LHQ. Mặc dù ở Đại hội đồng LHQ, có 123 nước ủng hộ, không có nước
chống đơn gia nhập của CHMNVN và VNDCCH, Mỹ dùng quyền phủ quyết trong
Hội đồng Bảo an LHQ để ngăn chặn [9].
Từ cuối năm 1975 cho đến tháng 7 năm 1976, chính phủ CHMNVN và VNDCCH
tổ chức Hội nghị Hiệp thương chính trị, tổng tuyển cử bầu Quốc hội
chung cho cả nước, khai sinh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(CHXHCNVN).
Tháng 9 năm 1977, CHXHCNVN chính thức gia nhập LHQ [10].
Trước sự kiện Mỹ dùng quyền phủ quyết năm 1975, Trung Quốc tuyên bố
hành động ngăn chặn hai Nhà nước CHMNVN và VNDCCH gia nhập LHQ là
“sự vi phạm toàn diện các quy định rõ rệt của Hiến chương LHQ và các nghị quyết liên quan của Đại hội đồng” [11].
Phản ứng của Trung Quốc cho thấy chính Trung Quốc cũng công nhận, từ
Hội nghị Geneva 1954 cho đến muà Hè năm 1976, Việt Nam có hai Nhà nước
riêng biệt: VNCH/CHMNVN và VNDCCH. CHMNVN khai sinh năm 1969.
Để phản ánh quan điểm trên, Trung Quốc đề nghị lập quan hệ ngoại giao
với VNCH sau Hội nghị Geneva năm 1954 và sau Hội nghị Paris năm 1973.
VNCH không đáp ứng đề nghị của Trung Quốc [12].
Phản ứng không thuận lợi của Liên Xô hay Mỹ, ở mỗi giai đoạn khác
nhau, ngăn chặn nỗ lực gia nhập LHQ của VNCH/CHMNVN và VNDCCH trong một
thời gian dài.
Tuy nhiên, hành động ngăn chặn hay không công nhận của một vài nước
không thể phủ nhận sự hiện hữu của hai Nhà nước trên đất nước Việt Nam
trong hơn hai thập niên, như tổ chức LHQ và Điều 3 của Công ước
Montevideo 1933 khẳng định [13].
Những dữ kiện lịch sử vừa nêu chứng minh rõ ràng hai điểm sau:
1. Trong giai đoạn 1954-1976, có hai Nhà nước riêng biệt, cùng hiện hữu trên đất nước Việt Nam, ngăn cách bởi vĩ tuyến 17.
2. Cộng đồng thế giới nói chung, Trung Quốc, Liên Xô, và Mỹ nói riêng, công nhận thực tế này.
* * *
2. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM “CÔNG NHẬN” VIỆT NAM CÔNG HÒA?
Có tác giả so sánh Công hàm 1958 của VNDCCH với Công hàm 1953 của
Johor trong vụ kiện tranh chấp cụm đảo Pedra Branca trước Tòa án Công lý
Quốc tế (ICJ) giữa Malaysia và Singapore và đề nghị CHXHCHVN
“công nhận” VNCH nhằm làm tăng
“tính thuyết phục của việc viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của VNCH về Hoàng Sa, Trường Sa” [14].
Chứng cứ lịch sử và pháp lý cho thấy:
Vốn là thuộc địa của Anh, Malaysia và Singapore lần lượt giành độc
lập năm 1957 và 1965; Johor là một trong 13 bang thuộc Malaysia.
Trong phán quyết về Pedra Branca năm 2008, ICJ cho rằng Johor có chủ quyền đối với Pedra Branca cho đến giữa thế kỷ XIX.
Khi Singapore nêu câu hỏi về Pedra Branca năm 1953, quan chức Johor
trả lời Pedra Branca không thuộc quyền sở hữu của chính quyền Johor.
ICJ cho rằng Johor đưa quan điểm rõ ràng về chủ quyền Pedra Branca qua Công hàm 1953.
Dựa trên phương cách hành xử chủ quyền của Singapore trong giai đoạn
1953-1980 và dựa trên sự thiếu vắng hoạt động hành xử chủ quyền của
Johor và của Malaysia, đối với Pedra Branca trong hơn 100 năm, kể từ
giữa thế kỷ XIX, ICJ kết luận ở thời điểm năm 1980, khi Malaysia và
Singapore chính thức khởi kiện, chủ quyền Pedra Branca thuộc về
Singapore [15].
Khác biệt giữa Công hàm 1953 của Johor và Công hàm 1958 của VNDCCH:
1. Về Công hàm 1953 của Johor:
- ICJ kết luận, dựa trên chứng cứ lịch sử, Pedra Branca thuộc chủ quyền của Johor cho đến giữa thế kỷ XIX.
- Johor không hành xử chủ quyền đối với Pedra Branca trong hơn 100 năm sau đấy.
- Công hàm 1953 của quan chức Johor phủ nhận chủ quyền Pedra Branca thuộc Johor.
- Trong gần 30 năm sau khi có Công hàm 1953, Singapore hành xử chủ
quyền một cách hoà bình đối với Pedra Branca trong khi Malaysia không có
hành xử nào đáng ghi nhận.
2. Về Công hàm 1958 của VNDCCH:
- Quốc gia Việt Nam (QGVN) và Nhà nước kế thừa, VNCH, luôn luôn khẳng
định và hành xử chủ quyền một cách hoà bình đối với Hoàng Sa – Trường
Sa [16].
- Từ khi khai sinh cho đến cuối năm 1975, VNDCCH không đòi chủ quyền
Hoàng Sa
-
Trường
Sa. Công hàm 1958 và tuyên bố của quan chức VNDCCH ra đời trong bối
cảnh này.
- Vì cộng đồng thế giới công nhận sự hiện hữu của hai Việt Nam, VNCH
và VNDCCH, và vì Hoàng Sa – Trường Sa thuộc quyền quản lý của VNCH, mọi
tuyên bố hay cam kết, nếu có, của VNDCCH, trực tiếp hay gián tiếp, liên
quan đến chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa không có giá trị pháp lý.
- CHMNVN, khai sinh năm 1969 và ngừng hiện hữu năm 1976, trực tiếp
hay gián tiếp, khẳng định chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa, trước và sau
khi VNCH ngừng hiện hữu [17].
Sự hiện hữu của hai Nhà nước Việt Nam và sự khác biệt trong
bản chất giữa Công hàm 1953 và Công hàm 1958 cho thấy việc CHXHCNVN
“công nhận” VNCH vì Hoàng Sa – Trường Sa là không cần thiết.
* * *
3. PHÁP “XAO LÃNG” HÀNH XỬ CHỦ QUYỀN ĐẢO PHÚ LÂM THUỘC HOÀNG SA?
Có tác giả cho rằng Pháp
“chỉ chiếm nhóm đảo Trăng Khuyết trong
quần đảo Hoàng Sa, ở đó họ đã xây dựng một căn cứ quân sự, trạm khí
tượng, và đài phát thanh vào năm 1937”; Pháp
“xao lãng” hành xử chủ quyền đảo Phú Lâm trong giai đoạn gần giữa thế kỷ XX [18].
Chứng cứ lịch sử và pháp lý cho thấy:
Hai nhóm An Vĩnh (trong đó có đảo Phú Lâm) và nhóm Trăng Khuyết, thuộc Hoàng Sa, có hơn 30 đảo, đá.
Nhà địa dư người Hà Lan, trong bộ đại từ điển gần 200 năm trước, nói như sau,
“Hoàng
Sa là một nhóm đảo trong Biển Nam Hải, thuộc An Nam, bao gồm các đảo
đá, và đầy rừng. Biển vùng này nhiều cá đến nỗi người An Nam ra đây bắt
cá hàng năm. Những đảo chính là đảo Cây, Woody, Rocky, Amphitrite,
Lincoln, Pattles, Roberts, Money, Duncan, Passookeah, Drummonds và
Triton.” Woody là tên quốc tế của đảo Phú Lâm [19].
Khoản những năm đầu thập niên 1920, Pháp thường xuyên cho tàu tuần
hành khu vực Hoàng Sa, từng khám xét tàu Nhật chuyên chở phốt phát từ
đảo Phú Lâm, như ghi nhận của tác giả người Pháp:
“Khi được thẩm vấn, người Nhật Bản cầm đầu doanh nghiệp này nói
rằng đại diện của công ti Mitsui Bussan Kaisha của họ đâu dám tự tiện
tiến hành việc khai thác vào cuối năm 1920 mà không thông báo trước cho
Tư lệnh Hải quân Sài Gòn, và vị tư lệnh này, đứng về quan điểm quân sự,
đã không thấy cần thiết ra lệnh cấm đoán… chính quyền Pháp đã thấy không
cần thiết phải hủy bỏ sự cho phép hầu như chính thức mà tư lệnh Hải
quân đã cung cấp một cách hơi dễ dãi, (vì) người Nhật đã hành xử đúng
phép tắc đối với nhà chức trách Pháp và họ không hề phủ nhận quyền của Pháp đối với các đảo Hoàng Sa” [20].
Tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Pháp [21].
Từ giữa đến cuối thập niên 1920, nhiều đoàn khảo sát khoa học của
chính quyền Đông Dương thực hiện nghiên cứu ở Hoàng Sa (và Trường Sa),
bao gồm chuyến đi đến đảo Phú Lâm [22].
Tháng 6 năm 1938, Pháp cho xây trên đảo Phú Lâm
“một đài khí tượng phòng mưa bão và một hoả đăng thường trực nhằm bảo đảm an toàn hàng hải” [23].
Trong những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Đông
Dương tiếp tục quản lý đảo Phú Lâm nói riêng và Hoàng Sa – Trường Sa nói
chung [24].
Cuối năm 1946 sang đầu năm 1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên
Hoàng Sa – Trường Sa, dưới danh nghĩa giải giới quân Nhật. Khi quân
Tưởng đến đảo Phú Lâm, Pháp phản đối. Chính quyền Tưởng bác bỏ đề nghị
để quốc tế giải quyết của Pháp. Đầu năm 1950, quân Tưởng rút khỏi đảo
Phú Lâm.
Tháng 10 năm 1950, sau khi ký kết Hiệp ước Elysée, Pháp chính thức trao quyền kiểm soát Hoàng Sa – Trường Sa cho QGVN.
Tháng 9 năm 1951, tại Hội nghị San Francisco, Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao QGVN tuyên bố Hoàng Sa – Trường Sa thuộc Việt Nam.
Các thành viên Hội nghị không phản đối tuyên bố của Việt Nam [25].
Trong cả ba hội nghị quốc tế ở Cairo, Potsdam, và San Francisco,
tuyệt đại đa số những nước tham dự không xem Hoàng Sa và Trường Sa là
của Trung Hoa. Hội nghị quy định Nhật phải trao trả các vùng đất đã
chiếm đoạt trong chiến tranh cho nước sở hữu. Đại diện chính quyền Tưởng
có mặt ở Cairo và Potsdam nhưng không phản đối quyết định của hội nghị
[26].
Đầu năm 1956, nhân cơ hội Pháp chuẩn bị rời khỏi Đông Dương như quy
định ở Hội nghị Geneva, quân đội CHNDTH chiếm đóng nhóm An Vĩnh; quân
đội VNCH chiếm đóng nhóm Trăng Khuyết. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VNCH tái
khẳng định chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa [27].
Những chứng cứ trên chứng minh Pháp hành xử chủ quyền Hoàng
Sa (và Trường Sa), bao gồm đảo Phú Lâm, ít nhất là từ đầu thập niên 1920
cho đến khi họ rời Đông Dương. Người Nhật và người Tàu đến đảo Phú Lâm
để khai thác phốt phát khi đảo Phú Lâm không là “terra nullius” (đất vô
chủ).
* * *
4. ĐỔI TÊN NƯỚC THÀNH “VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA”?
Trong phong trào chỉnh sửa Hiến pháp 2013 hiện nay, có không ít ý kiến đề nghị đổi tên nước thành VNDCCH.
Vì Trung Quốc tích cực sử dụng Công hàm 1958 và tuyên bố của quan
chức VNDCCH về Hoàng Sa – Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975 để đánh
lừa dư luận quốc tế và nhân dân Trung Quốc, một tên nước VNDCCH hay
tương tự như CHDCVN, do không khác biệt đáng kể khi dịch sang tiếng nước
ngoài, sẽ gây trở ngại rất lớn cho quá trình đấu tranh vì chủ quyền
trên Biển Đông [28].
Một tên nước “Cộng hoà Việt Nam” (CHVN), như trong CHMNVN,
chính quyền ở phía Nam vĩ tuyến 17 trong giai đoạn 1969-1976, từng trực
tiếp hay gián tiếp khẳng định chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa, tạo nhiều
thuận lợi hơn, so với tên nước VNDCCH hay CHDCVN, cho nỗ lực bảo vệ
quyền lợi đất nước.
* * *
5. HƯỚNG ĐI TỚI CHO VIỆT NAM TRƯỚC ĐE DỌA CỦA NGOẠI BANG
Bài viết này góp phần giải đáp câu hỏi: Có chăng hai Nhà nước Việt
Nam hiện hữu trong 20 năm trước khi khai sinh Nhà nước CHXHCNVN, và từ
đấy, giải đáp các vướng mắc liên quan đến Công hàm 1958 cũng như mọi
tuyên bố hay cam kết, nếu có, của VNDCCH trong giai đoạn trước năm 1975
về chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
Bài viết đồng thời phản biện một số quan điểm về chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
Trong giải quyết tranh chấp giữa hai nước, ICJ vẫn sử dụng nguyên tắc
“quieta non movere” hay “không làm xáo trộn sự ổn định”
.
Theo nguyên tắc này, ICJ có thể đưa phán xét thuận lợi cho nước đang
chiếm giữ một vùng đất, vùng biển, dù chủ quyền ban đầu không thiết lập
rõ ràng, nhưng có hành xử thích hợp trong một thời gian lâu dài [29].
Việt Nam nên nhận thức rằng:
(1) Việc Trung Quốc khẩn trương thành lập thành phố
hành chính Tam Sa để quản lý Hoàng Sa – Trường Sa, tổ chức du lịch ở
Hoàng Sa, v.v. là đi sát với nguyên tắc
“quieta non movere”,
nhằm chứng minh với thế giới Trung Quốc đang hành xử chủ quyền “một cách
hoà bình” đối với các đảo, vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam cho đến khi
bị Trung Quốc chiếm đóng năm 1956, và chiếm đoạt bằng vũ lực năm 1974
và năm 1988.
(2) Sự leo thang xâm phạm chủ quyền Việt Nam của
Trung Quốc qua hành động cắt dây cáp, sách nhiễu, hành hung ngư dân, hay
bắn vào tàu ngư dân hành nghề ở vùng biển cổ truyền của Việt Nam cho
thấy phản ứng của Việt Nam, qua tiếp tục họp báo lên án, tiếp tục trao
công hàm phản đối, v.v., trong nhiều năm nay, không khiến cho Trung Quốc
lùi bước [30].
(3) Phương cách hành xử trong giai đoạn 1953-1980
đối với Pedra Branca của Singapore và Malaysia (nước ban đầu có chủ
quyền đối với Pedra Branca), và quyết định của ICJ trao chủ quyền Pedra
Branca cho Singapore năm 2008 là bài học có giá trị cho Việt Nam.
So với Trung Quốc, Việt Nam có chứng cứ lịch sử rõ ràng, có cơ sở pháp lý vững chắc đối với chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
Dựa trên quyết định của ICJ trong các trường hợp khác nhau, bài viết
cho thấy việc kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp Hoàng Sa – Trường
Sa gây nhiều bất lợi cho Việt Nam và tạo nhiều thuận lợi cho Trung Quốc.
Hơn bao giờ hết, lãnh đạo Việt Nam nên mạnh dạn chứng tỏ:
– Bản lĩnh và quyết tâm bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
– Khả năng phát huy đại đoàn kết dân tộc để đối phó với đe dọa nghiêm
trọng của ngoại bang, và để hình thành một xã hội dân sự, cần thiết cho
sự phát triển bền vững của Việt Nam và sự tín nhiệm rộng rãi của cộng
đồng thế giới.
– Chính sách đối ngoại minh bạch, rõ ràng, để xây dựng một khu vực Đông Nam Á hoà bình và ổn định.
Lịch sử đang trông chờ.
T.V.C.
Chú thích:
1. ”Trung Quốc muốn duy trì hiện trạng trên biển Đông?”, Việt Hà, 2013.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/cn-wants-maintain-status-quo-scs-vh-03152013160853.html
“Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam”, Nhóm PV Biển Đông, 2011
http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1501&Chitiet=34740&Style=1
2. “China’s War With Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications”, King Chen, 1987, p. 46.
“Toward a New Framework for Peaceful Settlement of China’s Territorial and Boundary Disputes”, Junwu Pan, 2009, p. 172
“Nansha indisputable territory”, Li Jinming, 2011
http://www.china.org.cn/opinion/2011-06/15/content_22789091.htm
“Experts reject Vietnamese author’s sovereignty claim over islands”, Ling Yuhuan, 2012
http://www.globaltimes.cn/content/726580.shtml
3. ”La souverainete sur les archipels Paracels et Spratleys”, Monique Chemillier-Gendreau, 1996, p. 122.
“Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, Từ Đặng Minh Thu, 2007
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm
“Giải pháp cho vấn đề Biển Đông”, Tạ Văn Tài, 2010
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai20/201020_TaVanTai.htm
“Vietnam’s Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime Claim”, Nguyễn Hồng Thao, 2012
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2123861
“Nhìn lại Công hàm Phạm Văn Đồng 1958″, Duy Tân Joële Nguyễn, 2012
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/09/120914_phamvandong_note.shtml
4. “The major international treaties of the twentieth century”, (II),
John Ashley Soames Grenville, Bernard Wasserstein, 2001, p. 619.
“Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương”, Đinh Phương, 2010
http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30684&cn_id=425786
5. “The Pentagon Papers: The Defense Department History of United
States Decisionmaking on Vietnam”, (I), Senator Gravel Edition, 1971, p.
247
“The Vietnam Wars 1945-1990”, Marilyn Young, 1991, p. 53
“Article 4”, United Nations, 1959
http://untreaty.un.org/cod/repertory/art4/english/rep_supp2_vol1-art4_e.pdf
6. “Vietnam and the Soviet Union: Anatomy of an Alliance”, Douglas Pike, 1987, p. 42.
7. “Ho Chi Minh: A Life”, William Duiker, 2000, p. 500.
8.”Foreign Relations of the United States, 1958–1960”,
Volume II, United Nations and General International Matters, Document #27
http://history.state.gov/historicaldocuments/frus1958-60v02/d27
9.”Admission of new Members and related matters”, United Nations, 1976
http://unyearbook.un.org/1975YUN/1975_P1_SEC1_CH12.pdf
10.”Chính phủ Nhiệm kỳ Quốc hội Khoá VI (1976-1981)”, Cổng Thông tin Điện tử
http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=798&articleId=2892
11.”Admission of new Members and related matters”, United Nations, 1976
http://unyearbook.un.org/1975YUN/1975_P1_SEC1_CH12.pdf
12.”La Chine et le reglement du premier conflit d’Indochine (Geneve 1954)”, Francois Joyaux, 1979, p. 297
“The China-Cambodia-Vietnam Triangle”, Wilfred Burchett, 1981, pp. 36-37
“More Evidence of Beijing’s Betrayal”, Vietnam Courier, #7, 1981, p. 5
13.”Montevideo Convention on the Rights and Duties of States”, Đại học Oslo, Na Uy,
http://www.jus.uio.no/english/services/library/treaties/01/1-02/rights-duties-states.xml
14.”Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?”, Dương Danh Huy và cộng sự, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/04/130411_hoangsa_truongsa_vn_vnch.shtml
15.”Case concerning sovereignty over Pedra Branca, Middle Rocks and South Ledge”, International Court of Justice, 2008
http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf
16.”White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands”, Bộ Ngoại giao VNCH, 1975, p. 52
17.”White Book: The Hoang Sa and Truong Sa Archipelagos-Vietnamese Territories”, Bộ Ngoại giao CHXHCNVN, 1982, p. 14
18.”Viet Nam, China, and the conflict in the Southeast Asean Sea”, Jonathan London và Vũ Quang Việt, 2013
http://xinloiong.jonathanlondon.net/wp-content/uploads/2013/04/143_-_WP_-_Dr_London__Dr_Vu-1.pdf
Bản dịch tiếng Việt: “Việt Nam, Trung Quốc và Xung đột ở Biển Đông Nam Á”, Jonathan London and Vũ Quang Việt, 2013
http://anhbasam04.wordpress.com/2013/05/02/viet-nam-trung-quoc-va-xung-dot-o-bien-dong-nam-a/
19.“Algemeen aardrijkskundig woordenboek”, Jacobus Van Wijk Roelandszoon, 1821, M-P, p. 862
20.“A propos de iles Paracels”, P.A. Lapicque, Extreme-Asie – Revue Indochinoise illustrée #38, 1929, pp. 605-616
“White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands”, Bộ Ngoại giao VNCH, 1975, pp. 36-37
”Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, p. 104
21.”Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, p. 37
22.“Oiseaux des Iles Paracels”, J. Delacour & P. Jabouille, 1930, pp. 4-5
“Contribution a l’etude des iles Paracels. Les phosphates”, P. Maurice Clerget, 1932, pp. 12-15
23.“La question de Hainan et des Paracels”, Claudius Madrolle, Revue Politique Etrangère, Juin 1939, pp. 302-312
24.“Vietnam’s Sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa Archipelagoes”, 1979,
Document #12, quyết định bổ nhiệm nhân viên trên đảo Phú Lâm vào tháng 8 năm 1941
25.”Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, pp. 39-41
26.”Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, pp. 119-120
“Vietnam’s Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime Claim”, Nguyễn Hồng Thao, 2012
27.”Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”, Monique Chemillier-Gendreau, 2000, pp. 42-43
28.“Thêm phương án về tên nước: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Nghĩa Nhân, 2013
http://phapluattp.vn/20130413120727176p0c1013/them-phuong-an-ve-ten-nuoc-viet-nam-dan-chu-cong-hoa.htm
“Đổi lại tên nước là trở về đúng bản chất chế độ”, Nguyễn Hưng, 2013
http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2013/04/doi-lai-ten-nuoc-la-tro-ve-dung-ban-chat-che-do/
29. “Estoppel, Acquiescence and Recognition in Territorial and Boundary Dispute Settlement”, Nuno Sergio Marques Antunes, 2000
30. “Phản đối Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa”, 2007
http://tuoitre.vn/The-gioi/232458/phan-doi-trung-quoc-thanh-lap-thanh-pho-tam-sa.html
“Việt Nam phản đối Trung Quốc làm đứt cáp tàu Bình Minh 02”, 2012
http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2012/12/viet-nam-phan-doi-trung-quoc-lam-dut-cap-tau-binh-minh-02/
“Trao công hàm phản đối Trung Quốc bắn tàu cá của ngư dân Việt Nam”, 2013
http://dantri.com.vn/xa-hoi/trao-cong-ham-phan-doi-trung-quoc-ban-tau-ca-cua-ngu-dan-viet-nam-711289.htm
“Phản đối Trung Quốc đưa khách du lịch ra Hoàng Sa”, 2013
http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2013/04/phan-doi-trung-quoc-dua-khach-du-lich-ra-hoang-sa/
Tác giả gửi trực tiếp cho:
Bauxite Việt Nam