VRNs (29.01.2014)
– Melbourne, Úc Đại Lợi – Ngày 19.01.1974, lợi dụng Hoa Kỳ rút khỏi
miền Nam, Trung cộng cho tàu chiến tấn công và đổ bộ đánh chiếm quần đảo
Hoàng Sa. Từ đó, càng ngày họ càng trở nên hiếu chiến, từng bước lấn
chiếm các nơi khác và đơn phương xem Biển Đông là ao nhà. Thái độ hiếu
chiến đang dẫn đến chiến tranh.
Nhân 40
năm tưởng niệm các chiến sỹ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa anh dũng chống
trả quân Tàu. Bài viết này bình luận chiến tranh là thử thách và cơ hội
để chúng ta lấy lại Hòang Sa và có được tự do.
Vị Thế Chiến Lược
Việt Nam
nằm trên ngã ba đường giao thông quốc tế. Bờ biển Việt Nam một phía,
phía bên kia là Hòang Sa và Trường Sa, bao phủ biển Đông. Kiểm sóat được
hai quần đảo là kiểm sóat được biển Đông, và là kiểm sóat được tuyến
đường hàng hải quốc tế đang càng ngày càng trở nên quan trọng.
Chính vì
thế, từ ngàn xưa ông bà chúng ta đã cho hải quân ra vào canh giữ hai
quần đảo chiến lược này. Đến thời kỳ Pháp Thuộc, người Pháp tiếp tục
kiểm sóat trục lộ giao thông này.
Ngày
07.09.1951, tại hội nghị San Francisco Hoa Kỳ trước sự hiện diện của
phái đoàn gồm 51 quốc gia tham dự, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn
Hữu của Chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố: “Chúng tôi xác nhận
chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa”.
Trước năm
1975, Việt Nam Cộng Hòa là quốc gia nhỏ đang chiến tranh, vì vậy miền
Nam phải phụ thuộc vào chiến lược của Hoa Kỳ. Năm 1972, họ thay đổi
chiến lược bắt tay với Tàu. Năm 1973, họ ký Hiệp Định Đình Chiến Ba Lê,
rút quân khỏi miền Nam, cắt giảm viện trợ và gián tiếp bàn giao miền Nam
cho Khối Cộng sản.
Trong thế
nước nhỏ đang chiến tranh, khi quân Tàu xâm chiếm Hòang Sa, các binh sỹ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã nổ súng chiến đấu nhằm xác định chủ quyền
của Việt Nam Cộng Hòa trên những phần đất này.
Khi trận
Hải chiến Hoàng Sa còn đang diễn ra, ngày 19.01.1974, Bộ Ngoại giao Việt
Nam Cộng Hòa đã ra tuyên cáo lên án Trung Cộng xâm lược và khẳng định
chủ quyền trên quần đảo này: “… Các hành động quân sự của Trung Cộng là
hành vi xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, và một lần
nữa vạch trần chánh sách bành trướng đế quốc mà Trung Cộng liên tục theo
đuổi,…”
Tuyên Cáo
đưa ra nhận định: “Việc Trung Cộng ngày nay xâm phạm lãnh thổ Việt Nam
Cộng Hòa không những chỉ đe dọa chủ quyền và an ninh của Việt Nam Cộng
Hòa, mà còn là một hiểm họa đối với nền hòa bình và ổn cố của Đông Nam Á
và toàn thế giới.” Nhận định này ngày nay đã trở thành sự thực.
Chiến Lược Biển của Trung Cộng
Ba thập
niên vừa qua, Trung cộng áp dụng mô hình phát triển kinh tế dựa vào tài
nguyên thiên nhiên và lực lượng lao động rẻ, sản xuất các mặt hàng giản
đơn phục vụ xuất khẩu. Nền kinh tế từ đó bị lệ thuộc vào thị trường xuất
khẩu hàng hóa sang Âu Mỹ và nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ khắp nơi
trên thế giới.
Hải trình
xuyên qua Biển Đông trở thành con đường xuất nhập chủ yếu. Ước tính có
trên 80 phần trăm số hàng hóa xuất nhập đều đi qua tuyến đường này.
Chính vì thế họ càng ngày càng lộ rõ tham vọng chiếm đóng biển Đông.
Năm 1988
và 1989, khi Liên Sô sửa sọan rời khỏi Đông Dương, họ đã tấn công và
chiếm đóng một số nơi trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Năm 1995,
khi Hoa Kỳ rút khỏi những căn cứ tại Phi Luật Tân, Trung cộng bắt đầu sử
dụng quân sự tranh chấp bãi cạn Scarborough phía Tây Bắc nước này.
Tháng
11.2003, Hồ Cẩm Đào lên tiếng cảnh cáo mưu đồ của những cường quốc nhằm
kiểm soát và phong tỏa quyền đi lại của tàu bè Trung cộng qua lại eo
biển Malacca nối liền Ấn Độ Dương và Biển Đông. Hồ tuyên bố chủ quyền và
“lợi ích cốt lõi” Trung cộng tại Biển Đông, và đưa ra bản đồ có hình
chữ U xác định biên giới bao gồm tới 80 phần trăm Biển Đông. Gần 2000
cây số bờ biển Việt Nam bị nó che phủ và chữ U kéo dài xuống tận Nam
Dương, Mã Lai..
Với lập
luận: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi với các đảo ở Biển
Đông và vùng nước xung quanh, và được hưởng chủ quyền, quyền tài phán
với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển của nó”, họ tự cho phép
quyền bảo vệ an ninh quốc gia trên Biển Đông, quyền kiểm soát và khai
thác tài nguyên tự nhiên gồm nguồn lợi thủy sản, dầu, khí và khoáng sản ở
trên hoặc nằm dưới đáy biển.
Họ tuyên
bố có “toàn quyền” trên các quần đảo Hòang Sa và Trường Sa, và thành lập
Thành phố Tam Sa làm trung tâm kiểm sóat biển Đông. Họ tự đóng tiềm
thủy đỉnh nguyên tử, tầu đổ quân, xây dựng hàng không mẫu hạm, thử
nghiệm phản lực cơ tàng hình, cũng như cho xây dựng phi trường quân sự
trên quần đảo Hòang Sa và Trường Sa.
Từng bước
Trung cộng biến khu vực Biển Đông thành một khu vực do họ chiếm đóng. Họ
cắt dây cáp và gây hấn với các tàu thăm dò dầu khí trên thềm lục địa
Việt Nam. Ngày 22.07.2011, trong khi chiến hạm ISN Airavat của Ấn Độ
đang trên đường vào cảng Hải Phòng chỉ cách bờ biển Việt Nam 45 hải lý
(83km) thì bị cảnh cáo là “vi phạm hải phận Trung Quốc”.
Họ cho Tàu
chiến xâm phạm hải phận các quốc gia trong vùng. Họ cấm ngư dân đánh
cá, bắn vào tàu đánh cá và bắt bớ ngư phủ Phi Luật Tân và Việt Nam. Và
đặc biệt họ cho sử dụng hằng chục ngàn các đòan tàu đánh cá dàn trải
khắp biển Đông như một cách tuyên bố chủ quyền.
Sửa Soạn Chiến Tranh
Ngay sau
khi nắm quyền vào tháng 11.2012 Tập Cận Bình cho tăng cường quốc phòng
sửa sọan đương đầu với Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh. Hội nghị Trung ương
tháng 11.2013 quyết định thành lập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia do Tập Cận
Bình làm chủ tịch. Hội Đồng này bao gồm tất cả các lực lượng vũ trang
và tuyên truyền nhằm tham mưu cho đảng Cộng sản sửa sọan chiến tranh.
Một số
nguồn tin cho biết Bộ Quốc phòng Trung cộng đang thiết lập một cơ cấu
chỉ huy tác chiến tổng hợp sẵn sàng đáp ứng khi có chiến tranh. Họ xây
dựng các kho vũ khí công nghệ cao, vũ khí hạt nhân, tầu đổ bộ, ưu tiên
cho chiến tranh di động tổng hợp và tác chiến tấn công trên biển và trên
không.
Ngày
23.11.2013, Trung cộng ra thông báo thiết lập một vùng nhận dạng phòng
không trên biển Hoa Đông ở khu vực quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là
Điếu Ngư. Khu vực này thuộc Nhật Bản. Thông báo này ngay lập tức đã bị
Nhật bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Phi Luật Tân lên tiếng phản đối.
Cùng lúc
Trung cộng đơn phương quy định tàu cá và tàu khảo sát nước ngoài khi đi
vào vùng biển do tỉnh Hải Nam quản lý đều phải xin phép. Khu vực này bao
gồm Hòang Sa và Trường sa với diện tích lên đến 2 triệu cây số vuông,
với nhiều tuyến đường hàng hải, với nguồn hải sản nuôi sống hằng triệu
cư dân và một nguồn trữ lượng dầu khí vô cùng to lớn.
Đây là một
thách thức cho tòan thế giới vì quy định này đã vi phạm quyền tự do và
luật quốc tế về biển. Việt Nam, Phi Luật Tân, Nhật bản và Hoa Kỳ đã lên
tiếng phản đối quy định này. Cũng cần nhắc Phi Luật Tân đã chính thức
thách thức tuyên bố chủ quyền của Trung cộng bằng cách kiện ra tòa án
quốc tế.
Ngày16.01.2014,
Trung cộng xác nhận đã cho bay thử thành công thiết bị mang hỏa tiễn
siêu tốc với đầu đạn hạt nhân có khả năng xuyên thủng mọi hệ thống phòng
thủ hiện thời. Như vậy họ là quốc gia thứ hai chỉ sau Hoa Kỳ đã thử
nghiệm thành công lọai vũ khí siêu tốc. Trên lý thuyết lọai vũ khí này
nếu được mang ra sử dụng có thể chỉ mất 45 phút bay từ Bắc Kinh tới thủ
đô Washington.
Đồng thời,
Hải Quân Trung cộng không chỉ giới hạn tầm họat động trong vòng Biển
Đông, càng ngày họ càng gia tăng xuất hiện tại Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương. Cách hành xử thô bạo và bành trướng cả quân sự lẫn khu vực chiếm
đóng của Trung cộng đang gây quan tâm đến an ninh và nền hòa bình thế
giới.
Chiến Lược Biển của Hoa Kỳ.
Từ thời
lập quốc Hoa Kỳ vẫn chủ trương tự do thương mãi và tự do hàng hải. Để
bảo vệ quyền lợi và mở rộng tầm ảnh hưởng hàng hải, Hoa kỳ cho xây dựng
một lực lượng Hải Quân mạnh nhất thế giới về cả lượng lẫn phẩm.
Khả năng
của Hải Quân Hoa Kỳ hơn khả năng Hải Quân của tất cả các quốc gia Âu
Châu cộng lại và vượt xa khả năng của Hải Quân Trung cộng. Hải quân Hoa
kỳ không chỉ có khả năng chiến đấu trên biển còn khả năng và nhiều kinh
nghiệm tấn công từ biển vào lục địa.
Hoa Kỳ có
tất cả 11 Hạm Đội với hàng không mẫu hạm. Đệ Tam và Đệ Thất Hạm Đội họat
động trong khu vực Thái Bình Dương. Đệ Thất Hạm Đội còn được gọi là Hạm
Đội Thái Bình Dương. Lẽ đương nhiên Hoa Kỳ không thể để Trung Cộng gia
tăng vi phạm lợi ích quân sự, kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ tại biển
Đông.
Chiến Lược Quay Lại Á Châu
Tháng
02.2009, trong chuyến công du châu Á Ngọai trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton
nhấn mạnh lợi ích Hoa Kỳ đối với tự do hàng hải và đến việc mọi quốc
gia cần tôn trọng luật biển quốc tế. Bà cho biết chính phủ Hoa Kỳ sẵn
sàng hợp tác với các quốc gia Đông Nam Châu Á để thuyết phục Trung cộng
theo đường lối đa phương và hòa bình trong tranh chấp tại Biển Đông. Như
thế các quốc gia trong vùng sẽ tạo được tiếng nói chung đối thọai trong
hòa bình với Trung cộng.
Ngày
24.10.2010 tại Hội nghị Diễn đàn Khu vực Đông Nam Châu Á ở Hà Nội, Ngoại
trưởng Hillary Clinton tái xác định quyền lợi Hoa Kỳ tại Biển Đông, phủ
nhận tuyên bố chủ quyền của Trung cộng và cho biết Hoa Kỳ đã chuẩn bị
thúc đẩy các đàm phán đa phương nhằm giải quyết các tranh chấp chủ quyền
các quần đảo tại Biển Đông.
Ngày
22.07.2011, tại Hà Nội Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton kêu gọi các
bên tranh chấp ở Biển Đông đưa ra chứng cớ pháp lý cho tuyên bố chủ
quyền của mình. Bà Clinton cho rằng những tuyên bố chủ quyền của Trung
Quốc và một số quốc gia Đông Nam Châu Á phải phù hợp với Công ước Liên
hiệp quốc về Luật Biển năm 1982. Bà còn cho biết giải quyết tranh chấp
bằng đường lối hòa bình là phù hợp với quyền lợi của Hoa Kỳ.
Trong
nhiệm kỳ 1 của Tổng Thống Obama, đóng góp lớn nhất Ngọai trưởng Hillary
Clinton là chiến lược quay lại Á Châu. Một chiến lược bao gồm cả kinh
tế, giáo dục, ngọai giao, chính trị và quân sự.
Sang đến
nhiệm kỳ 2, mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ gặp nhiều khó khăn trong việc thông
qua ngân sách quốc gia, nhưng chiến lược quay lại Á Châu của Ngọai
Trưởng Hillary Clinton đã được lưỡng đảng Hoa Kỳ đồng thuận thông qua.
Chính phủ
Hoa Kỳ đã cho điều quân khỏi A Phú Hãn và Iraq, dành ưu tiên cho các
họat động quân sự tại Biển Đông. Họ khuyến khích các quốc gia trong vùng
gia nhập Hiệp Định Xuyên Thái Bình Dương (TTP) xây dựng một khu vực
kinh tế tự do bao trùm khu vực Thái Bình Dương. Họ cho tăng cường ngọai
giao và viện trợ. Và đặc biệt khuyến khích các quốc gia giải quyết các
tranh chấp bằng phương cách hòa bình như đàm phán đa phương, qua các
diễn đàn quốc tế hay đưa ra tòa án quốc tế phân xử.
Chiến lược
của Hoa Kỳ đã và đang bị thách thức bởi các hành động leo thang bạo lực
của nhà cầm quyền Bắc Kinh, các hành động dễ dàng dẫn đến chiến tranh.
Bắc Kinh Tứ Bề Thọ Địch
Giao
Thương Quốc Tế càng phát triển thì tuyến đường hàng hải qua Biển Đông
càng trở nên quan trọng cho việc phát triển kinh tế của các quốc gia có
bờ biển dọc theo biển Đông. Ngọai trừ Việt Nam và Bắc Hàn, các quốc gia
khác đều là các nước đồng minh với Hoa Kỳ. Nhiều quốc gia luôn sát cánh
với Hoa Kỳ trong mọi cuộc chiến và đều có những cam kết quân sự với Hoa
Kỳ. Việc Trung cộng gia tăng quân sự trực tiếp đe dọa và gây hấn các
quốc gia này chính là trực tiếp đe dọa đến quyền lợi của Hoa Kỳ.
Quan sát
phương cách hành xử hiếu chiến của Trung cộng, thế giới đang nhận ra
Trung cộng là mối đe dọa cho nền hòa bình biển Đông và Thế giới. Nhiều
quốc gia trên thế giới tìm cách gia tăng khả năng quân sự hay tìm cách
liên kết với Hoa Kỳ vừa để bảo vệ chính mình, vừa để cô lập Trung cộng.
Trung Hoa
không phải là một quốc gia thuần nhất. Nó bao gồm nhiều lãnh thổ đang bị
chiếm đóng, người dân các quốc gia Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ… đang
đứng lên giành lại độc lập. Người dân các sắc tộc khác cũng đang đứng
lên đòi hỏi một thể chế tự do, dân chủ và công bằng xã hội. Nhìn chung
nhà cầm quyền Bắc Kinh đang tứ bề thọ địch.
Khi nhà
cầm quyền Bắc Kinh gặp khó khăn thay vì tìm các giải pháp ôn hòa giải
quyết, họ lại trở nên hung tợn hơn, trở nên hiếu chiến hơn và dễ dàng
trở thành kẻ khai chiến.
Chiến Tranh! Chiến Tranh! Chiến Tranh!
Khi các giải pháp chính trị, giải pháp ngọai giao bất thành thì giải pháp quân sự ắt sẽ xẩy ra.
Trong một
cuộc họp báo ngày 09.01.2014, Phát ngôn Viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Jennifer Psaki cho biết: “Việc đưa ra các hạn chế đối với hoạt động ngư
nghiệp của các quốc gia khác tại các khu vực tranh chấp của Biển Đông là
hành động khiêu khích và có khả năng nguy hiểm. … tất cả các bên liên
quan cần tránh có các hành động đơn phương có thể làm gia tăng căng
thằng và cản trở khả năng giải quyết các khác biệt thông qua con đường
ngoại giao hay bằng các biện pháp hòa bình khác”.
Tính hiếu
chiến của Trung cộng đã tăng thêm mức độ nghiêm trọng: khiêu chiến. Giữa
tháng 12.2013 một tàu chiến Trung cộng đã tách khỏi nhóm tàu hộ tống
hàng không mẫu hạm Liêu Ninh. Chiếc tàu này cố tình tiến thẳng đến đâm
vào tuần dương hạm Hoa Kỳ USS Cowpens (CG-63). Buộc tuần dương hạm Hoa
Kỳ phải bẻ lái chuyển hướng nhằm tránh va chạm dễ dàng dẫn đến chiến
tranh. Hành động này đã bị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel
cho là: “nguy cơ đụng độ hoàn toàn có thể xẩy ra trong vùng Thái Bình
Dương.”
Khi Trung
cộng loan báo nới rộng khu vực phòng không trong vùng lãnh hải đang
tranh chấp tại biển Hoa Đông, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden tuyên bố:
“Thay mặt Tổng Thống Hoa Kỳ, tôi muốn khẳng định rõ ràng rằng chúng tôi
không công nhận khu phòng không này. Việc Trung Quốc tuyên bố khu phòng
không sẽ không mảy may ảnh hưởng đến các hoạt động của chúng tôi. Chúng
tôi cũng nhấn mạnh rõ ràng rằng Hoa Kỳ trông đợi Trung Cộng sẽ không có
hành động có thể làm tăng căng thẳng và làm nguy cơ căng thẳng leo
thang.”
Trong
phiên điều trần về biển Đông hôm thứ ba 14-1-2014, các nghị sỹ và dân
biểu đã chính thức lên tiếng Hoa Kỳ nhất định không để yên nếu Trung
Cộng sử dụng biện pháp áp đặt bằng sức mạnh để đòi hỏi chủ quyền trên
biển Đông.
Trên là
các dấu hiệu gần và rõ nhất chiến tranh sớm muộn sẽ xảy ra. Chiến tranh
sẽ không trực tiếp xẩy ra trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Chiến tranh sẽ giúp Hoa
Kỳ xây dựng lại uy tín và giữ vững danh hiệu cường quốc số 1 thế giới.
Chiến tranh sẽ giúp Hoa Kỳ bán vũ khí cho các quốc gia trong vùng. Chiến
tranh sẽ giúp nhân dân Hoa Kỳ đòan kết quên đi những khó khăn, những
bất đồng nội trị. Nhà cầm quyền Bắc Kinh là chủ nợ của Hoa Kỳ, các khỏan
nợ này sẽ được khấu trừ vào khỏan bồi hòan chiến phí tương lai.
Bắc Hàn là
một quốc gia cộng sản khác. Mới hôm qua thứ Tư 15.01.2014, phát ngôn
viên Bắc Hàn cảnh cáo bất kỳ cuộc tập trận quân sự Hoa Kỳ và Nam Hàn có
thể sẽ dẫn đến chiến tranh hạt nhân gây thiên tai và thảm họa ngoài sức
tưởng tượng.
Như vậy
chiến tranh trong vùng cũng sẽ là cơ hội để Hoa Kỳ xóa bỏ các thể chế
cộng sản cuối cùng. Đây chính là điều quan trọng nhất để Hoa Kỳ thực
hiện chiến lược tòan cầu mà họ luôn đeo đuổi: mang tự do dân chủ đến cho
mọi người trên khắp thế giới.
Nhìn chung
vì lợi ích ngắn hạn và dài hạn Hoa Kỳ sẽ không gây chiến, nhưng sẽ chủ
động trong chiến tranh. Thái độ nhường nhịn của Hoa Kỳ hiện này là để
được chính danh và được sự ủng hộ của các cường quốc Tây phương.
“Việt Nam không hai lòng với Trung Quốc.”
Trở lại
Việt Nam, ngày 17.12.2013 vừa qua, báo chí trong nước loan tin ông
Nguyễn Văn Thơ, đại sứ Việt Nam tại Trung Cộng, khi về nước tham dự Hội
nghị Ngọai Giao, đã tuyên bố: “Việt Nam không hai lòng với Trung Quốc”.
Một tuyên bố đã nói lên thực trạng Việt Nam.
Gần đây,
Hà Nội có 1 số phản ứng với Trung cộng là vì nguồn dầu thô hằng năm mang
về hằng chục tỷ Mỹ Kim đã bị Trung cộng ngăn chận khai thác. Thiếu
ngọai tệ thâu được từ dầu thô là thiếu tiền nuôi dưỡng các bộ máy
“Đảng”, bộ máy nhà nước, bộ máy công an,…
Trên thực
tế đảng Cộng sản Việt Nam luôn lệ thuộc vào tư tưởng, vào chính trị, vào
kinh tế Trung cộng, bởi thế họ khó có thể thay lòng đổi dạ. Chả thế bà
con ta mới có câu: “theo Tàu mất nước, theo Mỹ mất đảng”.
Thật vậy,
họ đã công khai cho phép quân đội, công an Tầu lập đồn xây lũy khắp nơi,
ngày 20.12.2013, Đài Á Châu Tự Do phải lên tiếng báo động: “…ngay trên
hai con đường có tên Hoàng Sa và Trường Sa chạy dọc theo bờ biển Đà
Nẵng, các biệt khu của người Tàu cùng với hàng trăm quán sá mang biển
hiệu Tàu mọc lên dày đặc”.
Mặc cho
Trung cộng đơn phương ra lệnh cấm đánh cá trên biển Đông, ảnh hưởng đến
đời sống của hằng triệu người sống ven biển. Mặc cho hải quân Tầu bắn
giết, bắt bớ ngư dân Việt Nam. Nhà cầm quyền cộng sản chỉ lên tiếng cho
có, chưa bao giờ có phản ứng để bảo vệ ngư dân. Họ đã để mất nhiều cơ
hội Quốc tế hoá Biển Đông và tình trạng Việt Nam mất Biển Đông càng ngày
trở nên trầm trọng hơn.
Việt Nam
vẫn là một quốc gia cộng sản và vẫn là một mối đe doạ cho nền hoà bình
thế giới. Các tài liệu công khai và chính thức của đảng Cộng sản Việt
Nam luôn một cách vu vơ coi các quốc gia cổ vũ tự do là các thế lực thù
địch và ngược lại Trung cộng là nước đồng chí anh em.
Khi chưa
có một Hiến Pháp Tự Do, một Quốc Hội Độc Lập, chưa có tự do bầu cử, chưa
có người cầm quyền chính danh, thì Trung cộng vẫn đứng trong hậu trường
thu xếp lèo lái giới cầm quyền cộng sản Việt Nam, để giới này thực thi
chiến lược bành trướng và bá quyền cho Trung Cộng.
Trong tình
hình hiện nay nếu chiến tranh xẩy đến đảng Cộng sản sẽ đứng về phía
Trung cộng. Họ không đứng về phía Hoa Kỳ, Đồng Minh và dân tộc Việt, vì
nếu thế họ sẽ phải thực tâm tôn trọng nhân quyền, thực thi dân chủ và
trao trả các quyền tự quyết cho dân tộc. Một chính phủ muốn được sự ủng
hộ và trở thành Đồng Minh với Hoa Kỳ thì chính phủ đó cần chính danh qua
các cuộc bầu cử tự do.
Ngược lại,
đại đa số dân Việt đang vận động để Việt Nam thoát khỏi kiếp chư hầu
Trung cộng. Giới luật gia trí thức vận động quốc tế hóa Biển Đông. Giới
báo chí mang thông tin, tạo quan tâm đến quần chúng đồng bào. Giới quân
đội đòi chuyên môn hóa, hiện đại hoá quân đội, để giữ nước, để bảo vệ
ngư dân không bị quân đội Trung cộng áp bức. Giới trí thức, sinh viên
thanh niên, xuống đường đòi trả lại Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam.
Phong Trào
đấu tranh giữ nước đã liên kết với Phong Trào đấu tranh chính trị đòi
tự do dân chủ. Nếu có chiến tranh chính nghĩa dân tộc sẽ là vũ khí sắc
bén nhất cho những người đấu tranh vận động tòan dân đứng lên vừa giữ
nước, vừa giành lại tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam.
Chiến
tranh sẽ kết thúc. Lực lượng Đồng Minh sẽ chiếm Hòang Sa và Trường Sa.
Và theo luật quốc tế sẽ trao trả cho chính phủ tự do đại diện cho tòan
dân.
Không ai
muốn chiến tranh. Nhưng rõ ràng chiến tranh vừa là một thách thức vừa là
một cơ hội để Việt Nam giành lại lãnh thổ đã bị hai đảng Cộng sản Việt
Tàu sử dụng quân sự chiếm đóng.
Thách thức
của các lực lượng đấu tranh dân chủ là làm sao chúng ta có thể thực
hiện được cả hai mục tiêu trong điều kiện và tình hình chuyển biến của
đất nước và quốc tế.
Muốn thực hiện được cả hai mục tiêu chúng ta phải chủ động liên kết hành động. Năm 2014 là năm của hành động.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
Copy từ: Truyền Thông Chúa Cứu Thế
.................
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét