Quân cảng Cam Ranh: Điều chưa được biết!
Ít người nhớ rằng, cách đây tròn 10 năm, ngày 4/5/2002, những người lính Nga cuối cùng đã bước chân lên tàu Xakhalin từ biệt căn cứ Cam Ranh sau gần 1/4 thế kỷ có mặt tại nơi này. Cam Ranh đã được gửi lại cho Việt Nam, như một căn cứ nền tảng để trở nên hùng mạnh. Và dường như cho đến tận bây giờ, phần đông trong số chúng ta không thực sự biết gì nhiều về căn cứ ấy.
1. Ngày 23/4/2012, khi ba chiến hạm Mỹ cập cảng Tiên
Sa, Đà Nẵng để bắt đầu hoạt động giao lưu, trao đổi hải quân "phi tác
chiến” với Việt Nam, một hãng thông tấn nước ngoài đã bình luận rằng,
nếu các chuyến ghé cảng này được nói một cách công khai, thì có một khía
cạnh hợp tác Mỹ – Việt khác ít được loan báo: Đó là chiến hạm Mỹ đã
được gửi đến sửa chữa, bảo trì tại các cảng Việt Nam. Tàu Hải quân Mỹ đã
có lần được gửi đến sửa chữa tại các xưởng đóng tàu Việt Nam. Gần đây
nhất, vào năm 2012, chiếc USNS Rappahannock (T-AO-204) đã có chuyến đến
bảo trì tại Nhà máy Đóng tàu Cam Ranh.
Một thông tin thú vị trong không khí biến động thời cuộc không ngừng
của Biển Đông. Cam Ranh đã âm thầm phát triển, trở thành một tổ hợp hải
quân và không quân hùng mạnh, với các trang bị phương tiện kỹ thuật hiện
đại có thể đánh trả mọi đe dọa chiến tranh với Việt Nam, như lời Trung
tướng, Viện sĩ A.V Phêđôrôvích nhận xét. Lời Trung tướng A.V Phêđôrôvích
hoàn toàn có cơ sở, bởi ông là một trong số những người Xôviết có mặt ở
Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ trước và ông không xa lạ gì với căn
cứ này.
Giới chuyên gia quân sự đã thừa nhận vị trí của Cam Ranh có tầm ảnh
hưởng to lớn tới bản đồ địa – chiến lược toàn cầu, cho dù họ có đứng ở
các chân trời quan điểm nào đi chăng nữa. Năm 1888, Hải hạm của Nga mang
tên "Tráng sĩ” trong chuyến đi vòng quanh thế giới đã cập cảng Cam
Ranh, sau đó, nơi đây đã trở thành quân cảng của các nước lớn thay nhau
đồn trú trong vòng gần 100 năm trở lại đây. Trong cuộc chiến Nga – Nhật
1905, hơn 100 chiến thuyền thuộc Hạm đội Thái Bình Dương số 2 của Hải
quân Nga Hoàng đã từng tập trung tại Cam Ranh.
Năm 1935, thực dân Pháp bắt đầu cho xây dựng căn cứ hải quân tại Cam
Ranh. Năm 1940, Cam Ranh rơi vào tay Nhật Bản, trở thành bàn đạp để Nhật
Bản tiến đánh Malaysia và các quần đảo thuộc địa của Hà Lan (nay là
Indonesia).
Ngày 18/10/1946, Cam Ranh là nơi diễn ra cuộc hội kiến giữa Hồ Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp DArgenlieu. Cuộc gặp gỡ được tổ chức trên
thiết giáp hạm Suffren, có các vị chỉ huy hải, lục, không quân Pháp và
các nhà báo nước ngoài. Trong bữa tiệc trên chiến hạm Suffren, khi
DArgenlieu bóng gió nói: “Thưa ngài Chủ tịch, ngài thật đang bị đóng
trong cái khung”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mỉm cười và trả lời: “Nhưng mà
ngài Đô đốc biết đấy, chính bức tranh làm nên giá trị cái khung”.
DArgenlieu lại nói: “Chủ tịch thật quen với biển cả, có lẽ xin tặng
Người danh hiệu “Người thủy thủ nhỏ” như quân đội Pháp đã quý mến tặng
Napoleon cái tên “Người đội trưởng nhỏ!”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đáp lại:
“Phải, người thủy thủ nhỏ của Hải quân Việt Nam”.
Từ năm 1965 đến 1972, Mỹ đã xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự
khổng lồ được coi là “bất khả xâm phạm” để làm cứ điểm tiếp liệu và khí
tài quân sự cho chiến tranh, đồng thời khống chế hành lang phía tây Thái
Bình Dương.
Vào năm 1969, Lyndon B. Jhonson đã đến thị sát căn cứ này, và đó là
chuyến thăm đầu tiên của một Tổng thống Mỹ khi tới Việt Nam. Lúc đó, căn
cứ không quân của Mỹ ở vịnh Cam Ranh rất lớn, bao gồm hai sân bay cho
máy bay phản lực và một sân bay cho máy bay trực thăng, mỗi sân bay có
sức chứa hơn 100 máy bay. Người Mỹ còn tiến hành khoét núi Cam Ranh, xây
dựng kho chứa máy bay trong lòng núi, nâng cấp đường băng lớn có thể
cho máy bay ném bom chiến lược B52 cất và hạ cánh. Vào lúc cao điểm, sân
bay quân sự Cam Ranh có tần suất hạ cánh và cất cánh cao nhất thế giới.
Năm 1972, người Mỹ trao lại căn cứ này cho quân đội Sài Gòn và 3 năm
sau quân đội nhân dân Việt Nam đã giải phóng Cam Ranh. Khi tiếp quản,
Cam Ranh đã bị phá hủy hoàn toàn các bến neo tàu, đường sá, sân bay, hệ
thống đường dây tải điện cũng như các khu nhà ở.
2. Chuẩn đô đốc E.I Prokôpievich, người cuối cùng lên
cầu tàu thủy Xakhalin-9 rời Việt Nam năm 2002 trong cương vị Chỉ huy
trưởng Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 của Cam Ranh nhận định, căn cứ
quân sự trước đây của Mỹ trên bán đảo Cam Ranh – Khánh Hòa đã thu hút sự
chú ý Liên Xôviết bằng chính vị trí địa lý của nó, xét về mọi phương
diện thì hoàn toàn ưu việt cho việc triển khai một căn cứ hải quân. Nó
cho phép khống chế các eo biển Malaysia và Philippines, có thể tiến hành
trinh sát điện tử Biển Đông, biển Philippines, Đông Hải, thậm chí tới
tận khu vực vịnh Pécxích hay vùng bắc Ấn Độ Dương. Bán đảo Cam Ranh bọc
trong mình hai vịnh Bình Ba và Cam Ranh, nơi không chịu ảnh hưởng của
các hiện tượng thời tiết, có độ lớn và sâu để có thể neo đậu mọi loại
chiến hạm và tàu hộ tống, kể cả tàu sân bay.
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, Hải quân Liên Xô đã vươn ra biển lớn,
bắt đầu tiến hành trực ban chiến đấu trên các đại dương. Tàu chiến, tàu
ngầm, máy bay hải quân được triển khai trên các đại dương nhằm mục đích
bình ổn cục diện chung. Việc mở rộng quy mô cũng như vùng hoạt động của
tàu thuyền và không quân trên biển yêu cầu phải có mạng lưới hậu cần kỹ
thuật hải quân rộng khắp. Vì không có căn cứ quân sự ở nước ngoài nên
Liên Xô đã xây dựng trạm cung ứng vật tư kỹ thuật trên lãnh thổ các nước
có quan hệ thân thiện, đương nhiên Cam Ranh là một điểm sáng tô son.
Cuối năm 1978, nhóm sĩ quan đại diện cho các tổng cục của Bộ Tư lệnh Hải
quân và của Hạm đội Thái Bình Dương đáp máy bay sang Việt Nam để ngày
30/12 đã thỏa thuận xong và ký biên bản ghi nhớ làm cơ sở đàm phán xây
dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật.
Ngày 2/5/1979, Chính phủ LB CHXHCN Xôviết và Chính phủ nước CHXHCN Việt
Nam đã ký hiệp định về việc sử dụng Cam Ranh làm Trạm cung ứng vật tư
kỹ thuật cho Hạm đội Thái Bình Dương của quân đội Liên Xô – trong 25
năm. Ngay ngày hôm đó, thi hành lệnh của Bộ tổng tham mưu các lực lượng
vũ trang Liên Xô và Chỉ thị số 13/1/0143 của Cục Tham mưu hạm đội Thái
Bình Dương ngày 28/8/1980 đã thành lập Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật
trên bán đảo Cam Ranh mang phiên hiệu đơn vị 31350.
Theo quy định trong Hiệp định, tại quân cảng Cam Ranh cùng lúc có thể
tập trung từ 8-10 tàu chiến Liên Xô, 4-8 tàu ngầm có khu neo nổi và tối
đa 6 tàu hộ tống. Tại sân bay cùng lúc có thể tiếp nhận từ 14-16 máy bay
mang tên lửa, 6-9 máy bay trinh sát do thám và 2-3 máy bay vận tải. Tùy
theo tình hình chiến sự cụ thể, số lượng máy bay và tàu chiến có thể
tăng lên theo thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc phòng Liên Xô và Việt Nam.
Tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận Cam Ranh.
Mùa Hè năm đó, tàu ngầm nguyên tử phóng ngư lôi K-45 đã neo đậu tại Cam
Ranh, sau đó ít lâu, các máy bay hải quân của hạm đội Thái Bình Dương
bắt đầu hạ cánh.
Tháng 12/1979, Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô, Đô đốc X. Gorskốp tới Cam
Ranh và ông đã dành hẳn một ngày để quan sát vịnh biển này, giống y như
cách Tổng thống Mỹ Giônxơn đã tới để ngắm nhìn địa thế “sông núi nước
Nam” 10 năm về trước. Phân đội đầu tiên của Hạm đội Thái Bình Dương gồm
54 người đến đây tháng 4/1980 và tháng 8 năm đó quân số được bổ sung
thêm 24 người thuộc bộ phận thông tin liên lạc.
Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và Chính phủ Liên Xô đã giao cho
Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 nhiệm vụ làm giảm nhẹ đáng kể áp lực
cho Hạm đội Thái Bình Dương nói riêng và toàn bộ Hải quân Liên Xô nói
chung trong việc cung cấp những dự trữ cần thiết cho các chiến hạm và
tàu hộ tống đang làm nhiệm vụ tại Biển Đông trong tình hình chiến sự lúc
đó của khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Và Cam Ranh trở thành
căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài, căn cứ duy nhất bên
bờ Biển Đông, nơi cách cảng gần nhất của Nga 2.500 hải lý.
3. Từ mùa Thu năm 1983 đến tháng 8/1991, hải đoàn cơ
động số 17 triển khai tại Cam Ranh, từ tháng 8/1991 đến tháng 12/1991
được thay thế bằng hải đoàn cơ động số 8 và sau đó là hải đội tàu hỗn
hợp 119. Thời điểm năm 1986, trên sân bay triển khai trung đoàn không
quân hỗn hợp độc lập gồm 4 máy bay Tu-95, 4 chiếc Tu-142, phi đoàn máy
bay Tu-16 khoảng 20 chiếc các loại, phi đoàn MiC25 khoảng 15 chiếc, hai
máy bay vận tải An-24 và 3 máy bay lên thẳng Mi-8. Ngoài ra trung đoàn
còn quản lý và chỉ huy căn cứ chống tàu ngầm, tiểu đoàn tên lửa và tiểu
đoàn kỹ thuật.
Tháng 2/1984, theo đề nghị của phía ViệtNam, Chính phủ Xôviết đã quyết
định khôi phục và xây dựng thêm một loạt công trình tại căn cứ Cam Ranh.
Việc xây dựng Cam Ranh bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ hình thức
tự hạch toán kinh tế sang hình thức đấu thầu khoán gọn, bắt đầu giai
đoạn xây dựng kiên cố thay cho các kết cấu lắp ghép tạm thời. N.M
Zariphôvich – Phó tổng giám đốc Công ty Xây lắp Liên Xô tại Việt Nam
giai đoạn 1987-1989 đã kể lại trong cuốn “Liên Xô – một từ không bao giờ
quên” (Nguyễn Đình Long dịch) rằng, Cục kỹ thuật xây dựng nước ngoài
thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô, đơn vị có nhiều kinh nghiệm xây dựng các
công trình ở hơn 60 nước trên thế giới đảm nhiệm việc lựa chọn và đưa
chuyên gia đến Cam Ranh. Họ là những chuyên gia tài năng của các đơn vị
trong và ngoài quân đội được các tổ chức Đảng, Đoàn giới thiệu, được chở
sang bằng đường hàng không qua Mátxcơva hay Vlađivôxtốc theo hành trình
Mátxcơva – Tasken – Karachi (đôi khi là Bombay) – Kancútta – Hà Nội –
Cam Ranh.
4. Trên cơ sở Hiệp định ký giữa Liên Xô và Việt Nam
ngày 20/4/1984, hai bên đã ký hợp đồng xây dựng cụm đài rađar số ba, là
công trình viện trợ không hoàn lại. Tính chung từ năm 1984 đến năm 1987,
Tổng Công ty Xây lắp Liên Xô do E.X Bôprênhép làm Tổng giám đốc đã xây
dựng tổng cộng 28 nhà ở và công trình chuyên dụng các loại. Lúc đó tổng
số người Liên Xô sống trong khu quân sự là 6.000 người, kể cả công nhân
xây dựng.
Theo thỏa thuận trong mục 71 của Hiệp định ký ngày 20/4/1984, các công
trình xây dựng xong sẽ bàn giao cho phía Việt Nam sử dụng. Các hạng mục
đầu tiên được xây dựng xong từ tháng 12/1987, sau đó các chuyên gia Liên
Xô bắt đầu sử dụng theo hình thức thuê miễn phí.
Có thể thấy rằng, về cơ bản, các công trình được Liên Xô – Nga xây dựng
ở Cam Ranh bao gồm: Khu nhà ở của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật, trong
đó có chỉ huy sở đơn vị 31350 và doanh trại cho quân số biên chế của đơn
vị, nhà ăn 250 chỗ, lò bánh mỳ, tổ hợp tắm hơi – giặt là, CLB, trường
phổ thông số 183, 18 tòa nhà ở, kho tổng hợp lưu giữ và cấp phát vật tư,
đội xe (gồm cả xe chuyên dụng); Vùng bến nhỏ; Bể chứa ngầm thể tích
14.000m3 dùng để chứa nhiên liệu; hai hầm lạnh dung tích 270 tấn dùng để
chứa thực phẩm lưu trữ; 12 kho khung sắt dùng để chứa các loại vật tư
khác nhau; Hai bể lọc giếng khoan, một dùng cho sinh hoạt, một dùng cho
chiến hạm và các tàu hộ tống; Trạm phát điện trung tâm công suất
24.000kW cấp điện cho tất cả các công trình thuộc khu quân sự và của
Việt Nam trên bán đảo…
Khi từ biệt Cam Ranh, người Nga đã chở đi 588 người, 819 tấn hàng trong
đó có 50 chiếc ôtô và xe chuyên dụng, 190 tấn dầu diezel, 133 tấn dầu
mỡ các loại, vũ khí đạn dược cũng như tài liệu lưu trữ và tài liệu mật,
bằng cả đường hàng không và đường biển. Đồng thời, người Nga bàn giao
cho phía ViệtNam57 tòa nhà và công trình thuộc căn cứ, 85km đường dây
tải điện lưới, 62km đường điện cáp, 25km công trình ngầm, 250m cầu cảng,
sân bay và hệ thống quản lý kho.
Những người Nga đã sống và làm việc như thế tại Cam Ranh. U.X
Ivanôvích, Đại tá quân dự bị, cựu binh Cam Ranh kể lại rằng, cho đến tận
năm 1992, khi Liên Xô tan rã, thủ tục ra vào khu quân sự vẫn do phía
Việt Nam quy định. Theo thỏa thuận thì mỗi tháng chỉ cho phép 4 chuyến
xe đi ra ngoài theo kế hoạch định trước với số lượng người hạn chế, chủ
yếu là dành cho thủy thủ Hạm đội Thái Bình Dương. Còn đối với số nhân
viên kỹ thuật của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật thì do “nhiều yếu tố”
nên ra “vùng tự do” là vi phạm luật. Những người lính Nga đã ra đi,
nhưng những hình ảnh của họ còn đọng lại mãi trong lòng nhân dân Việt
Nam.
Năm 2007, Hội đồng Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro đã quyết định xây
dựng tượng đài những người lính Nga ở Cam Ranh và đó là tượng đài của
tình hữu nghị Việt – Nga.
Nguyễn Huy Minh
Copy từ: Petrotimes
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét