Tạ Duy Anh
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông
(Nguyễn Trãi)
Lời tự bạch:
Cổ
nhân có câu: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Người thất học
còn phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của xã tắc, nữa là một kẻ
ít nhiều có đọc qua vài trang sách Thánh hiền.
Tôi có ba tư cách để viết chuyên luận này: Tư cách con dân Việt, tư cách chiến binh Việt bẩm sinh và tư cách một kẻ sĩ Việt.
Tôi dựa trên nền tảng quan điểm sau:
- Mục tiêu lớn nhất của Trung Quốc trong thế kỷ 21 là thôn tính Biển Đông và đối thủ số một là Việt Nam.
-
Việt Nam là nước nhỏ hơn nên luôn cần hoà bình, sống yên ổn bên cạnh
Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng cần yên bờ cõi không kém, đặc biệt là
cửa ngõ phía Nam, nơi Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lý trong tác
chiến.
- Một cuộc chiến tổng lực giữa Việt Nam
và Trung Quốc trên Biển Đông là bất phân thắng bại nhưng là thảm hoạ cho
cả hai nước. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều cần hoà bình.
Tôi tin rằng:
- Thượng sách
là làm sao để sống hòa bình với Trung Quốc mà vẫn giữ được chủ quyền
lãnh thổ và chủ quyền tinh thần (bao gồm chính trị, văn hóa, lối sống…)
- Hạ sách
là phải lựa chọn chiến tranh, dù ngắn hay dài, bởi hệ lụy của nó thì
chưa thể biết hết, nhưng điều biết trước là – do cùng chung biên giới –
sau sự tan hoang, đổ máu sự căng thẳng luôn trở về đúng điểm xuất phát
khi chưa xảy ra binh đao và nguy hiểm hơn là nó tiếp tục làm tăng thêm
mối hằn thù dân tộc là thứ sẽ để lại hậu quả cho con cháu lâu dài.
- Tối hạ sách là quá sợ chiến tranh mà đành ôm mối nhục để kẻ thù xâu xé cương vực, nuốt dần lãnh thổ, giết hại dân lành.
Chuyên luận chia làm ba phần: Bản chất của mối quan hệ Việt-Trung; Biển Đông và những điều có thể xảy ra; và Dự đoán hành động của Trung Quốc và sự lựa chọn của Việt Nam.
Tôi
được khích lệ, chia sẻ ý tưởng từ nhiều người, nhất là những bạn trẻ
nhiệt huyết với vận mệnh đất nước, những đồng nghiệp nhiều ưu tư nhưng
vì nhiều lý do mà không thể tự do phát biểu quan điểm như tôi. Tôi xin
tặng lại chuyên luận này cho họ.
Có thể những gì
tôi suy nghĩ và viết ra chỉ đáng là những điều vô bổ, nông cạn hoặc là
những chuyện đã biết rồi, không ai cần đọc. Nhưng tôi không vì điều đó
mà nản chí bởi đây là tấm lòng của tôi với đất nước, một đất nước chưa
bao giờ thôi khốn khó nhưng là nơi duy nhất tôi có thể sống và chết. Tôi
cũng không giấu giếm rằng, cho đến khi hạ chữ cuối cùng của chuyên luận
này, tôi vẫn chưa thoát khỏi cảm giác Nghĩ mãi không ra.
PHẦN I:
BẢN CHẤT CỦA MỐI QUAN HỆ VIỆT-TRUNG
Kể
từ cuộc xâm lược Đại Việt của nhà Tống cho đến năm 1979, cứ cách ngắn
nhất là 200, dài nhất là gần 400 năm (trung bình khoảng 250 năm) người
Hán lại chủ động gây can qua với nước ta. Tất cả đều nhằm tới mục tiêu
thôn tính lãnh thổ, biến nước ta thành quận huyện của họ. Nếu khẩu độ
thời gian này thành quy luật, thì chúng ta đang ở vào thời kỳ Hoà Bình
với Trung Quốc. Nhưng không có bất cứ điều gì đảm bảo cho nhận định đó.
Tôi luôn cảm thấy chúng ta còn rất ít thời gian để chuẩn bị cho một cuộc
đối đầu mới với Trung Quốc, vượt khỏi quy luật về tần suất vừa nêu và
về mức độ khốc liệt. Nói cách khác, với Trung Quốc ngày nay, mọi sự đều
vô cùng khó lường. Vì thế chúng ta cần phải động não đưa ra được một đối
sách để tồn tại hoà bình lâu dài bên cạnh Trung Quốc mà không mất chủ
quyền lãnh thổ (trước mắt là không mất thêm vì hiện tại Trung Quốc chiếm
đóng quần đảo Hoàng Sa của chúng ta) và chủ quyền chính trị. Trong thời
gian qua, ngoài quan điểm được nói ra mồm của chính quyền: “Tránh những
hành động làm ảnh hưởng đến đại cục trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc”,
nổi lên những xu hướng sau từ phía dân chúng trong và ngoài nước:
- Xu hướng chủ chiến
muốn Việt Nam dàn quân ngay tức khắc, cụ thể là đưa tàu chiến, máy bay
ra để đối lại với những hành động bắt nạt, cướp bóc và giết hại ngư dân
Việt Nam mà phía Trung Quốc thực hiện, khi điều kiện cho phép có thể
dùng vũ lực đánh chiếm lại quần đảo Hoàng Sa và những vị trí bị Trung
Quốc chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa. Xu hướng này cũng lập tức kết tội
chính quyền hiện tại hèn nhát, bán nước, làm tay sai cho Trung Quốc và
yêu cầu họ nhường quyền lãnh đạo đất nước cho những lực lượng khác.
Trong khi chưa thể chỉ ra lực lượng khác ấy là lực lượng nào, những
người theo xu hướng này có lẽ cũng đã quên rằng, phần quần đảo Hoàng Sa
rơi vào tay Trung Quốc năm 1974 là từ quyền kiểm soát của chính quyền
Việt Nam Cộng hoà, đồng minh số 1 của Hoa Kỳ lúc ấy, khiến hơn 60 chiến
sĩ hải quân là con dân nước Việt bị bắn chết một cách tức tưởi trong cảm
hứng vô cùng dã man của kẻ thù. Với một hạm đội khổng lồ của ông bạn
lớn Hoa Kỳ nằm cách đó vài chục km, với rất nhiều vũ khí hiện đại, nếu
người Việt (cụ thể là chính quyền miền Nam lúc ấy) định dàn quân giành
lại Hoàng Sa thì không còn cơ hội nào tốt hơn chính thời điểm đó. Thực
tế này với chính sách bị coi là nhu nhược của chính quyền hiện tại như
một số người quy kết, là hai vấn đề khác nhau và mỗi vấn đề đều cần phải
làm rõ, rạch ròi, công bằng trước lịch sử.
- Xu hướng dân tộc chủ nghĩa cứng rắn
muốn dựa vào tinh thần dân tộc, tinh thần bài Hán để thể hiện quan điểm
cứng rắn với Trung Quốc. Giới hạn của xu hướng này là công khai đối đầu
với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao, thậm chí nếu cần thì cắt đứt
bang giao, sẵn sàng cho một cuộc đánh trả bằng quân sự. Xu hướng này gây
sức ép với chính quyền để họ phải tỏ rõ thái độ chống lại Trung Quốc
bằng lời lẽ và hành động ngay lập tức.
Nếu sau mọi chuyện, sáng dậy mở mắt ra chúng ta đã không còn là láng giềng của Trung Quốc thì chẳng có gì phải bàn nhiều.
Thực
ra dưới thời cố Tổng bí thư Lê Duẩn, quan hệ Việt-Trung là thể hiện rõ
ràng nhất của xu hướng này, với đỉnh cao của cuộc đối đầu là trận chiến
biên giới năm 1979, kéo dài 30 ngày trên lý thuyết nhưng phải hơn 7 năm
sau mới chấm dứt được sự đổ máu, sau khi để lại một biên giới tan hoang
và một nền kinh tế kiệt quệ. Đấy là chưa kể thiệt hại lớn nhất về nhân
mạng mà con số chắc chắn là nhiều vạn người vẫn còn trong vòng bí mật
quốc gia!
- Xu hướng dân tộc chủ nghĩa mềm dẻo muốn
Việt Nam độc lập với Trung Quốc về chính trị, ngoại giao để tự chủ quan
hệ đồng minh với những quốc gia có chung lợi ích chiến lược ở Biển
Đông, số 1 là Hoa Kỳ, khiến Trung Quốc không dám cậy mạnh lấn lướt mà
phải lựa chọn sự hữu hảo bình đẳng. Mặt khác nhà cầm quyền cần từ bỏ ý
thức hệ Xã hội chủ nghĩa như một mặc định vô lý, nhanh chóng dân chủ hoá
đất nước theo tấm gương của một số quốc gia phát triển trong khu vực để
nâng cao sức mạnh dân tộc, tập hợp được mọi lực lượng, tiến tới đưa
nước ta thành một cường quốc kinh tế, quân sự… Khi đó nền hoà bình với
Trung Quốc sẽ tự nhiên được thiết lập và có cơ sở để bền chắc và có cơ
hội để đòi lại những phần lãnh thổ bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép.
Hàng
loạt kiến nghị, tuyên bố… của những nhân sĩ, trí thức, công, nông,
binh… trong thời gian qua là theo xu hướng này. Cùng với đó là những đợt
người dân hai thành phố lớn xuống đường giương biểu ngữ phản đối Trung
Quốc khi có sự cố nào đó họ gây ra trên Biển Đông.
Đây
là xu hướng trước sau đất nước cũng phải lựa chọn, bởi nó mang tính tất
yếu về mặt phát triển, đáp ứng nhiều nhất lợi ích của dân tộc trên mọi
phương diện. Tuy nhiên khi tiếp cận ở một vài vấn đề then chốt vẫn còn
hấp tấp, thiếu đi độ lạnh của lý trí, sự điềm tĩnh cần thiết để duy trì
sự tỉnh táo. Chính vì thế nhiều ý tưởng đầy trách nhiệm với quốc gia,
xuất phát từ những tấm lòng lớn với xã tắc, lại bị lồng trong cái vỏ của
thứ ngôn ngữ chỉ dùng khi chửi bới, miệt thị, chế nhạo khiến mất đi
tính đối thoại, rất đáng tiếc. Ngoài ra, vì để cho sự bức xúc chi phối
mà nhiều ý kiến thành tâm bị mọi người hiểu sai, dẫn đến tác giả của nó
bị vùi dập không thương xót, cũng làm mất đi không khí bàn bạc, tôn
trọng nhau mà đáng ra giới trí thức phải gương mẫu duy trì (*).
Với cá nhân tôi, những gì xảy ra giữa một bộ phận người dân với chính
quyền Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là với Nhà nước Việt Nam
thời gian qua là một bi kịch dân tộc. Trong khi kẻ thù đang lăm le ăn
sống nuốt tươi lãnh thổ của Tổ Quốc, thì nội bộ Dân tộc lại bị phân tán.
Tôi phản đối mạnh mẽ cách thức hành xử của chính quyền khi đàn áp biểu
tình, tấn công các blogger có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc. Hành xử
như vậy cho thấy chính quyền thiếu tự tin về trí tuệ nhưng lại quá tự
mãn, ngạo mạn với vai trò và quyền lực của mình. Chính quyền không thể
cho mình cái quyền không cần đối thoại với dân chúng mà chỉ một mực đòi
họ tuyệt đối tin tưởng, trước một vấn đề nước sôi lửa bỏng như vấn đề
chủ quyền và sinh mệnh đồng bào. Họ là những người dân bình thường,
không thể đòi hỏi họ cũng phải tư duy như những chính khách và càng
không thể vì thiếu tư duy ấy mà họ bị khép tội. Họ có quyền lo lắng cho
đất nước và cần biết niềm tin của họ có cơ sở hay không và đang đặt vào
đâu. Ngay cả khi phải giữ bí mật, phải đóng kịch với Trung Quốc để không
phá vỡ sách lược nào đó không cần phải cho người dân biết, thì vẫn có
cách chuyển tải điều đó cho dân chúng. Sự vụng về thì có thể thông cảm
được chứ rất khó mà chia sẻ với cái kiểu “bí thí tốt” như đã xảy ra.
Nhưng
mặt khác cũng phải nói một sự thật rằng, chúng ta không thể đối phó
được âm mưu của Trung Quốc muốn chiếm vĩnh viễn Hoàng Sa và Trường Sa
nếu chỉ bằng những cuộc biểu tình trên đường phố hoặc những lời hô hào
trên Internet. Đánh thức lòng yêu nước, sự cảnh giác của mọi tầng lớp
dân chúng trước âm mưu Hán hoá mà Trung Quốc đang tiến hành với Việt Nam
là cần thiết, thậm chí cấp thiết hơn bao giờ hết và chắc chắn còn có
nhiều cách khác nữa. Nhưng sự tỉnh táo sau đó để giải mã hành động của
Trung Quốc rồi đưa ra đối sách khôn ngoan mới là thứ cần thiết hơn.
Chúng ta không sợ một cuộc chiến tranh với Trung Quốc – nếu nó xảy ra –
không có nghĩa rằng chúng ta luôn sẵn sàng để tuyên chiến với Trung
Quốc, đặt đất nước thường xuyên bên bờ vực chiến tranh. Những lời hô hào
kích động cho một cuộc chiến tranh thấy rải rác đâu đó, là vô cùng
thiếu lý trí, thậm chí là vô trách nhiệm. Nếu ai đó ở Trung Quốc cũng
nuôi quan điểm như vậy với Việt Nam, cho dù họ ở thế nước lớn gấp 30 lần
chúng ta, cũng đáng bị coi là thiển cận.
Một
cuộc chiến tranh với Trung Quốc là điều đầu tiên chúng ta (và không chỉ
chúng ta, ngay nước Mỹ, nước Nhật…) phải tìm mọi cách để tránh khi còn
có thể. Bản thân Trung Quốc cũng phải làm điều tương tự với các láng
giềng của họ, ngoại trừ họ ảo tưởng mù quáng về sức mạnh hoặc có kẻ nào
đó trong giới chóp bu tại Bắc Kinh lại thích cá cược với lịch sử. Tìm
mọi cách để tránh, khác với tránh nó bằng mọi giá. Đọc lại lịch sử chúng
ta đều nhận thấy ông cha ta cực kỳ nhất quán với quan điểm đó, tức là
cố gắng hoà hiếu đến phút chót và chỉ khi không còn cách nào khác mới
phải dùng đến vũ khí. Trước thế giặc quá mạnh, Triều đình Nhà Trần thậm
chí đã nghĩ đến chuyện buông vũ khí để mong không phải chịu cảnh binh
đao khốc liệt có nguy cơ huỷ diệt cả dân tộc! Sửa chữa sai lầm chết
người đó chính là nhân sĩ, trí thức, tướng lĩnh và những người dân cày
Đại Việt. Rút cuộc vua tôi nhà Trần đã khiến kẻ thù phải bạc tóc hàng
trăm năm sau mỗi khi nhớ lại cuộc xâm lược nhục nhã đó. Bởi vì nhà Trần
có những vị vua vô cùng anh minh, lại khiêm nhường (những người còn tin
có thần Phật, trời đất đều khiêm nhường), biết coi sinh mệnh của xã tắc
cao hơn sĩ diện cá nhân, sĩ diện của triều đại. Nhà vua dám nói lên suy
nghĩ của mình, dám thú nhận với bá tính sự kém cỏi, thiếu tự tin của
mình trước một kẻ thù quá mạnh (dám thú nhận sự kém cỏi của mình chưa
bao giờ là người kém cỏi!), cần đến các hiền tài dân tộc, cần tiếng nói
quyết định của mọi tầng lớp nhân dân. Chính nhờ ở tinh thần “bóp nát quả
cam”, ở những lời nói khẳng khái “Đầu thần còn trên cổ thì hoàng thượng
chớ lo”, “Nếu định hàng giặc thì trước hết hãy chém đầu thần đi đã”… mà
Triều đình nhà Trần đã kết thành một khối rắn chắc chôn vùi huyền thoại
sức mạnh Nguyên-Mông và tạo nên hào khí Đông A để tiếng thơm đến muôn
đời. Có những bậc minh quân như vậy, những người biết chọn đối thoại,
biết lắng nghe thay vì đối đầu với dân chúng, làm sao kẻ thù có thể
thắng được.
Giờ đây là lúc cả dân tộc cần đến
một sự gắn kết, cần một sự đồng lòng, cần những bộ óc thông minh, trong
sạch hơn bao giờ hết. Bởi vì vận mạng của dân tộc, sự tồn vong của xã
tắc chưa bao giờ bị đặt vào thế chông chênh như hiện tại. Kẻ thù ngày
nay không phải là những đạo quân công khai tuyên bố sẽ làm cỏ cái nước
Nam nhỏ bé với những tối hậu thư ngông cuồng và lỗ mãng, ép con dân Việt
phải cầm vũ khí. Kẻ thù ngày nay luôn mang bộ mặt bạn bè, thậm chí còn
là những người có cùng mục tiêu lý tưởng, luôn luôn vuốt ve bằng những
lời lẽ ngoại giao thuộc loại lịch sự nhất. Kẻ thù trước đây đặt chúng ta
vào tình thế hoặc đánh lại hoặc bị tiêu diệt. Kẻ thù ngày nay tạo cảm
giác là chỗ dựa tin cậy, cùng tồn tại và cùng phát triển, vì một mục
tiêu cao cả cùng hướng tới. Nhưng trên thực tế, chưa khi nào nước ta bị
xâm lược ở quy mô lớn và toàn diện như hiện nay. Chưa khi nào nguy cơ
lại rơi vào vòng lệ thuộc ngoại bang của dân tộc chúng ta hiển nhiên như
hiện tại. Vì vậy con dân nước Việt mà đại diện của nó là giới trí thức,
phải thật tỉnh táo để không gây ra trạng thái rối trí.
Chúng
ta phải xác định ngay với nhau rằng, Trung Quốc là mối bận tâm lớn nhất
của người Việt, từ cổ sử cho đến muôn đời. Người Pháp, người Nhật và
sau cùng là người Mỹ, chỉ là những yếu tố ngẫu nhiên làm gián đoạn mối
bận tâm chính yếu đó, xét trên suốt hành trình là không đáng kể cho dù
nó cũng đã làm thay đổi số phận của dân tộc. Chính các cường quốc phương
Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ đã giúp người Việt tạm thời quên đi những đau
thương do Trung Quốc gây ra. Quan hệ Việt-Trung bỗng nồng ấm tình anh em
khi người Pháp và liền sau là Mỹ quyết chia cắt Việt Nam để “ngăn cơn
sóng đỏ”. Không thể trách những nhà chính trị miền Bắc thời ấy khi họ
buộc phải dựa vào Trung Quốc (giống như những nhà chính trị của chính
thể Việt Nam Cộng hoà phải dựa vào Hoa Kỳ) cho dù không ít người nhận ra
bên trong những kiện hàng viện trợ là một tính toán lâu dài về lãnh thổ
và lợi ích quốc gia của người Hán. Họ (bao gồm cả hai phía) đáng trách ở
chỗ đã ngạo mạn đánh đồng các mục tiêu chính trị có tính đảng phái dựa
trên những chủ thuyết chính trị, với các mục tiêu dân tộc vốn cao hơn,
thiêng liêng hơn mọi ý thức hệ. Vì thế, người Việt nên trách nhau một
cách nghiêm khắc thì công bằng hơn. Chúng ta đã thất bại quá lâu cho một
cuộc hoà giải dân tộc (**) (giờ này vẫn chưa hết thất bại!), tạo
cơ hội cho các loại ngoại bang nhảy vào xâu xé, chia chác, tự tiện đưa
ra những quyết định theo ý họ trên lưng người Việt. Hàng triệu con cháu
của bà Âu Cơ bị chính người anh em, đồng bào của họ giết chết bởi vũ khí
ngoại bang, là điều khủng khiếp nhất của lịch sử đất nước và các thế hệ
tương lai phải tiếp tục suy ngẫm về cơn bĩ cực đau thương đó. Trong số
những ngoại bang ấy thì Trung Quốc là ẩn số lớn nhất, chứ không phải Hoa
Kỳ. Việc Trung Quốc mạnh mẽ viện trợ chiến tranh cho Bắc Việt Nam nhưng
lại không muốn thấy một nướcViệt Nam thống nhất, là bằng chứng rõ ràng
nhất về điều đó. Họ muốn người Việt tàn sát nhau cho tới người cuối cùng
để dễ bề nuốt gọn cái dải đất phía Nam mà hàng ngàn năm ông cha họ
không thực hiện được, hoặc ít ra cũng biến thành cái đệm an ninh như họ
đang đạt được với Bắc Triều Tiên. Trung Quốc là bậc thầy thiên hạ về khả
năng giấu kín những mục tiêu chiến lược của mình. Những lời dạy của
Đặng Tiểu Bình “Giấu mình chờ thời” đã nói rõ bản chất của nền chính trị
Trung Hoa hiện đại. Giấu mình khi chưa đủ mạnh. Chờ thời cơ chín muồi,
trong đó Trung Quốc đã là cường quốc, trong khi những cường quốc khác
suy yếu, sẽ làm một cuộc trỗi dậy, đánh úp thiên hạ để rửa nhục cho
những thất bại triền miên của dân tộc Trung Hoa (không phải chỉ thất bại
trước người Việt). Thực ra đây là một tư tưởng nguy hiểm cho thế giới,
đặc biệt với những nước láng giềng trong đó có Việt Nam. Và cũng chính
thủ đoạn đầy tinh thần Đại Hán đó đã xác định bản chất của mối quan hệ
không chỉ Việt-Trung mà cả giữa Trung Quốc với thế giới.
Chưa khi nào Trung Quốc ngạo mạn và tự tin vào sức mạnh của họ như hiện nay.
May
mắn lớn nhất là đến giờ này chúng ta vẫn chưa bị Hán hoá! Trên thế giới
hiếm có một dân tộc nào bị đô hộ tới cả ngàn năm mà lại vẫn sống sót
với tư cách một dân tộc, để rồi sau đó phát triển thành một quốc gia,
như Việt Nam. Đó là bi kịch khủng khiếp cho cả hai phía. Trong khi chúng
ta bị dồn đuổi, bị áp bức, bị lệ thuộc, thì kẻ đô hộ cũng chẳng sung
sướng gì. Sau một ngàn năm, việc người Hán đành phải nuốt hận dừng chân
trên đường chinh phạt xuống phía Nam, chấp nhận có một quốc gia bé hơn
họ gần ba mươi lần về diện tích, sống bên cạnh như một láng giềng, mà
lại là láng giềng bướng bỉnh, là nỗi hổ thẹn không dễ gì quên đi được.
Bằng chứng là từ khi nhà nước Đại Việt ra đời cho đến cuối thế kỷ 20,
tức là 1000 năm sau đó, họ đã tám lần xua binh hùng tướng mạnh, lần lượt
đối đầu với sáu triều đại chính của Việt Nam, quyết rửa nỗi nhục đế
quốc mà vẫn không thành. Điều đó xác lập nên mối quan hệ lịch sử trớ
trêu và bi thảm giữa chúng ta và Trung Quốc. Mỗi lần Trung Quốc muốn làm
cỏ nước Nam, thì thêm mỗi lần họ phải nuốt xuống sâu hơn nỗi nhục thất
bại. Nỗi nhục đó là nỗi nhục Quốc truyền. Ý thức rõ không thể tránh được
Trung Quốc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tìm ra một triết lý
sinh tồn bên cạnh người láng giềng khổng lồ và chưa bao giờ hết tham
vọng lãnh thổ, đó là “thần phục giả vờ” (chữ của cố giáo sư Trần Quốc
Vượng). Nghĩa là bề ngoài cha ông ta luôn tỏ vẻ thần phục Bắc triều với
các hình thức dâng lễ vật hàng năm, bẩm báo một cách hình thức những
việc trọng đại, chấp nhận chịu lễ phong vương (tức là chấp nhận thuộc
quốc về mặt hình thức)… Thậm chí sau mỗi cuộc chiến, dù mình là người
chính nghĩa và chiến thắng, nhưng – như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi và
sau này là Quang Trung đã làm – vẫn giành cho kẻ thù chút sĩ diện để nó
không quá nhục mà trở nên điên cuồng. Nhưng bên trong thì lúc nào cha
ông ta cũng giữ độc lập, bình đẳng với Trung Quốc trong mọi việc, sẵn
sàng – cả về tinh thần (đoàn kết dân tộc) lẫn vật chất (rèn luyện binh
sĩ, vũ khí, chẳng hạn chính sách “ngụ binh ư nông”… hoàn toàn chỉ để đối
phó với Trung Quốc) – để cho gã khổng lồ nếm tiếp nỗi nhục thất bại nếu
nó lại gây can qua. Về phía các triều đại Trung Quốc, một mặt họ cay
đắng chấp nhận sự thần phục mà họ biết rõ là vờ vĩnh đó, một mặt họ
không nguôi tìm cách xóa xổ nước Việt ở phương Nam, khi điều kiện cho
phép. Điều kiện đó là khi nước nhà ta suy yếu hay lủng củng về nội bộ.
Điều kiện đó còn là khi các triều đại của Trung Hoa tiếm quyền nhau và
muốn lấy lòng dân chúng, muốn chứng tỏ họ hùng mạnh, muốn mở mang cương
vực (thời điểm hiện tại có vẻ như đang hội đủ những yếu tố bên trong và
bên ngoài như vậy!). Họ đã thành công với hầu hết các nước nhỏ ở phía
Tây, phía Bắc nhưng chưa bao giờ làm được điều tương tự khi quay xuống
phương Nam. Vì thế, sự ngang nhiên tồn tại một nhà nước của một trong số
những tộc Việt không thể tiêu diệt, chính là nỗi hận truyền đời của
người Hán. Vì những mục tiêu lâu dài, trong một số điều kiện không thể
chủ động, Trung Quốc buộc phải làm chỗ dựa cho Việt Nam trong một thời
gian. Đây là một phần của sự thật lịch sử bang giao hiện đại giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Sự thật này có vẻ bề ngoài ngọt ngào nhưng bên trong
vẫn là cái hạt đắng đót kết lại từ hàng ngàn năm quá khứ mà chính sách
trắng của Bộ ngoại giao Việt Nam năm 1979 đã chỉ ra. Cuộc chiến biên
giới Tây Nam năm 1978 với chế độ đồ tể Pônpốt và cuộc chiến phía Bắc năm
1979 với bậc thầy của hắn ta, tuy với hai quốc gia khác nhau nhưng đều
có một điểm xuất phát từ Bắc Kinh. Nó là nút thắt định mệnh mỗi 250 năm
(chính xác chỉ có 190 năm, kể từ cuộc xâm lược của nhà Thanh, là khẩu độ
thời gian ngắn nhất) của lịch sử chưa bao giờ hữu hảo thật sự giữa Việt
Nam và Trung Quốc.
Giờ đây, cho dù được khoác
bằng những chữ vàng về tình anh em, được tô son trát phấn bởi đủ thứ mỹ
tự, thì quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, trên thực tế là quan hệ giữa một
con mãnh thú luôn đói mồi với một con nhím chỉ muốn yên thân nhưng bất
khuất, đầy kinh nghiệm thoát hiểm và có khả năng làm đối phương phải tổn
thương. Người Trung Quốc có thể cũng rất muốn có sự yên ổn ở phía Nam,
nhưng với điều kiện các đòi hỏi về lãnh thổ và lãnh hải – đặc biệt là
lãnh hải – của họ phải được thoả mãn. Mà điều vô lý theo kiểu sô-vanh đó
thì không bao giờ được chấp nhận, một khi người Việt chưa diệt vong. Vì
vậy, mọi sự hữu hảo giữa hai đảng, hai nước, hai dân tộc… chỉ là sự vờ
vịt mà cả hai bên đều đọc thấy hết những gì thật sự ẩn chứa bên trong,
sẽ còn kéo dài chưa biết đến bao giờ, ít nhất là chừng nào chúng ta còn
chưa giành lại được Hoàng Sa, hoặc chừng nào Trung Quốc chưa trở thành
một cường quốc dân chủ, có trách nhiệm và do đó từ bỏ tham vọng ngông
cuồng, đầy ảo tưởng thể hiện trên bản đồ lãnh hải hình lưỡi bò.
Có
thể đã thừa căn cứ để nói rằng: Không ai mong muốn làm láng giềng núi
liền núi, sông liền sông với Trung Quốc như những gì thế giới chứng kiến
ở họ. To lớn như nước Nga hay Ấn Độ họ cũng không thích thú gì có một
ông bạn thâm hiểm, tham tàn và khó lường như Trung Quốc ở bên cạnh.
Trong nửa sau thế kỷ 20, Trung Quốc trực tiếp và gián tiếp gây chiến
tranh với hầu hết bạn bè lân bang, đúng tinh thần của Binh pháp Tôn Tử:
“Viễn giao, cận công”. Vì thế, số phận quả là khắc nghiệt đã đặt chúng
ta bên cạnh Trung Quốc, lại ở phía dễ tổn thương nhất. Việc thất bại
trong quá trình đồng hoá và xâm lược Việt Nam suốt hai ngàn năm, chưa
phải là bài học cuối cùng cần khép lại vĩnh viễn với người Trung Quốc.
Họ sẵn sàng theo đuổi tiếp hai ngàn năm nữa để thực hiện mục tiêu đó.
Mấy chục năm hữu hảo, mấy trăm triệu đô la viện trợ để chúng ta có thể
“đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng” chỉ là bước đi nhỏ, của một tính
toán dài hạn, lạnh lùng, không thay đổi một li một lai mà người Trung
Quốc vạch ra chi tiết cho việc thôn tính chúng ta. Xét về mọi khía cạnh
thì đây là một thực tế bi thảm mà chúng ta phải đối mặt. Bi thảm vì
chúng ta luôn ở thế lép vế so với họ; bi thảm vì chúng ta không có quyền
lựa chọn không gian sống khác; bi thảm vì dân tộc chúng ta là một dân
tộc quật cường, hoặc sống hoặc chết chứ không trở thành họ, càng không
trở thành một bộ phận dơ dáy của họ. Bi thảm còn vì chúng ta không thể
nhắm mắt lại rồi hy vọng khi mở ra đã ở bên một nước khác không phải
Trung Quốc. Chúng ta, trong bất cứ khoảnh khắc nào đều không được phép
sao lãng công việc để ý ông bạn láng giềng. Bỗng dưng nó mạnh lên là
phải cảnh giác. Nhưng đột nhiên nó có nguy cơ tan vỡ cũng lại là mối
nguy hiểm. Thấy họ cãi nhau với người hàng xóm khác (chẳng hạn như những
căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc với Nhật Bản hay Philippines), phải
nghĩ ngay đến việc họ đang giương đông kích tây, đánh lừa dư luận khỏi
chú ý đến mục tiêu chính ở Biển Đông, tức là có thể bất ngờ đánh úp mình
bất cứ lúc nào.
Nhưng có lẽ bi thảm nhất là vô tình chúng ta đóng vai trò vật cản tự nhiên
của tham vọng bành trướng Đại Hán Trung Quốc. Đây là thực tế phũ phàng
xác định tính thực chất lâu dài cho mối quan hệ Việt-Trung.
Nói
gọn lại, chừng nào Trung Quốc còn nuôi ý đồ độc chiếm Biển Đông, chừng
nào Trung Quốc còn chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa, tìm cách gặm
dần Trường Sa của Việt Nam, chừng nào người Việt Nam còn không chấp nhận
sự chiếm đóng của Trung Quốc trên một phần lãnh thổ, không chấp nhận sự
lệ thuộc tinh thần, thì chừng đó quan hệ Việt-Trung là quan hệ của hai
đối thủ, mọi sự hữu hảo chỉ là tạm thời và vờ vĩnh. Thực chất của mối
quan hệ đó là bên này tìm cách cô lập, làm suy yếu bên kia càng nhiều
càng tốt (trên thực tế điều này chỉ đang diễn ra một chiều, từ phía
Trung Quốc). Với Trung Quốc là cả một chiến lược toàn diện, dài hạn,
nhất quán, được chuẩn bị kỹ với tầm nhìn hàng trăm năm từ chuẩn bị lực
lượng quân sự, chèn ép về buôn bán, giao thương, xâm lược văn hoá, quấy
nhiễu, gây rối an ninh, áp đặt dư luận bằng quy mô tuyên truyền lớn,
thao túng hàng hoá, tiền tệ, công nghệ, làm suy thoái nòi giống Việt (***)…
không thể kể hết, đến những can dự vào chính trị, chia rẽ nội bộ, kiềm
toả về ngoại giao, kinh tế, nhằm làm cho Việt Nam suy yếu toàn diện, …
Còn về phía Việt Nam, chúng ta chỉ có một cách duy nhất là tỉnh táo
thoát khỏi những mưu mô đó của Trung Quốc, tận dụng thời cơ trong đó có
cả những mâu thuẫn giữa các cường quốc để phát triển. Về phần Trung
Quốc, họ nắm toàn bộ sự chủ động, có thể đề ra luật chơi theo ý mình
nhưng tuyệt đối không phải vì thế mà họ có quyền định đoạt. Về phần
mình, chúng ta bắt buộc phải sống bên cạnh họ – nhiều người có vẻ không
nhớ thực tế đơn giản này – đành ở vào thế phải nương theo và vì vậy
chúng ta chỉ có thể tồn tại và phát triển bên cạnh Trung Quốc bằng một
đối sách khôn ngoan.
T. D. A.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
(Còn nữa)
-------------------------------------------------------
(*)
Tôi muốn nhắc đến trường hợp bài trả lời phỏng vấn của ông Lê Vĩnh
Trương trên báo Pháp luật TPHCM ngày 4/11/2012 (và trước đó nữa là bài
của giáo sư Ngô Bảo Châu). Ông Trương – trong khuôn khổ của một tờ báo
chính thống – đưa ra được một số thông điệp như vậy là rất cố gắng, thực
tế là chưa có tiền lệ trong thời gian từ sau năm 1991. Ông không đáng
bị “ném đá” như những gì đã xảy ra, nếu mỗi người tỉnh táo, suy ngẫm
thấu đáo hơn. Tôi đồng ý với đánh giá khá bình tĩnh của ông Dương Danh
Huy. Những người ném đá ông Trương quên mất một thực tế là, do bị nhồi
sọ quá lâu, hàng triệu người –những người cần biết thực tế của mối quan
hệ Việt-Trung cũng như những việc hệ trọng khác của đất nước – vẫn chưa
có thói quen tin vào những trang mạng tự do. Những thông tin trên đó bị
“hàng rào chính trị” trong đầu họ gói tuốt vào một rổ với những thứ
chống phá đất nước. Chúng ta có thể trách họ nhưng đó đang là thực tế.
Theo tôi, những người bình thường có thể xả ra mọi bức xúc, hay vẫn gọi
là “ném đá”, còn thứ mà giới trí thức “ném ra” chỉ nên là những quan
điểm, ý tưởng có giá trị phản biện.
(**)
Năm 2002 tôi có chuyến sang Hoa Kỳ và khi đến vùng có nhiều người Việt
sinh sống thì tôi được người dẫn đường nói nhỏ vào tai: Đừng nói gì nhé,
kẻo bị hành hung đấy. Hành hung thì chưa, nhưng tôi bị một cháu sinh
viên Việt lừ mắt hỏi “Sang đây làm chi?” đáp lại vẻ mặt hớn hở và lời
hỏi thăm đầy tình đồng bào của tôi sau một tháng xa nhà. Sau đó tôi được
biết nhà văn N. K. từng bị chính đồng bào mình nện mũ cối vào đầu, nhà
văn L. M. K. và H. A. T. thì phải nhờ đến cảnh sát Hoa Kỳ làm hàng rào
mới thoát khỏi cuộc vây hãm của hàng trăm người Việt, nhà văn N. H. T.
bị bao vây khi ông đến nói chuyện tại một trường đại học… Lý do chỉ là
những nhà văn đầy tinh thần dân chủ này (tất nhiên không ai thèm biết
điều đó!) từng và đang làm việc cho nhà nước Cộng sản. Khi về nước tôi
cứ đau buồn mãi về chuyện này và tự hỏi: Bao giờ thì quan hệ của những
“đồng bào Việt” mới không gắn với chính trị và bao giờ thì họ mới tha
thứ cho nhau?.
(***) Ở tầm vĩ mô, ngoài
những gì ghi trong sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam năm 1979, có
thể kể thêm vụ ngăn cản Việt Nam bình thường hóa với Hoa Kỳ, gia nhập
WTO, ép các nhà thầu dầu khí nước ngoài không hợp tác với Việt Nam… Còn ở
những tiểu xảo thì muôn hình vạn trạng. Những chuyện như thu mua rễ cây
hồi, đuôi trâu, đỉa, râu ngô có thể là một vài ví dụ. Năm 1995, một anh
bạn thạo tin rỉ tai tôi là Trung Quốc bỏ ra khoảng 27 tỉ nhân dân tệ
(hơn 4 tỉ USD) để trợ giá cho những mặt hàng như điện máy, điện tử, giày
dép, đồ may mặc của họ… để giết chết những ngành này ở Việt Nam bằng
buôn bán tiểu ngạch. Tôi không có điều kiện kiểm chứng thông tin này.
Nhưng năm 1995, khi tôi sang Bằng Tường rồi vào sâu trong lãnh thổ Trung
Quốc khoảng 30 km, tôi tận mắt chứng kiến những mặt hàng đã kể, cùng
chủng loại, cùng nhãn mác… ở nội địa Trung Quốc bán cao gấp từ 2 đến 3
lần ở Lạng Sơn, Móng Cái… Vì thế những người dân Trung Quốc ở vùng biên
bèn sang Việt Nam để mua hàng Trung Quốc, rẻ chưa bằng một nửa khi bán
tại nước họ, về tiêu dùng.
Năm 1999 tôi có dịp
thăm cửa khẩu Sóc Giang, Cao Bằng, chứng kiến cảnh Trung Quốc xua người
dân lấn đất của Việt Nam bằng các cách sau: Dịch cột mốc tạm thời, cho
người cắt cỏ theo đường phân giới, lấn sâu vào phía Việt Nam rồi cứ thế
căn cứ vào màu cỏ để coi là ranh giới, trồng cây sao cho gốc chéo sang
đất Việt Nam nhưng ngọn vẫn ở bên đất Trung Quốc rồi chờ đêm đến cho
người ra dựng thẳng cái cây đó lên, coi như gốc cây là điểm giáp biên.
Hoặc ở cửa khẩu Tà Lùng, có một con suối trở thành một đoạn đường biên
tự nhiên giữa hai nước. Phía Trung Quốc bèn xui Việt Nam cùng họ đắp đập
để lấy nước tưới. Nhưng khi tháo nước thì chỉ có phía Việt Nam thực
hiện. Bờ sông phía Việt Nam lập tức bị nước khoét lõm vào khoảng vài
chục mét – do áp lực nước quá lớn – và phía Trung Quốc lấy ngay cái bờ
mới đó để chia lại đường phân thủy, kết quả là họ được lợi vài ngàn mét
vuông. Chính anh em biên phòng bảo với tôi, phía Trung Quốc định ra mức
thưởng 1000 nhân dân tệ (khoảng hơn 2 triệu đồng Việt Nam lúc ấy) cho
một héc ta đất rừng lấn chiếm được. Người dân Trung Quốc ở vùng giáp
biên với Việt Nam đa phần rất nghèo, có thể là nghèo nhất thế giới, nên
họ thấy tiền là bất chấp tính mạng để lao vào. Cũng phải chứng kiến tận
nơi mới thấy bộ đội biên phòng của chúng ta cũng như đồng bào Việt Nam ở
vùng biên gian khổ nhưng bất khuất và giàu lòng yêu nước như thế nào.
Copy từ: Bauxite Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét