Việc “thẩm phán bị đột quỵ sau khi giao ban” để phãi hoãn phiên tòa là sự hài hước, song điều này là có cơ sở theo hai khả năng sau đây:
- Có thể với bản chất của Tòa án độc tài, các vụ án chính trị đều là án bỏ túi, do vậy sau khi nhận bản án bỏ túi đối với Ls Lê Quốc Quân thẩm phán Lê Thị Hợp thấy rõ tội ác mình sắp nhúng tay vào đẩy một người công chính vô tội vào chốn lao tù là một sự ghê tởm và bất nhân. Hẳn nhiên kẻ gieo tội ác sẽ bị trừng trị, song kẻ nhúng tay vào tội ác thì cũngphải chịu trách nhiệm. Vì thế bà thẩm phán đã “bị đột quỵ” từ đó đến nay.
- Có thể tinh thần của người dân đến với phiên tòa, đã cho thấy tính chất phi lý và sự đê tiện, hèn hạ của nhà cầm quyền CSVN. Đặc biệt là trước những hoạt động ngoại giao của một số quan chức cộng sản đối với thế giới. Sự phản ứng mạnh mẽ bất ngờ khắp nơi đã khiến nhà cầm quyền CSVN “đột quỵ” ngay trước phiên tòa và phiên tòa phải hoãn lại đến nay.
Việc hoãn phiên tòa đã có quyết định xét xử sau 3 tháng là vi phạm pháp luật hiện hành, đồng thời phản ánh sự lúng túng, hoảng hốt và bất chính của nhà cầm quyền CSVN trong vụ án này.
Để quý vị độc giả hiểu thêm về bản chất vụ án chính trị mang danh trốn thuế như một cái cớ rất “ruồi bu” chúng tôi xin đưa một bản biện hộ của một luật sư về vụ án này/
Gửi Hội đồng xét xử,
Dư
luận từ nhiều tháng này rất quan tâm đến việc ông Lê Quốc Quân bị khởi
tố, bắt giam, điều tra và truy tố về tội “trốn thuế” theo Điều 161 của
Bộ luật Hình sự nước CHXHCH Việt Nam kể từ ngày 25/12/2012, và hôm nay
ngày 9/7/2013 bị xét xử về tội danh này. Không ai, kể cả tôi, nghĩ rằng
bản Cáo trạng số 170/CT-VKS-P1 ngày 9/4/2013 của Viện Kiểm sát Nhân dân
TP Hà Nội nêu xác đáng và chính đáng các chứng cứ pháp lý của cáo buộc
nhằm vào ông Quân. Ai cũng tin rằng với động cơ đằng sau cáo buộc phi
lý đó, chắc chắn ông Quân sẽ nhận một bản án nặng nề theo cách mà ông
Nguyễn Văn Hải (tức Điều Cày) đã gánh chịu từ năm 2008 tại Sài Gòn.
Tôi
cố gắng tin khác đi, vì trong tôi ngọn lửa niềm tin vào công lý vẫn le
lói với hy vọng nó còn tồn tại trên đất nước này. Vì phiên tòa là nơi
được mệnh danh “bảo vệ và mang lại công lý” cho mọi người bất phân biệt
sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và chính kiến, nên giờ đây tôi mạo muội đề
nghị vị đại diện Viện Kiểm sát, thực hiện quyền công tố, tỉnh táo rút
lại toàn bộ các cáo buộc phi lý đối với ông Lê Quốc Quân theo cáo trạng
nêu trên, và đề nghị các vị thẩm phán cầm cân nẩy mực can đảm tuyên bố
ông Quân hoàn toàn vô tội, và do vậy trả tự do ngay lập tức cho ông tại
phiên tòa này.
Đề
nghị của tôi dựa trên sự phân tích dưới đây đối với toàn bộ hồ sơ vụ án
mà chính quý Tòa đã cung cấp. Rất mong quý vị đại diện hệ thống tư
pháp của Việt Nam, ít nhất trong khuôn khổ phiên tòa ngày hôm nay, thành
tâm và công minh lắng nghe hầu có một phán quyết hợp lý và hợp tình.
- 1. Có thật ông Lê Quốc Quân “trốn thuế” và do đó phạm “tội trốn thuế”?
1.1Thế nào là hành vi “trốn thuế” và “tội trốn thuế”?
Điều
161 của Bộ luật Hình sự nhắc đến “tội trốn thuế” và hành vi “trốn
thuế”, nhưng tiếc thay không đưa ra bất kỳ định nghĩa hay quy định chi
tiết nào về các yếu tố cấu thành tội phạm của “tội trốn thuế” hay về các
dấu hiệu của một hành vi “trốn thuế”.
Nghị
định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 của Chính phủ “quy định về xử lý vi
phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế” cũng chỉ nhắc đến “vi phạm pháp luật về thuế”, chứ không trực tiếp
định nghĩa hay quy định chi tiết về các yếu tố cấu thành tội phạm của
“tội trốn thuế” theo Điều 161 của Bộ luật Hình sự hoặc cho thấy sự liên
quan giữa “vi phạm pháp luật về thuế” với Điều 161 này.
Vì
sự thiếu sót nêu trên của hệ thống luật pháp, Cơ quan Cảnh sát Điều tra
trong vụ án “Lê Quốc Quân” đã tùy tiện vận dụng Điều 161 và diễn giải
vô lối về hành vi “trốn thuế” và “tội trốn thuế” nhằm ngụy tạo chứng cứ
bằng phương cách “suy đoán có tội”, qua đó dựng lên một vụ án hình sự
hòng bỏ tù ông Lê Quốc Quân bằng mọi giá, đồng thời tìm cách tránh né
bản chất “chính trị” của sự tước đoạt tự do trắng trợn này, mà tôi sẽ
phân tích trong mục 2 dưới đây.
1.2 Quy trình khai nộp thuế thông thường tại Việt Nam như thế nào?
Theo
quy định về khai nộp thuế hiện hành tại Việt Nam căn cứ Thông tư số
60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính (hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Quản lý Thuế) và Thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày
26/12/2008 của Bộ Tài chính (hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thuế Doanh nghiệp và hướng dẫn thi hành Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày
11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Thuế Doanh nghiệp), các doanh nghiệp tự kê khai và tạm nộp thuế
theo định kỳ hàng quý và năm cho cơ quan thuế địa phương. Kết thúc mỗi
năm, cơ quan thuế tổng kết để báo cáo cơ quan cấp trên cùng ngành về
tình hình nộp thuế chung của các doanh nghiệp trong phạm vi địa bàn mình
quản lý.
Thông
thường, trong vòng ba đến năm năm sau đó, cơ quan thuế sẽ cử nhân viên
đến làm việc với từng doanh nghiệp theo lịch hẹn trước để “quyết toán
thuế” (một thuật ngữ thông dụng trong ngành thuế Việt Nam) đối với một
năm tài chính cụ thể mà doanh nghiệp đã tự kê khai và tự nộp. Việc
“quyết toán thuế” đó được thực hiện bằng cách xem xét sổ sách và chứng
từ mà doanh nghiệp xuất trình, trong đó chủ yếu đánh giá việc kê khai
những chi phí liên quan của doanh nghiệp hợp lý hay không, hầu làm cơ sở
xác định thu nhập tính thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp và xác
định thuế giá trị gia tăng mà doanh nghiệp có thể được hoàn lại.
Khuynh
hướng của cơ quan thuế khi đánh giá việc kê khai chi phí là loại ra
càng nhiều càng tốt những hóa đơn được lập không hợp lệ và những hóa đơn
tuy hợp lệ nhưng không hợp lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
từng doanh nghiệp cụ thể. Một khi chi phí không được chấp nhận, thu
nhập tính thuế đương nhiên sẽ tăng lên và thuế giá trị gia tăng đầu vào
được hoàn lại sẽ giảm xuống. Nói cách khác, nhà nước sẽ có lợi vì truy
thu thêm thuế thu nhập và không phải hoàn lại thuế giá trị gia tăng, mà
doanh nghiệp khi tự kê khai và tự nộp đã tính không đúng ý của cơ quan
thuế trong báo cáo nộp thuế của mình, chưa kể đến khoản lãi tính trên số
tiền “chậm nộp” mà cơ quan thuế yêu cầu doanh nghiệp phải nộp từ kết
quả loại bỏ chi phí này.
Khi
không chấp nhận các hóa đơn dùng để tính chi phí trong quá trình “quyết
toán thuế”, cơ quan thuế không vì thế cáo buộc doanh nghiệp “vi phạm
pháp luật về thuế” và tất nhiên càng không tùy tiện quy chụp “trốn thuế”
cho doanh nghiệp. Truy thu tiền thuế chưa nộp và yêu cầu nộp lãi trên
số tiền chậm nộp là cách xử lý thông thường của cơ quan thuế trong mọi
trường hợp như vậy.
Nghị
định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 quy định tại Khoản 1(i) Điều 14
rằng, trong số các “vi phạm pháp luật về thuế” có việc “sử dụng hoá đơn,
chứng từ bất hợp pháp để hạch toán khống giá trị hàng hoá, dịch vụ mua
vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế miễn, số
tiền thuế giảm, số tiền thuế được hoàn”. Nhưng Điều 14 cũng nêu rõ như
sau: “Các hành vi vi phạm quy định tại Điều này bị phát hiện trong thời
hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai
thuế, nhưng không làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được
hoàn, số thuế miễn, giảm thì chỉ bị xử phạt về hành vi phạm về thủ tục thuế”.
Tôi
sẽ chứng minh tại mục 1.4 dưới đây rằng ngay cả khi cơ quan thuế loại
bỏ và không chấp nhận các hóa đơn bị xem là bất hợp pháp, thì cũng không
làm giảm số tiền thuế mà Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam phải nộp.
Tất
nhiên, do luật pháp Việt Nam vốn dĩ mơ hồ, lại trao nhiều quyền hạn cho
các cơ quan nhà nước, nên quy trình khai nộp thuế nêu trên có thể bị
đảo lộn bởi sự can thiệp tùy ý bất chấp đạo lý từ phía công quyền một
khi người ta muốn khai tử bất kỳ doanh nghiệp nào mà người đứng đầu
không biết điều đối với chính quyền hoặc không biết chung chi theo nhu
cầu nhũng nhiễu của các quan chức ngành thuế.
1.3 Lập hợp đồng “khống” và sử dụng hóa đơn “khống” là “trốn thuế”?
Toàn
bộ lý lẽ và lập luận của Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Viện Kiểm sát, Cục
Thuế Hà Nội và cơ quan giám định của Bộ Tài chính trong vụ án “Lê Quốc
Quân” đều dựa trên cái gọi là hành vi lập hợp đồng “khống” và sử dụng
hóa đơn “khống”. Tiếc thay, Điều 161 như đã nói trên hoàn toàn không
quy định những hành vi như vậy là yếu tố cấu thành “tội trốn thuế”. Tôi
công khai thách thức vị đại diện Viện Kiểm sát nêu ra được câu chữ nào
trong Điều 161 trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến khái niệm “khống” như
vậy!
Ấy
thế mà trong vụ án này và lần đầu tiên trong lịch sử tư pháp Việt Nam,
khái niệm “khống” được sáng tạo ra để vin vào đó người ta chụp mũ “trốn
thuế” cho những ai không thể bị bắt giam vì những nguyên cớ luật định
khác. Một bộ máy nhân lực được vận hành với phí tổn có thể lên đến hàng
chục tỷ bạc, lao vào làm việc hơn một năm trời, hết người này đến người
nọ, hết mưu này đến kế nọ, hết trò này đến trò nọ, chỉ để tìm ra một
bằng chứng về việc trốn thuế vài trăm triệu đồng chẳng bõ, nhằm mục đích
duy nhất là tống giam kẻ mà chính quyền này không thiện cảm.
Cần
lưu ý, mọi kết luận của các cơ quan tham gia tố tụng nói trên nhằm
chứng minh cho sự tồn tại của cái gọi là “khống” đều chỉ dựa trên kết
quả xét hỏi một vài nhân chứng hoặc người có liên quan đến Công ty TNHH
Giải Pháp Việt Nam mà thôi. Điều cần nói ở đây là không thể loại trừ
khả năng trấn áp và đe dọa về tinh thần có thể có của Cơ quan Cảnh sát
Điều tra đối với những người đã cung cấp “lời khai” mơ hồ, một chiều và
không đáng tin ấy. Vậy mà, những lời khai xuất hiện trong bối cảnh như
vậy đã trở thành chứng cứ chính yếu buộc tội ông Lê Quốc Quân. Ai có
thể tin?
Lẽ
ra trong quy trình khai nộp thuế của các doanh nghiệp tại Việt Nam như
đã nêu tại mục 1.2 trên đây, nếu cơ quan thuế không chấp nhận các chi
phí mà Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam tự khai để rồi tự nộp thuế cho
các năm 2010 và 2011, thì một cách bình thường cơ quan thuế sẽ truy thu
tiền thuế chưa nộp và yêu cầu nộp lãi trên số tiền chậm nộp sau khi
chính cơ quan thuế thực hiện công việc “quyết toán thuế” mà thông thường
phải vài năm sau khi doanh nghiệp này tự khai và tự nộp.
Có
một chi tiết mà tôi xin quý Tòa cần lưu ý, rằng trong khi Chi cục Thuế
Quận Cầu Giấy chưa từng “quyết toán thuế” đối với Công ty TNHH Giải Pháp
Việt Nam theo quy trình nêu trên để quyết định chấp nhận hay không các
chi phí mà công ty đã kê khai thông qua các hóa đơn đã xuất trình, thì
cơ quan an ninh đã “nhanh nhẹn” và “mẫn cán” đến mức từ cuối năm 2011,
Phòng An ninh Kinh tế (PA 81) đã yêu cầu Cục thuế Hà Nội thanh tra thuế
của hai doanh nghiệp có liên quan đến ông Lê Quốc Quân là Công ty TNHH
Thông Tin Tín Nhiệm và Xếp hạng doanh nghiệp và Công ty TNHH Giải Pháp
Việt Nam với lý do buồn cười là “để phục vụ cho công tác đảm bảo An ninh kinh tế trên địa bàn TP Hà Nội” và lời nhắn gửi đáng lưu tâm rằng “kính mong các đồng chí quan tâm giúp đỡ sớm” (xem Công văn số 737/CV-CAHN-PA 81 ngày 26/12/2011 do Phòng An ninh Kinh tế gửi Cục thuế Hà Nội tại Bút lục số 0186).
Xin
mở và đóng ngoặc tại đây, rằng tôi bỗng dưng chạnh lòng ao ước phải chi
trong các vụ án động trời “Vinashin” và “Vinalines”, người ta cũng
“nhanh nhẹn” và “mẫn cán” một nửa như thế, ắt hẳn số tiền thất thoát
khổng lồ ấy đã được thu hồi hết từ lâu và “an ninh kinh tế” của đất nước
này chẳng có gì đáng lo ngại như ngày hôm nay cả (!).
Chúng
ta phải hiểu sự “nhanh nhẹn” và “mẫn cán” này như thế nào đây khi chưa
đầy một năm kể từ ngày Phòng An ninh Kinh tế (PA 81) yêu cầu Cục thuế Hà
Nội thanh tra thuế, một vụ án “trốn thuế” đã được dựng lên, mà trong đó
cách thức thu thập và phân tích “chứng cứ” rất đáng nghi ngờ như tôi sẽ
phân tích dưới đây?
Trở
lại vấn đề, việc sáng tạo và sử dụng khái niệm “khống” để kết luận các
hợp đồng và hóa đơn của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam là bất hợp pháp
rõ ràng là hành động diễn giải luật pháp tùy tiện theo hướng “suy đoán
có tội”, vì như đã nói không một từ, câu hay dòng nào trong Điều 161 nêu
rõ hay ngụ ý về một “cơ sở pháp lý” như vậy nhằm cáo buộc “trốn thuế”.
Thật ra, chính cách thức ngụy tạo chứng cứ đó mới đáng gọi là “khống”
vì trên thực tế nó là sự quy chụp vô căn cứ.
Như
vậy, thay vì đơn giản loại bỏ các hóa đơn không hợp lệ và hợp lý, việc
áp dụng khái niệm “khống” từ nay sẽ đặt tất cả các doanh nghiệp và doanh
nhân ở đất nước này vào tình trạng rủi ro vì lưỡi gươm Damocles “trốn
thuế” luôn thường trực treo trên đầu họ. Lúc đó, muốn bắt ai, lưỡi gươm
đó chỉ cần hạ xuống do không doanh nghiệp nào không có ít nhất một hóa
đơn “khống”. Thưa quý Tòa, tôi mạo muội khẳng định rằng mọi hóa đơn mà
các doanh nghiệp của chúng ta hằng ngày vẫn chi trả cho các buổi nhậu
nhẹt để o bế các quan chức ngành công an, thuế, hải quan, tòa án, v.v…
đều là các hóa đơn “khống” theo nghĩa đó.
1.4 Cách tính số tiền “trốn thuế” của cơ quan điều tra và cơ quan giám định tư pháp rất bất bình thường
Để
tỏ ra “khách quan” trong việc cáo buộc ông Lê Quốc Quân có hành vi
“trốn thuế”, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Thành phố Hà Nội đã yêu cầu Cục
Thuế Hà Nội và giám định viên tư pháp của Bộ Tài chính tiến hành giám
định các sổ sách, chứng từ và tài liệu thuế của Công ty TNHH Giải Pháp
Việt Nam (xem Công văn số 1132/CV-CSĐT- Đ9 ngày 4/2/2013 gửi Cục Thuế
Thành phố Hà Nội tại Bút lục số 0094 và Công văn số 1514/CV-PC46(Đ9)
ngày 6/3/2013 gửi Bộ Tài chính tại Bút lục số 0084).
Theo
tôi, cách tính số tiền “trốn thuế” của cơ quan điều tra và kết quả giám
định của các cơ quan giám định tư pháp, mà dựa vào đó ông Lê Quốc Quân
bị vu có hành vi “trốn thuế”, hoàn toàn có tính chất áp đặt nhằm đánh
tráo sự thật, bởi những lẽ sau:
(a)
Do cùng trong một bộ máy nhà nước và cùng được ngân sách chính quyền
chi trả mọi chi phí hoạt động và lương bổng, có cơ quan và quan chức
công quyền nào ở đất nước này độc lập và can đảm đến mức có thể không
thực hiện chỉ thị của Đảng Cộng Sản và guồng máy trấn áp của nó là công
an? Vậy, trước đơn đặt hàng của Bộ Công an và Cơ quan Cảnh sát Điều tra
Thành phố Hà Nội, liệu Cục Thuế Hà Nội và giám định viên tư pháp của Bộ
Tài chính có đủ trung thực và đạo đức cần thiết để thực hiện công việc
giám định và cung cấp một kết luận khách quan vốn ảnh hưởng quan trọng
đến “chứng cứ” trong vụ án “Lê Quốc Quân”?
Các
biên bản và kết luận giám định trong hồ sơ vụ án này thật ra chỉ là
những tài liệu trang trí và tô vẽ cho cái gọi là “tính khách quan” của
“chứng cứ phạm tội”. Dư luận nhân dân và giới trí thức, kể cả luật sư,
đều biết đó là màn kịch hài hước quen thuộc mà vị tổng đạo diễn của nó
là ai (!). Hầu như trong các vụ án liên quan đến những nhân vật bất
đồng chính kiến, dù trên danh nghĩa “an ninh quốc gia” hay “trốn thuế”,
người ta đều thấy lấp ló trò hề đó dưới sắc thái này hay sắc thái kia.
Tôi
thách thức vị đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố dũng cảm cho
trưng cầu giám định của một tổ chức chuyên nghiệp và độc lập với chính
quyền về toàn bộ tài liệu mà Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã thu thập,
chính đáng và không chính đáng, tại trụ sở Công ty TNHH Giải Pháp Việt
Nam. Tôi cũng đề nghị Viện Kiểm sát đánh giá lại toàn bộ các biên bản
ghi lời khai mà Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã lập khi xét hỏi nhân chứng
và người có liên quan nhằm xử lý hành động đe dọa, trấn áp và mớm cung
từ phía điều tra viên đối với họ. Những trò bẩn thỉu đó không được phép
có trong một nền tư pháp luôn tự xưng là lành mạnh và bảo vệ quyền con
người!
(b)
Khi trưng cầu giám định, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đặt trước một tiền
đề với Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính, rằng họ đã xác định Công ty TNHH
Giải Pháp Việt Nam sử dụng hóa đơn “khống” bất hợp pháp trong
các năm 2010 và 2011. Từ tiền đề như vậy, cả Cục Thuế Hà Nội và giám
định viên tư pháp của Bộ Tài chính đã nhanh nhẩu kết luận lần lượt như
sau:
“Hiện tại, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã có căn cứ xác định 61 số hóa đơn là bất hợp pháp, cụ thể như sau: […].
Như vậy, Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam đã có hành vi trốn thuế, gian lận thuế […]”
(Trích Công văn số 6576/CT-TTr1 ngày 13/3/2013 của Cục Thuế Hà Nội tại Bút lục số 0099)
Hoặc: “Hành
vi sử dụng bất hợp pháp hóa đơn của Công ty đã vi phạm quy định tại
Khoản 2 Điều 21 Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của Bộ Tài
chính, cụ thể:
“Hóa đơn có nội dung được ghi không có thực một phần hoặc toàn bộ”
“Sử
dụng hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ mà cơ quan thuế, cơ quan công an và
các cơ quan chức năng khác đã kết luận là sử dụng bất hợp pháp hóa đơn”
Từ những căn cứ trên Giám định viên xác định:
- Công
ty TNHH Giải Pháp Việt Nam đã có hành vi sử dụng bất hợp pháp hóa đơn,
hạch toán chi phí khống nhằm làm giảm số thuế TNDN (chú thích: thu nhập
doanh nghiệp) phải nộp năm 2010, 2011. […]
- Kết quả giám định: Tổng số thuế TNDN phải nộp là: 645.225.197 đồng.”
(Trích Kết luận Giám định Tư pháp ngày 22/3/2013 của Giám định viên tư pháp của Bộ Tài chính Vũ Tất Thắng tại Bút lục số 0087)
Thưa
quý Tòa, một cách công tâm, quý vị nghĩ rằng điều đó có thể gọi là
“giám định tư pháp” được chăng? Nó như một trò tung hứng giữa Cơ quan
Cảnh sát Điều tra với Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính. Thiết nghĩ,
trước một tiền đề võ đoán rằng Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam đã sử dụng hóa đơn bất hợp pháp,
thì đến một đứa trẻ con cũng có thể giở luật ra, chỉ tay vào câu viết
sẵn và kết luận “có trốn thuế”, cần chi đến đội ngũ chuyên gia “giám
định” màu mè ấy!
Đọc
hai bản kết luận giám định nêu trên, tôi có cảm giác Cơ quan Cảnh sát
Điều tra hoàn toàn có thể tự mình kết luận luôn rằng ông Lê Quốc Quân đã
trốn thuế, cần chi mượn đến miệng của Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính.
Tuy nhiên, để thiên hạ trông vào thấy cũng có vẻ “khách quan” và “vô
tư”, nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra buộc phải làm công việc trưng cầu
giám định tốn kém như vậy.
Lẽ
ra, điều cần giám định là có hay không việc sử dụng hóa đơn bất hợp
pháp, bởi đó mới là mấu chốt của vấn đề. Tất nhiên, gọi là “bất hợp
pháp” hay không, hẳn không phải đơn giản chỉ dựa trên lời khai của vài
ba nhân chứng và người có liên quan, bởi nếu không dư luận sẽ dị nghị về
khả năng ngụy tạo chứng cứ của điều tra viên bằng hành động đe dọa,
trấn áp và mớm cung mà tôi đã nêu ở trên.
(c)
Trong hai bản kết luận giám định của Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính,
người ta không thấy số tiền trốn thuế 645.225.197 đồng của hai năm 2010
và 2011 mà giám định viên kết luận, được tính toán dựa trên những con số
cụ thể nào và bằng các phép tính cộng, trừ, nhân, chia chi tiết nào.
Hai bản kết luận đó đều chỉ nêu vài con số tổng quát mà Cơ quan Cảnh sát
Điều tra đã liệt kê sẵn, chẳng hạn tổng giá trị của các hợp đồng
“khống” là 1.750.000.000 đồng và tổng giá trị của các hóa đơn “khống” là
830.900.790 đồng.
Phải
chăng các giám định viên của Cục Thuế Hà Nội và Bộ Tài chính chỉ đơn
giản sao chép lại con số 645.225.197 đồng mà Cơ quan Cảnh sát Điều tra
đã tính toán sẵn cho mình? Điều đó gọi là “giám định” sao? Hỏi vậy
thôi, chứ tôi hiểu ai là người “dám định” ở đây nếu không phải đó là Bộ
Công an (?!).
(d)
Mặt khác, xin nói về con số 645.225.197 đồng. Tôi làm đủ các phép tính
dựa trên những số liệu mà hồ sơ vụ án thể hiện, thì mới phát hiện rằng
con số này được tính như sau:
1.750.000.000 đồng + 830.900.790 đồng = 2.580.900.700 đồng
2.580.900.700 đồng X 25% = 645.225.197 đồng
Vậy,
25% được hiểu là thuế suất áp dụng để tính thuế thu nhập doanh nghiệp?
Nếu đúng vậy thì quả thật cách tính thuế này rất bất thường và hoàn
toàn có tính chất áp đặt nhằm đánh tráo sự thật. Kết luận Giám định Tư
pháp ngày 22/3/2013 của Giám định viên Vũ Tất Thắng (xem Bút lục số
0087) đã nêu cách tính thuế theo luật pháp hiện hành như sau:
Thuế TNDN = Thu nhập tính thuế X Thuế suất thuế TNDN
Thu nhập tính thuế = Thu nhập chịu thuế – (Thu nhập được miễn thuế + Các khoản lỗ được kết chuyển theo quy định)
Thu nhập chịu thuế = (Doanh thu – Chi phí được trừ) + Các khoản thu nhập khác
Như
vậy, để xác định thu nhập tính thuế, cần phải xác định trước tổng doanh
thu và toàn bộ chi phí hợp lệ của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam trong
hai năm 2010 và 2011. Số tiền 2.580.900.700 đồng chỉ là một phần của
doanh thu chung và do đó phải được nhập vào khối doanh thu chung của
công ty. Sau đó, lấy tổng doanh thu trừ đi toàn bộ chi phí hợp lệ nhằm
xác định thu nhập tính thuế. Một khi có thu nhập tính thuế bằng phương
pháp tính như vậy, ta mới nhân với thuế suất thuế TNDN là 25% để xác
định được thuế TNDN phải nộp.
Với
phương pháp tính toán mà Giám định viên Vũ Tất Thắng nêu ra, chúng tôi
đã tính toán lại số thuế TNDN của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam trong
hai năm 2010 và 2011 căn cứ trên số liệu thể hiện trong hồ sơ do quý Tòa
cung cấp, có tham chiếu con số 2.580.900.700 đồng cùng số tiền thuế mà
công ty đã nộp theo các hóa đơn và hợp đồng bị xem là “khống”. Kết quả
cho thấy có lẽ nhà nước phải mắc nợ Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam hơn
là cáo buộc họ “trốn thuế”, vì họ đã nộp dư tiền thuế trong hai năm 2010
và 2011 khi tự khai và tự nộp.
Câu
hỏi cần đặt ra là tại sao Cơ quan Cảnh sát Điều tra chỉ đơn giản dùng
thuế suất 25% áp vào số tiền 2.580.900.700 đồng, rồi vội vã kết luận ông
Lê Quốc Quân “trốn thuế” 645.225.197 đồng? Cách tính sai lệch cố tình
này của phía cơ quan công an đã bóp méo bức tranh nộp thuế nghiêm túc
của Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam, để từ đó vu oan cho ông Quân, rõ
ràng mang động cơ khác với cái gọi là “đảm bảo an ninh kinh tế” như
Phòng An ninh Kinh tế (PA 81) của Công an Hà Nội đã nêu trong Công văn
số 737/CV-CAHN-PA 81 ngày 26/12/2011 (xem Bút lục 0186) (!).
Đó
là lý do vì sao trong tất cả các biên bản làm việc với Cơ quan Cảnh sát
Điều tra, được ghi nhận trong hồ sơ do quý Tòa cung cấp, ông Lê Quốc
Quân đã luôn tuyên bố mình vô tội và xác định đây là một âm mưu chính
trị chống lại ông và gia đình do các hoạt động kêu gọi tôn trọng quyền
con người và bảo vệ chủ quyền đất nước của ông. Tuy nhiên, cơ quan chịu
trách nhiệm giám sát sự tuân thủ pháp luật trong toàn bộ tiến trình tố
tụng của một vụ án hình sự là Viện Kiểm sát TP Hà Nội đã làm ngơ trước
mọi lời kêu gọi điều tra động cơ mờ ám đó từ ông Quân lẫn từ các luật sư
đại diện cho ông trong thời gian qua. Tôi sẽ phân tích động cơ “chính
trị” của phía công an trong vụ án này tại mục 2 dưới đây.
(e)
Như vậy, ai cũng có thể dễ dàng nhận ra rằng việc cáo buộc phạm tội của
Cơ quan Cảnh sát Điều tra đối với ông Lê Quốc Quân không dựa trên chứng
cứ cụ thể và rõ ràng. Tất cả đều được dàn dựng một cách có chủ đích từ
ban đầu như thể nhằm thực hiện một “đơn đặt hàng” buộc tội ông Quân,
nhất là trong cách thức tiến hành giám định như tôi đã phân tích ở trên
và thủ tục xét hỏi nhân chứng và người có liên quan.
Toàn
bộ “chứng cứ” được tạo dựng từ sự suy đoán “có tội” và từ các lời khai
đơn thuần của các nhân viên Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam và các bên
liên quan khác trong những buổi làm việc không có sự chứng kiến của luật
sư, không có sự đối chất giữa họ và ông Lê Quốc Quân.
Khoản
1 Điều 138 của Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định rằng khi có sự mâu
thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì điều tra viên tiến
hành đối chất. Việc những người có liên quan khai nhận rằng anh Lê Quốc
Quân “lập hồ sơ khống và chỉ đạo về việc dùng hoá đơn thuế GTGT khống”
nhằm trốn thuế, mà dựa vào đó cơ quan điều tra đã cáo buộc anh Lê Quốc
Quân phạm tội, rõ ràng mâu thuẫn với các tuyên bố của anh Quân trong quá
trình xét hỏi. Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã không tiến hành đối chất
và làm ngơ trước mọi yêu cầu đối chất của anh Quân. Quả thật, hồ sơ vụ
án đã không đề cập gì đến bất kỳ buổi đối chất nào trong quá trình điều
tra xét hỏi. Đây rõ ràng là sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- 2. Vụ án “Lê Quốc Quân” là một vụ án có động cơ chính trị
Vụ
án “Lê Quốc Quân” tuy mang danh nghĩa “Trốn thuế” theo Điều 161 của Bộ
luật Hình sự, nhưng trên thực tế có tính chất chính trị, bởi những lý do
sau đây:
2.1 Sự tham gia của các điều tra viên thuộc Cơ quan An ninh Điều tra phải chăng là bình thường?
Các điều tra viên tham gia vụ án hầu hết từ Cơ quan An ninh Điều tra, chứ không phải Cơ quan Cảnh sát
Điều tra (xem ba Quyết định điều động cán bộ của Giám đốc Công an TP Hà
Nội ngày 18/10/2012 tại các Bút lục 0004, 0005 và 0006). Tội trốn thuế
theo Điều 161 thuộc nhóm “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” quy
định tại Chương XVI của Bộ luật Hình sự, thông thường do Cơ quan Cảnh
sát Điều tra tiến hành điều tra. Việc điều động nhân viên an ninh tham
gia điều tra cho thấy tính chất “chính trị” rõ ràng của vụ án này.
Chính Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội cũng đã hiểu vụ án này do Cơ quan An ninh, chứ không phải Cơ quan Cảnh sát,
chịu trách nhiệm điều tra, nên trong Quyết định số 73/QĐ-VKS(P1) ngày
25/2/2013 về việc gia hạn thời hạn điều tra vụ án hình sự, Viện Kiểm sát
Nhân dân TP Hà Nội đã ghi “nhầm” rằng Quyết định khởi tố vụ án hình sự
số 38/CQCSĐT ngày 25/12/2012 là của “Cơ quan An ninh Điều tra”
(xem Bút lục 0008). Đây là bằng chứng cho thấy trong suy nghĩ của nhà
cầm quyền bản chất của vụ án này là chính trị, chứ không phải kinh tế
thuần túy.
2.2 “Trốn thuế” thật ra chỉ là chiêu bài và sử dụng hợp đồng “khống” và hóa đơn “khống” chỉ là cớ để bắt giam
Vào
ngày 25/12/2012 Cơ quan cảnh sát điều tra (PC46) thuộc Công an TP Hà
Nội chính thức có Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 38/CQCSĐT (xem Bút
lục 0007), tức về mặt pháp lý kể từ ngày 25/12/2012 vụ án mới được bắt
đầu. Tuy nhiên, vụ án này được Ban Giám đốc Công an TP Hà Nội đặc biệt
quan tâm đến mức thành lập hẳn một “Ban chỉ đạo điều tra vụ án” theo
Quyết định số 572/QĐ-CAHN ngày 24/10/2012, tức hai tháng trước khi có vụ
án (!).
Đây
là điều bất thường đối với bất kỳ vụ án trốn thuế mang bản chất “kinh
tế” thuần túy nào. Nói cách khác, trong khi chưa có vụ án chính thức về
phương diện tố tụng hình sự, Công an TP Hà Nội đã chuẩn bị sẵn một “vụ
án” với những “chứng cứ” được tạo dựng để bắt giam ông Lê Quốc Quân.
Như
tôi đã trình bày ở trên, khi không thể bắt giam ông Lê Quốc Quân một
cách công khai vì lý do “an ninh quốc gia”, cơ quan công an phải dựng
lên một vụ án hình sự vì nguyên cớ khác. Ông Quân là một doanh nhân
đang điều hành Công ty TNHH Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng doanh nghiệp
và Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam, nên sử dụng chiêu bài “trốn thuế”
đương nhiên là sự lựa chọn thích hợp để hãm hại ông. Do vậy, từ một năm
trước đó, tức cuối năm 2011, vụ án “trốn thuế” đã được đạo diễn nhằm
tìm lý lẽ và lập luận chuẩn bị cho việc khởi tố.
Hợp
đồng “khống” và hóa đơn “khống” là mấu chốt để ghép vào quy định tại
Khoản 2 Điều 21 Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của Bộ Tài
chính: “Sử dụng hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ mà cơ quan thuế,
cơ quan công an và các cơ quan chức năng khác đã kết luận là sử dụng
bất hợp pháp hóa đơn.” Tuy nhiên, do không có chứng cứ khẳng định
các hợp đồng và hóa đơn mà Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam sử dụng là
bất hợp pháp, nên phía công an buộc phải ép nhân viên của công ty và
những bên có liên quan thừa nhận điều đó.
2.3 Cản
trở luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra và không cho gia đình thăm
gặp bị can phải chăng là điều bình thường đối với các tội “xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế” như trốn thuế?
Mặc
dù ông Lê Quốc Quân luôn yêu cầu sự tham gia của luật sư từ giai đoạn
khởi tố bị can, nhưng hầu như toàn bộ quá trình điều tra xét hỏi đã diễn
ra không có sự tham gia của luật sư. Theo Điều 58 của Bộ Luật Tố tụng
Hình sự, chỉ trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm
phạm an ninh quốc gia, người bào chữa mới tham gia tố tụng từ khi kết
thúc điều tra.
Việc
cản trở và gây khó khăn cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra xét
hỏi vụ án “Lê Quốc Quân” cho thấy cơ quan điều tra luôn xem vụ án này có
tính chất chính trị và liên quan đến “an ninh quốc gia”, hơn là mang
bản chất kinh tế như luật định.
Không
chỉ luật sư bị cản trở, mà việc thăm gặp bình thường của người nhà bị
can cũng bị cấm trong vụ án này. Trừ vụ án “Nguyễn Văn Hải” (tức Điếu
Cày) trước đây, chưa bao giờ các bị can đang bị điều tra về các tội “xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế” bị cấm gặp gia đình sau khi quá trình
điều tra đã kết thúc và vụ án chờ xét xử.
2.4 Các tài liệu nào mà cơ quan công an quan tâm khi khám xét nhà ông Lê Quốc Quân?
Tại
buổi khám xét nhà của ông Lê Quốc Quân, cơ quan điều tra đã tịch thu
một số sách và tài liệu riêng của anh và gia đình. Theo Điều 145 của Bộ
Luật Tố tụng Hình sự, khi khám xét điều tra viên chỉ tạm giữ đồ vật là
vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Trong Bảng
thống kê tài liệu thu giữ (xem Bút lục số 0046), hầu hết sách và tài
liệu bị tạm giữ đều có nội dung “nhạy cảm” về chính trị đối với nhà cầm
quyền mặc dù không liên quan đến vụ án “trốn thuế”.
Thay
vì hoàn trả lại cho ông Lê Quốc Quân và gia đình, cơ quan công an đã
tiếp tục giữ lại sau khi mở niêm phong đồ vật vào ngày 20/3/2013. Trong
Biên bản mở niêm phong lập cùng ngày, có đoạn ghi: “xét thấy một số đồ vật, tài liệu cần phải điều tra, xác minh làm rõ, nên CQĐT-Công an TP Hà Nội tiến hành thu giữ”. Như vậy, dường như cơ quan công an rất quan tâm các tài liệu về chính trị mà ông Quân lưu trữ.
* * * *
Kính
thưa quý Tòa, trên đây là phân tích và nhận định của tôi về vụ án “Lê
Quốc Quân”. Căn cứ Điều 161 của Bộ Luật Hình sự, không có bất kỳ chứng
cứ hoặc yếu tố nào xét về mặt pháp lý cho thấy ông Lê Quốc Quân phạm tội
“trốn thuế”. Nếu vị đại diện Viện Kiểm sát vẫn khăng khăng giữ nguyên
cáo buộc phi lý này, tôi đề nghị quý Tòa sáng suốt và công minh tuyên bố
ông Lê Quốc Quân hoàn toàn vô tội, và do vậy trả tự do ngay lập tức cho
ông tại phiên tòa này.
Tuy
nhiên, nếu quý Tòa vẫn muốn làm theo lệnh hoặc đơn đặt hàng của cơ quan
công an, thì tôi đề nghị quý Tòa hãy can đảm tuyên án ông Quân phạm một
tội nào đó, nếu có đủ chứng cứ, thuộc về “xâm phạm an ninh quốc gia”
hơn là phải nấp dưới danh nghĩa “trốn thuế” mà ai cũng biết là một trò
hề kiểu “hai bao cao su” trong vụ án “Cù Huy Hà Vũ”.
Nếu
hôm nay, ông Lê Quốc Quân vẫn bị tuyên phạm tội “trốn thuế”, thì thật
là thêm một ngày buồn đối với nhưng ai yêu chuộng công lý và lẽ phải ở
đất nước này. Riêng trong suy nghĩ của tôi, sau khi quý vị tuyên một
bản án như vậy và rời khỏi phòng xử án, quý vị đã góp tay viết thêm vào
trang sử điếm nhục của nền tư pháp Xã hội Chủ nghĩa hai chữ “đê hèn”
muôn đời không thể xóa được!
Trân trọng.
Luật sư
Copy từ: Nữ Vương Công Lý
..........................
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét