Hôm nay, tôi nhận được email của một
người bạn giới thiệu về trang web do các Giáo sư có uy tín khởi xướng và
biên tập, như GS Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Nguyễn Đăng Dung. Tôi rất
vui.
Tuy nhiên, có thể do mới khởi xướng nên
bài viết cũng chưa nhiều, nhưng những bài viết chỉ được đăng dưới lăng
kính một chiều (bởi các bài hiện nay đăng trên Cùng viết Hiến pháp) chỉ
là các bài viết trên các báo đã bị kiểm duyệt (Việt nam đứng vị trí
172/179 về tự do báo chí). Việc kiểm duyệt báo chí do Ban tuyên giáo
trung ương Đảng, thì nói chung những bài viết này cũng chỉ nằm trong
giới hạn ý chí của Đảng.
Hiến pháp
là khế ước xã hội (social contract) do người dân lập nên. Vì vậy tôi hy
vọng rằng, trang Cùng viết Hiến pháp sẽ đăng những bài viết có quan điểm
khác nhau. Hiện nay, các bài như: Hai tử huyệt của chế độ (của GS Hoàng Xuân Phú), Dự thảo Hiến pháp do 72 nhân sỹ, trí thức khởi xướng (đến nay đã có gần 2000 người ký tên) đang được nhiều người ủng hộ.
Cùng viết Hiến pháp có “dám” đăng 2 bài viết đó không?
Xin mạo muội chia sẻ với các GS một điều
là: Người sáng lập ra trang web tranh luận dân chủ phải khách quan, hay
thoát khỏi sự “bám lề”, hay “sợ hãi” mới có thể đem đến không gian
tranh luận dân chủ. Tôi rất ngưỡng mộ những người như Giáo sư Huệ Chi
(trang web boxitvn.net), nhà văn Nguyễn Quang Lập (blog Quê Choa) hay TS
Nguyễn Xuân Diện (blog xuandienhannom.blogspot.com)… bởi họ đã làm được
điều đó.
Tôi từng biết GS Nguyễn Đăng Dung như
một trong những người đầu ngành Luật Hiến pháp của Việt Nam. Nhưng dịp
sửa Hiến pháp này tôi cũng chưa thấy giới Luật gia nói chung, hay GS nói
riêng có những đóng góp mang tính đột phá (ví dụ như bài viết của GS
Hoàng Xuân Phú), để người dân ủng hộ và dõi theo.
Là trí thức, theo tôi họ có nghĩa vụ
tiên phong trong việc tìm ra con đường phát triển giúp những người không
biết, và cho đến thời điểm này thì tôi đang thất vọng về điều đó ở nước
ta.
Nhân tiện, tôi cũng muốn chia sẻ với trang Cùng viết Hiến pháp là trọng tâm nhất của lần sửa đổi Hiến pháp lần này là “Điều 4″.
Điều 4 mới là vấn đề của mọi vấn đề
Nguyễn Long Việt
Bởi việc quy định Điều 4, rõ ràng là những
cuộc bầu cử dân chủ đều vô nghĩa. 14 người trong Bộ chính trị quyết
định mọi chức danh, từ việc bao nhiêu ghế, ông nào trúng đại biểu quốc
hội, ông nào làm thủ tướng… từ đó sinh ra độc tài, lạm quyền, tham
nhũng…
Người có quyền chỉ “sợ trách nhiệm trước
người giao quyền cho họ”, và việc nếu họ có được quyền lực không phải từ
dân thông qua các cuộc bầu cử dân chủ thì họ cũng sẽ không chịu trách
nhiệm trước dân, mà họ chỉ chịu trách nhiệm trước Đảng (theo nghĩa hẹp
hơn, trước những người lãnh đạo Đảng đã “cơ cấu” cho họ).
Việc không quy định Điều 4 là việc trước
sau gì cũng phải làm, là xu thế chung của bất kì quốc gia dân chủ nào.
Không quy định Điều 4, xây dựng chế độ chính trị đa đảng không phải là
xóa bỏ sự hoạt động của Đảng Cộng sản VN, mà khi ấy những người có tài,
có đức trong xã hội sẽ trở thành những lãnh đạo do dân chọn. Và đó cũng
là con đường mà những người có tài, tâm trong Đảng ra tranh cử. Chứ
không phải như việc có vị trí nhờ “cơ cấu” của Đảng thông qua “mối quan
hệ, chạy chức chạy quyền” như hiện nay.
Nếu không xóa bỏ được Điều 4, mặc nhiên
Đảng CS lãnh đạo thì những góp ý sửa đổi Hiến pháp chỉ như là thay chút
nước sơn, chứ không phải là thay cái cột sống.
Chỉ khi đa đảng, mọi vấn đề mới được tháo
gỡ, nền tảng đầu tiên để xây dựng nhà nước. Thông qua các cuộc cạnh
tranh chính trị, người dân sẽ chọn những người, Đảng có chính sách tốt
cho dân tộc, nhân dân. Các đảng phái đối lập tồn tại để phản biện lại
các chính sách của đảng cầm quyền, và truyền tải tới người dân.
Hiện nay, những tiếng nói phản biện chỉ là
đơn lẻ, không đủ sức mạnh để phản biện chính sách do vậy thường bị
chính quyền sách nhiễu. Cái quan trọng nhất của phản biện là trong Nghị
trường, quyết định tới việc thông qua chính sách. Chỉ khi đó, các quyền
lợi của các đảng “chạm với quyền lợi của dân” mới được thông qua.
Bởi khi đó, nhân dân sẽ giám sát những
cuộc phản biện minh bạch, và người Nghị sỹ sẽ phải chịu trách nhiệm với
dân thông qua cơ chế giải trình.
Ở Việt Nam hiện nay, tuy có 3 hệ thống cơ
quan quyền lực đại diện cho 3 nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhưng 3 quyền này lại tập trung trong tay Đảng, mà cao nhất là Bộ
chính trị. Các lãnh đạo chủ chốt của 3 cơ quan đều là Đảng viên.
Người làm thẩm phán ở các quốc gia dân
chủ không được tham gia đảng phái nào, thì ở Việt Nam, tuy không quy
định trong văn bản luật nhưng trên thực tế họ thương là đảng viên. Và cơ
chế thủ trưởng chế vẫn còn tồn tại thông qua cách thức bổ nhiệm thẩm
phán. Như vậy, Đảng là người “vừa đá bóng, vừa cầm còi”.
Trong khi ở các nước dân chủ, thẩm phán có
quyền ra lệnh trát bắt các chính trị gia nếu vi phạm pháp luật, thì ở
Việt Nam, giả sử phát hiện ra một lãnh đạo sai phạm (lãnh đạo là Đảng
viên), các cơ quan tư pháp bị tước mất quyền tiến hành các thủ tục tố
tụng áp dụng đối với những người khác, mà thay vào đó là việc Đảng tiến
hành các quy trình riêng của mình (như họp để kỷ luật…), từ đó sẽ sinh
ra bao che.
Ngoài ra, khi có ý kiến của Đảng thì các
cơ quan tư pháp (Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án) họp “liên
ngành” để thực hiện ý kiến chỉ đạo của Đảng. Nếu lãnh đạo Đảng cho phép
tiến hành tố tụng, hay đưa ra phương hướng xử lý thì các cơ quan này sẽ
phải theo. Và phiên tòa chỉ như những “vở kịch”.
Cái khó cho Việt Nam?
Nhiều người cứ nhầm tưởng hoặc “xuyên tạc” rằng Singapore cũng giống Việt Nam, một Đảng lãnh đạo.
Ở Singapore, Đảng Nhân dân hành động
(People’s Action Party) được quyền lãnh đạo nhờ nhân dân bầu ra từ cuộc
bầu cử dân chủ (chiến thắng trong các nhiệm kỳ, từ 1963 nhờ các chính
sách) chứ không phải là do Đảng, hay Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính
trị quyết định như ở Việt Nam. Cũng giống như trong gia đình đông con,
thằng A được quyền quản lý gia đình bởi nó tài năng, chính sách tốt, vì
lợi ích chung, chứ không phải là nhà có con một như Việt Nam.
Ở Việt Nam, thành quả cách mạng có được
cũng nhờ đa đảng (Việt Nam đa đảng đến năm 1988), cho đến khi đó, những
người lãnh đạo luôn theo đuổi, hy sinh cho lý tưởng (mặc dù có không ít
sai lầm), chỉ đến khi Lê Duẩn chèn ép, và sau này Nguyễn Văn Linh dẹp bỏ
đa đảng thì chế độ một Đảng mới sinh ra độc tài, tham nhũng, lạm quyền.
Cũng như, trong thời kỳ đó, do hoàn cảnh chiến tranh nên mặc dù đa
đảng, nhưng vẫn chưa có dân chủ thực sự.
Và cái quan trọng nhất của chế độ đa đảng
là thẩm phán độc lập, không theo đảng phái nào. Một khi, kể cả Lý Hiển
Long phạm tội, tòa District cũng có thể ra trát bắt. Một điều khác biệt
với VN, quan tòa là đảng viên, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo tôi, đa đảng là vấn đề mấu chốt, quyết định sự lớn mạnh của quốc gia, chống lại độc tài. Đa đảng là điều kiện cần.
Một khi, chưa xuất hiện đa đảng thì sẽ
không có Aung San Suu Kyi, cũng khó xuất hiện Thein Sen như ở Myanmar để
tiến tới dân chủ. Bà Aung nếu ở VN, chỉ có thể là những cá nhân phản
biện nhỏ lẻ như Luật sư Lê Quốc Quân hay blogger Huỳnh Thục Vy mà thôi.
Mọi phản biện từ cá nhân nhỏ lẻ đều bị dập từ trứng nước.
Nguyễn Long Việt, PHD Candidate, Harvard Law School
Posted by basamvietnam on 02/02/2013
Tìm hiểu thêm tại đây
Copy từ: Huỳnh Ngọc Chênh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét