S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) - "Những
năm tù sắp tới cũng chưa chắc sẽ gây được tổn hại nào đáng kể cho Tạ
Phong Tần. Nhưng bản án khắc nghiệt, cùng cách hành sử đê tiện, vừa qua –
chắc chắn – sẽ có ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến sự tồn vong (vốn đã
rất mong manh) của nhà nước hiện hành. Không ai, kể cả những người lạc
quan và cực đoan nhất hiện nay, có thể tin rằng chế độ bạo ngược này có
thể tiếp tục cầm quyền thêm mười năm nữa."...
*
Đây là cuộc chiến của công lý và danh dự! (Tạ Phong Tần)
*
Đây là cuộc chiến của công lý và danh dự! (Tạ Phong Tần)
--------------------------------------------------
Khi mới vào Nam, ông Nguyễn Đăng Mạnh đã “nẩy ra ý khái quát” thế này:
“Vào Sài Gòn ngay sau 1975, người miền Bắc quả đã bị choáng ngợp. Nếu có
chê thì chê theo một định kiến cũ kỹ về mặt đạo đức. Thí dụ, đàn bà con
gái mặc áo dài không có áo lót, hở ra bên hông (Ông Vũ Thuần Nho gọi là
triangle sexuel) Nhiều cô mặc áo như cái maillot, có cô mặc quần soóc
đi ngoài đường…vv…
Quan sát cảnh vật và sinh hoạt của con người từ Bắc vào Nam, tôi nảy ra ý
khái quát này: từ Bắc vào Nam là đi từ miền đất nghèo đến nơi giầu có,
từ chỗ hàng năm hễ gặp hạn hán hay lụt lội là đói khát, đến nơi dường
như sờ đâu cũng có cái ăn, cây trái, tôm cá ê hề, muốn chết đói cũng
khó.
Nhưng mặt khác, đi từ Bắc vào Nam là đi từ nơi văn hóa cao đến nơi văn hóa thấp.” (Hồi Ký Của Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh).
Có lẽ vì độ “vênh” văn hóa giữa hai miền rõ ràng (như thế) nên hàng trăm
ngàn viên chức, văn nghệ sĩ, và sĩ quan miền Nam đã được đưa ra Bắc học
tập cho ... chóng tốt. Duy có điều đáng tiếc là khí hậu (cũng như điều
kiện sinh sống) “nơi văn hóa cao” không hiền hòa và tử tế gì cho lắm nên
không ít “học viên” đã bỏ mạng tại chỗ, ngay khi chương trình cải tạo
vừa mới bắt đầu:
“Anh em từ trong Nam ra cứ yên trí là ‘học tập một tháng’, nên quần áo
mang đi theo làm gì nhiều cho nặng. Ra đây, đụng cái buốt giá của mùa
đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh càng thêm
thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc
đủ các thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh
chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở
ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm
nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo…
Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh
như năm nay (1976). Đúng là ‘Giậu đổ bìm leo’, vào cái lúc mà tù cải tạo
ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn…Mà xưa nay cái lạnh và cái
đói có quan hệ ‘hữu cơ’ với nhau. Càng đói thì càng rét-mà càng rét thì
càng đói.
Anh em đã có người ‘nằm xuống’ vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm
nhạc) chết đêm 16 rạng sáng 17-11- 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa
đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay ngày
13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Qúy Thuyết, Tòa án Quân
sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy
anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi.”
(Phan Lạc Phúc. Bạn Bè Gần Xa. Westminster, CA: Văn Nghệ, 2000 – Trích dẫn lại từ Bên Thắng Cuộc. Osinbook, 2012. Vol.1.)
Đói lạnh (có lẽ) chỉ làm cho những người tù từ miền Nam chóng chết, chứ
không chóng tốt. Không những thế, những kẻ sống sót, với thời gian (xem
chừng) mỗi lúc một thêm khó cải tạo hơn. Xin đơn cử một trường hợp tiêu
biểu:
“…Trương Văn Sương quê ở Chùa Dơi tỉnh Sóc Trăng bị bắt vào khoảng
những năm 1977- 1978. Và tổng số thời gian ở tù của anh cũng đã ngót 28
đến 30 năm ròng rã… Anh đã từng là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng
Hoà trước đây.
Không bao giờ anh và những người tù án nặng ở buồng 6 viết bản nhận
tội. Cứ mỗi lần như vậy thì anh Sương đều là người đứng đầu đấu tranh và
ban giám thị trại Nam Hà phải điều hàng chục binh sĩ và cán bộ công an
xuống khóa tay, đưa anh đi cùm biệt giam ở nhà kỷ luật...
Suy nghĩ của tôi khi viết bài này là chỉ mong Đảng CSVN, nhà nước
Việt Nam và Bộ công an thôi đi hãy đừng cố chấp, hãy đừng mong mỏi gì
được mấy dòng chữ ‘tôi nhận rõ tội lỗi, thật thà ăn năn hối cải’ ở nơi
anh Trương Văn Sương và nhiều người tù khác nữa theo “4 tiêu chuẩn 1269”
vô hồn, vô nghĩa kia nữa. Mà hãy cao hơn thế là tình người, là lòng
nhân đạo, là sự bao dung, là sự khoan dung và sự đại lượng…hãy thả vô
điều kiện những người tù như anh Trương Văn Sương ra khỏi trại giam vì
anh đã ở tù gần 30 năm là quá đủ rồi...” - (Nguyễn Khắc Toàn – Tù Nhân Trương Văn Sương & Những Người Tù Khác).
Những lời kêu gọi “sự khoan dung và sự đại lượng” (thượng dẫn) được gửi
đi vào năm 2006, và đã hoàn toàn rơi vào hư không. Ông Trương Văn Sương
đã qua đời 5 năm sau, vào hôm 11 tháng 7 năm 2011, tại trại Nam Hà.
Người tù cải tạo này, tiếc thay, đã không “tiếp thu” được chút “chính
nghĩa cách mạng” nào ráo trọi – sau 33 năm học tập ở một nơi xa nhà hàng
ngàn cây số!
Tuy thế, những trại tù ở miền Bắc vẫn mở rộng cửa tiếp tục chào đón những tù nhân từ miền Nam – như tin loan củaBBC, nghe được vào hôm 22 tháng 5 năm 2013:
“Blogger Tạ Phong Tần, người bị chính quyền Việt Nam kết án tù vì tội
'Tuyên truyền chống Nhà nước' nhưng lại được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh
danh là 'Phụ nữ dũng cảm' đã bị chuyển trại giam từ Đồng Nai ra Thanh
Hóa hôm 3/5.
Hiện tại bà đang bị giam giữ tại Phân trại số 4 thuộc Trại giam số 5, thị trấn Thống Nhất, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.”
Bà Tạ Minh Tú, em gái bà Tạ Phong Tần, đã có chuyến ra Bắc thăm nuôi chị mình hôm 15/5.
Nói với BBC từ quê nhà Bạc Liêu, bà Tú cho biết bà đã nói chuyện với bà
Tần trong khoảng 30' dưới sự giám sát của bốn cán bộ trại giam.
Theo đó, bà Tần than phiền ở nơi giam giữ mới này nước nôi rất khan hiếm. Có khi bà không có nước rửa ṃăt.
‘Không có chỗ tắm chỉ có hồ nước khoảng 10m2 cho 200 người giành nhau tắm như là ăn cướp,’ bà Tú thuật lại lời bà Tần.
Theo lời kể của bà Tú thì bà Tần cáo buộc 'chính quyền biết rõ tình
trạng bệnh tật của bà là viêm họng và đau khớp' nên chuyển bà ra ngoài
Bắc với điều kiện khí hậu thất thường và mùa đông lạnh giá bất lợi cho
bệnh tật của bà.”
‘Họ cố tình làm cho gia đình không thăm nuôi được do nhà quá xa xôi với
lại chi phí cao quá nếu có bệnh hoạn gì nếu gia đình không biết thì chết
không ai biết luôn,’bà Tú thuật lại lời bà Tần...
‘Trước khi đi chị cũng gửi lời thăm hỏi các cha và nói là cứ yên tâm chị
vẫn trước sau như một, không có gì thay đổi,’ bà Tú nói.”
Khẩu khí của Tạ Phong Tần dễ khiến cho tôi thốt nhớ đến những chuyện (vô
cùng) phiền phức đã xẩy ra cho nhân viên ở trại giam Nam Hà, vài năm về
trước, vẫn theo như lời của nhà báo Nguyễn Khắc Toàn:
“Lúc đó anh Sương đã hô khẩu hiệu chống đối rất to: ‘Đả đảo CSVN đàn áp
tù chính trị, các cán bộ công an có giỏi thì hãy bắn tôi đi. Trương Văn
Sương này suốt đời chiến đấu cho lý tưởng tự do…’ làm cho hàng chục cán
bộ công an, quản giáo và các binh sỹ công an trẻ rất e ngại. Họ đã có
lệnh sẽ bịt miệng và bằng cách dùng khăn tẩm ê te và hơi cay để trấn áp
không cho anh Trương Văn Sương tiếp tục thét gào phản kháng nữa.”
Xem như thế thì chỉ còn hy vọng vào điều kiện địa dư khắc nghiệt ở nơi
văn hóa cao mới có thể khuất phục được người tù bất khuất Tạ Phong Tần.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một niềm hy vọng (mong manh) thôi vì không
phải ai cũng có thể bị “khí hậu thất thường và mùa đông lạnh giá” đốn
gục như mong đợi:
“Tôi đã sống bẩy năm trên vùng thượng du của tỉnh Thanh Hoá, bên bờ con
sông Mã, và đã bẩy mùa xuân chứng kiến những kỳ diệu của đất trời, núi
sông và lòng mình. Đấy là một nơi hiểm trở, trại đóng ngay bên sườn núi
trông xuống sông, bên kia sông là một bình nguyên nho nhỏ, rồi lại tiếp
tục núi. Hai đầu sông được chắn bởi núi, bốn phía toàn núi, gần xa đậm
nhạt khác nhau”.
Sông Mã chụp từ vị trí cổng trại Tanh Cẩm, Thanh Hoá. Nguồn ảnh: Gia Đình Thanh Cẩm
Chữ “trại” trong đoạn văn vừa dẫn là một trại tù, và người say mê mô tả
cảnh “kỳ diệu của đất trời núi sông” là một tù nhân. Một người tù “quắt
queo đói lạnh, tả tơi đứng bên sông núi” (suốt từ năm này sang năm khác)
mới cảm nhận hết được lẽ chuyển đổi vi diệu của đất trời, để ghi lại
cho chúng ta những câu văn diễm lệ:
“Mùa thu núi bỗng mơ màng. Bầu trời trong xanh hơn và núi như phủ mờ một
làn sương khói mỏng. Trời càng se lạnh núi càng xa cách, càng rời xa vẻ
thực tế tầm thường để tự biến mình thành huyền ảo. Vào mùa thu sông Mã
đã thôi gầm lên khúc độc hành, vẻ đục ngầu dữ tợn của mùa hè đã trôi
mất, bây giờ lặng lẽ trong xanh để hòa hợp với dáng núi đang trong một
chuyển cung yểu điệu. Trời, núi, sông và người cùng vào một cơn ngất
ngây buồn như tiên cảm một nỗi lạnh tê đầy bất trắc. Các ruộng bắp ven
sông đã úa vàng. Công việc thu hoạch mùa màng vào những buổi chiều mùa
thu mang một vẻ đẹp cổ điển với ánh nắng vàng xiên xiên, lá bắp khô xào
xạc, và bếp lửa nấu nước ở bờ ruộng vươn cột khói lên cao...” (Phạm Xuân
Đài. “Nét Xuân Sơn”. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Westminster, CA: Thế Kỷ, 1994.)
Tác giả đoạn văn thượng dẫn đã sống sót trở về, sau nhiều năm “tả tơi
quắt queo sống trong đói lạnh” ở Thanh Hóa. Ông nguyên là chủ biên của
Tạp Chí Thế Kỷ 21, và hiện đang chủ trương trang Diễn Đàn Thế Kỷ, có trụ sở đặt tại miền Nam – California.
Nguồn ảnh: Đặc San Thanh Cẩm
Đã đôi lần, tôi có hân hạnh tiếp chuyện với ông Phạm Xuân Đài, và ông
Phan Nhật Nam – một người tù khác, sống qua hàng chục năm biệt giam ở
trại tù giam Thanh Cẩm. Thái độ sống, cũng như ngòi bút, của cả hai ông
bao giờ cũng đậm nét bao dung và tử tế. Những tù đã qua, xem ra, đã
không gây cho họ một chấn thương tâm thần nào ráo trọi.
Những năm tù sắp tới cũng chưa chắc sẽ gây được tổn hại nào đáng kể cho
Tạ Phong Tần. Nhưng bản án khắc nghiệt, cùng cách hành sử đê tiện, vừa
qua – chắc chắn – sẽ có ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến sự tồn vong
(vốn đã rất mong manh) của nhà nước hiện hành. Không ai, kể cả những
người lạc quan và cực đoan nhất hiện nay, có thể tin rằng chế độ bạo
ngược này có thể tiếp tục cầm quyền thêm mười năm nữa.
Copy từ: Dân Làm Báo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét