Tác giả: Michael Benge
4.5.2013
4.5.2013
Theo cuộc điều trần mới đây trước Uỷ ban
Đối ngoại Hạ viện Mỹ, Việt Nam hiện là chủ nhân đáng tự hào của danh
hiệu nức tiếng “Chính thể vi phạm nhân quyền tồi tệ nhất Đông Nam Á”.
Các công ty xuất khẩu lao động của nhà nước là những “đại gia” cung cấp
đàn ông, phụ nữ và trẻ em cho các thị trường chuyên về lao động cưỡng
bức và buôn bán tình dục, trong khi các quan chức chính phủ thì được lại
quả.
Những con số thống kê về tình trạng buôn
người ở Việt Nam khác biệt nhau rất nhiều, trong khi thông tin chuẩn
xác về quốc gia cộng sản này thì thật khó mà tìm. Bộ Công an Việt Nam
đưa ra con số chính thức 2.935 người Việt Nam là nạn nhân của nạn buôn
người từ năm 2004 đến 2009. Tuy nhiên, các tổ chức quốc tế lại báo cáo
một con số lớn hơn thế rất nhiều: hơn 400.000 nạn nhân kể từ năm 1990.
Thậm chí con số này cũng chỉ là tập hợp của những người được báo là nạn
nhân mà bỏ qua hàng chục ngàn vụ lạm dụng khác chưa được nhắc tới, vốn
diễn ra thầm lặng, đặc biệt là trong lực lượng lao động.
Xuất khẩu lao động không phải là điều gì
đó mới mẻ với Việt Nam. Sau khi những người cộng sản tiếp quản Miền Nam
năm 1975, hàng trăm ngàn lao động đã được gửi tới Liên Xô và các quốc
gia khối Đông Âu như một hình thức thanh toán món nợ chiến tranh. Nhiều
người lâm vào cảnh thất nghiệp, nợ nần và bị bỏ rơi. Việt Nam nhanh
chóng tiến từ chỗ cung cấp lao động cưỡng bức sang buôn bán phụ nữ và
trẻ em làm nô lệ tình dục.
Nô lệ tình dục với sự bảo trợ của nhà nước
Việt Nam là một nhà cung cấp hàng đầu
cho hoạt động bóc lột tình dục thương mại, cũng như lao động cưỡng bức –
một số người khởi đầu là lao động cuối cùng cũng lâm vào cảnh nô lệ
tình dục. Các cuộc hôn nhân gian dối hay bơm thổi là một phương pháp mà
qua đó phụ nữ Việt Nam bị bóc lột. Sự mê hoặc của cuộc hôn phối với một
người đàn ông ở một đất nước khá giả, cộng với khoản thanh toán hứa hẹn
lên tới 5.000USD (gấp mười lần mức lương bình quân hàng năm ở Việt Nam),
thường là một sự cám dỗ quá lớn đối với những người phụ nữ nông thôn
cùng gia đình nghèo đói của họ. Phụ nữ và trẻ em được chuyển tới
Campuchia, Trung Quốc, Lào, Thailand, Malaysia, Đài Loan, Ma Cao, Trung
Đông và Châu Âu. Đến lượt, trẻ em Campuchia lại được buôn bán sang các
trung tâm đô thị ở Việt Nam. Việt Nam ngày càng trở thành một điểm đến
của du lịch tình dục trẻ em, với những kẻ vi phạm đến từ Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Anh, Australia, Châu Âu và Mỹ. Phụ nữ cũng
được chuyên chở bằng tàu sang các quốc gia khác để sắm vai đẻ mướn. Một
số bị ép buộc sinh con cho những gia đình không thể sinh, trong khi số
khác lại bị bán con cho người nước ngoài làm con nuôi, chủ yếu ở các
quốc gia phương Tây.
Nước Nga: một dẫn chứng thích đáng
Mới đây, cô Danh Hui
đã đứng ra làm chứng về một băng nhóm chuyên buôn bán tình dục và cưỡng
đoạt đã dụ dỗ những phụ nữ trẻ của Việt Nam sang Nga với lời hứa hẹn về
công việc thu nhập cao (theo chuẩn mực Việt Nam) là làm phục vụ. Thay
vì thế, họ bị bán vào các nhà thổ ở Moscow. Hoạt động này được vận hành
bởi các công ty môi giới lao động do nhà nước bảo trợ, những tổ chức vẫn
lại quả cho các quan chức Việt Nam. Hộ chiếu của những phụ nữ trẻ này
bị tịch thu; họ chỉ nhận được một khoản thù lao ít ỏi, không được chăm
sóc y tế và không có cách nào để quay về nhà. Một số phụ nữ bị giam ở
Nga hơn bốn năm, và bị đánh đập dã man nếu họ tìm cách trốn khỏi nhà
thổ. Mặc dù bị giam giữ trái với nguyện vọng song họ vẫn phải trả tiền
thuê nhà và bị tính tiền thức ăn và quần áo.
Em gái của Danh, Bé Hương, là một trong
những nô lệ tình dục. Sau vài tháng, gia đình đói khổ của cô nhận được
một cuộc gọi yêu cầu trả tiền chi phí y tế. Họ cóp nhặt được 300USD và
gửi cho cô. Vài tuần sau cô gọi lại và nói rằng công ty môi giới việc
làm ở Việt Nam đã đồng ý cho cô quay về nhà song cô cần 2.000USD để mua
vé máy bay. Khoản tiền nhanh chóng được nâng lên 4.000USD rồi 6.000USD;
rõ ràng đây là một vụ cưỡng đoạt.
Tháng Hai năm nay, 13 tháng sau khi bị
bắt làm nô lệ, Bé Hương trốn thoát khỏi nhà thổ cùng với ba nạn nhân
khác. Cô vẫn kịp gọi điện cho ông Nguyễn Đông Triều, Tham tán Công sứ
của ĐSQ Việt Nam tại Moscow và cầu xin sự giúp đỡ. Ông ta nói với cô mại
dâm là bất hợp pháp ở Nga và bảo, “Ai đưa cô đến đây thì hãy yêu cầu họ
đưa cô về nhà.” Hai ngày sau, Bé Hương cùng ba nạn nhân khác bị bảo vệ
nhà thổ bắt trở lại, cả bốn cô bị đánh đập dã man. Về sau Bé Hương được
biết bà chủ nhà thổ ở Moscow kia là bạn tốt của ngài Tham tán Công sứ,
người đã phản bội các cô gái.
Khi cô Danh Hui biết được tình cảnh của
em gái, cô liên hệ với hai tổ chức phi chính phủ ở Mỹ, Boat People SOS
(Cứu trợ Thuyền nhân) và Coalition to Abolish Modern-Day Slavery in Asia
(Liên minh nhằm Xoá bỏ Nô lệ Hiện đại tại Châu Á), tổ chức đã giúp cô
liên lạc với Hạ nghị sỹ Al Green và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Nhờ nỗ lực của
họ và với sự hỗ trợ từ giới truyền thông, Bé Hương được đưa về Việt
Nam, nhưng không phải là không mất chi phí. Đầu tiên, cô bị bà chủ nhà
thổ – Thuý An – bắt gọi điện cho bố mẹ và đề nghị họ rút đơn khiếu nại
công ty môi giới việc làm mà họ gửi cho công an Việt Nam. Cô Danh Hui
còn phải gửi một lá thư xin lỗi cho bà chủ chứa vì đã vu khống bà ta
buôn bán nô lệ tình dục. Cuối cùng, cô cũng bị ép buộc phải viết một lá
thư gửi các quan chức Việt Nam ở Moscow để cám ơn họ vì đã giúp đỡ Bé
Hương hồi hương. Chỉ khi đó Bé Hương mới được rời khỏi nhà thổ.
Cuối cùng, Bé Hương được phép đến Đại sứ
quán Việt Nam; ở đây cô được một nhân viên tên là Kiên cho biết việc cô
được thả là có điều kiện. Cô phải viết một bức thư khẳng định những gì
cô từng nói với người thân về bà Thuý An là không chính xác, và một bức
thư khác cám ơn các quan chức ĐSQ cùng bà Thuý An vì đã giúp cô hồi
hương.
Dĩ nhiên, ĐSQ Việt Nam chẳng làm gì cả,
bà Thuý An cũng vậy, vì chỉ nhờ áp lực ngoại giao và truyền thông mà Bé
Hương mới được về nhà. Bằng cách gây áp lực liên tục, sáu nạn nhân khác
cuối cùng cũng được phóng thích và trở về Việt Nam. Tám người khác vẫn
bị bà Thuý An bắt làm nô lệ, với sự trợ giúp của ĐSQ Việt Nam tại
Moscow.
Buôn bán lao động
Việt Nam khởi sự hoạt động buôn bán lao
động bằng cách học hỏi sách lược của viên thống chế cộng sản Tito, người
coi việc tiến hành xuất khẩu lực lượng lao động dư thừa như một cái van
an toàn để giảm bớt sự chống đối trong giới trẻ Nam Tư. Tito là một nhà
độc tài cực đoan và tàn nhẫn (mặc dù khá nổi tiếng ở phương Tây), người
làm “tổng thống suốt đời” cho đến khi qua đời năm 1980.
Cộng sản Việt Nam hiện xuất khẩu một
phần lớn lực lượng lao động hòng dập tắt tình trạng bất ổn đang âm ỉ
trong nước cũng như để tăng thêm thu nhập; năm 2007, người Việt làm việc
ở nước ngoài gửi về nước khoảng 2 tỷ USD. Việt Nam có một lực lượng lao động trên 51,4 triệu công nhân, và 70% dân số
ở độ tuổi dưới 30. Bất chấp nạn buôn người, 12% – 10 triệu – trong số
lao động còn lại của Việt Nam vẫn thất nghiệp, theo số liệu của Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF).
Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu gửi
500.000 công nhân ra nước ngoài trong năm 2005, và con số này vẫn tăng
lên qua từng năm kể từ đó. Năm 2008, Việt Nam đạt được thoả thuận với
Qatar trong việc nâng số lượng công nhân gửi đến Trung Đông từ 10.000
người lên gấp mười lần con số ấy vào cuối năm 2010.
Nghệ thuật buôn bán
Nhiều công ty xuất khẩu lao động ở Việt
Nam nằm trong những tập đoàn buôn bán phức tạp và các băng nhóm bảo kê;
các quan chức chính phủ và các ngân hàng thường xuyên dính líu vào.
Những người nộp đơn bị đánh lừa thông qua hợp đồng, “hợp đồng nội”, vốn
mô tả loại công việc, điều kiện làm việc tốt, thu nhập cao; tuy nhiên,
họ có thể phải trả đến 10.000USD chỉ để được nộp đơn.
Những người nộp đơn thường được khuyến khích vay tiền, chẳng hạn như từ
Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT, để trả phí, và sử dụng tài sản của
cha mẹ làm thế chấp. Nếu khoản vay vẫn chưa đủ, bố mẹ họ phải cầm cố
hoặc bán các tài sản còn lại của mình.
Sau khi nộp phí đăng ký phi bồi hoàn,
các công nhân thường được trao hợp đồng thực sự để ký chỉ một vài ngày
trước khi đi. Hợp đồng này thường quy định những điều khoản khác với bản
hợp đồng gốc, sử dụng những thuật ngữ pháp lý mà họ không thể hiểu. Một
khi đặt chân đến điểm đến cuối cùng (vốn có thể khác với đất nước mà họ
đăng ký ban đầu), hộ chiếu và giấy tờ của công nhân bị tịch thu và họ
bị ép phải ký một hợp đồng khác, “hợp đồng ngoại”, bằng một thứ ngoại
ngữ mà họ không hề hiểu chút gì. Thế rồi họ nhận ra mình phải làm việc
nhiều giờ hơn, điều kiện làm việc không đáp ứng tiêu chuẩn, mức lương
thì ít hơn nhiều so với hứa hẹn, sự chăm sóc y tế hầu như không có.
Nhiều khi người công nhân không được thanh toán đầy đủ và bị giữ trong
tình trạng lệ thuộc vì nợ, trong khi bị ép buộc hàng tháng phải thanh
toán một khoản bắt buộc cho công ty xuất khẩu lao động. Kết quả là người
công nhân không thể trả hết khoản vay, không có tiền để về nhà, còn gia
đình họ thì mất đất đai hoặc các tài sản khác.
Các ĐSQ Việt Nam ở nước ngoài hầu như
không giúp đỡ gì cho những người bị bóc lột này. Trên thực tế, chính phủ
Việt Nam đã ban hành luật chống buôn bán người và thỉnh thoảng cũng
truy tố một vài vụ, song đó chỉ là màn trình diễn. Đó là chiêu bài hòng
đánh lừa Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ và các quốc gia tài trợ cả tin khác để họ
tin rằng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang giải quyết vấn đề. Trong
khi đó, hoạt động buôn bán lao động và tình dục vẫn tiếp diễn với sự
nhấm nháy của các quan chức nhận hối lộ. Tiện thể, quý vị có biết rằng ở
Việt Nam đưa tin về tham nhũng là trái pháp luật?
Và cuộc chơi vẫn cứ tiếp diễn…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét