Các bằng cớ buộc tội không thuyết phục
RFI : Xin chào Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy. Thưa ông,
như ông biết, tại Việt Nam đang diễn ra phiên tòa sơ thẩm vụ án xét xử
các thành viên nhóm « Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn » (xin gọi tắt
là vụ Công án Bia Sơn). Xin ông cho biết nhận xét chung của ông về vụ án
này.Nguyễn Văn Huy : Nhận định chung của tôi về vụ án này là : Đây là một vụ án chính trị giả tạo, mang tính gượng ép. Vì những lý cớ, bằng cớ đưa ra không thuyết phục. Bởi vì, bắt và xét xử 22 người trong tổ chức gọi là « Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn », bản thân cái tên này mình thấy cũng hơi lủng củng, kỳ cục… Một tổ chức chính trị không thể nào mang một cái tên kỳ cục như thế này. Thứ hai là, những chứng cớ trong bản cáo trạng cho thấy là họ không có bằng chứng rõ ràng. Chẳng hạn như là : người lãnh đạo đã từng lập ra một giáo phái, có tên là « Ân Đàn Đại Đạo » năm 1969, sau đó là một lính bị đi cải tạo, rồi được trả tự do, rồi về thành lập một khu Du lịch – Sinh thái mang tên Đá Bia ở Phú Yên, rồi trong đó lập ra một tổ chức chống lại chính quyền, với những bằng chứng như là 19 kíp nổ, hay là những tài liệu về tuyên truyền, gồm những sách kinh của họ, và một số tiền mặt.
Tôi thấy rằng không đủ sức thuyết phục để tin rằng đây là một tổ chức phản động, chống lại chính quyền có tổ chức, một tổ chức chính trị thực sự. Là vì, nhìn thấy số tiền mà chính quyền tịch thu được, có khoảng 9.000 đến 10.000 đô la. Đây chỉ là số lượng tiền dùng cho một cơ quan. Bởi vì công ty sinh thái Đá Bia này là một công ty du lịch, thành ra số tiền này, theo tôi, chỉ là dùng để chi trả cho công trình này, hoặc là trả lương cho nhân viên. Đồng thời họ nói bắt được vũ khí là 19 kíp nổ. Điều này tôi thấy không đúng, là vì khi xây dựng công ty du lịch này, thì theo bản cáo trạng, những người này đã đục đá, khai tường, rồi khắc bia trên đá, thì những kíp nổ này là để phá đá, hoặc làm tượng, hoặc khai thác đá mà thôi. Vì kíp nổ chứ không phải là mìn. Kíp nổ chỉ là ngòi nổ làm bung nứt, thành ra không có thể tấn công được ai hết. Đồng thời họ bắt được 10 bộ điện đàm, thì tôi nghĩ rằng trong một công ty du lịch, với một diện tích trên 10 ha, thì những bộ điện đàm đó là để liên lạc với các nhân viên ở đầu này, đầu kia. Những liên lạc như vậy hết sức là bình thường, và không có gì mang tính truyền tin bí mật ra nước ngoài hết…
Tước đoạt tài sản của « Bia Sơn » : Một mục tiêu ẩn sau vụ án tạo dựng
Những chứng cứ đưa ra để tố cáo không có sức thuyết phục. Tôi nghĩ
rằng đây là một vụ giả tạo, gượng ép, mà thực tế, theo nhận xét riêng
của cá nhân tôi, thì đây là một hình thức để cướp đoạt tài sản của công
dân. Vì khi đọc bản cáo trạng với đơn của gia đình những người bị bắt,
thì họ lập ra công ty này là để thu hút du khách, thành ra công ty đang
thành hình, thì chính ông công an sẽ đi bắt những người này cũng đã tới
thăm, và ông tỉnh trưởng tỉnh Phú Yên cũng đã tới thăm, và khen những
người này lập ra công ty để thu hút du khách và phát triển địa phương.
Nhưng khi thấy công ty bắt đầu chạy được, tức là có người đến thăm, thì
họ (các lãnh đạo) tìm cách để chiếm khu này. Một thời gian sau chắc họ
sẽ bán lại cho một người nào đó trong số những người thân của họ. Thành
ra tôi cho rằng : đây là một vụ án cướp đoạt tài sản của công dân.RFI : Việc một vụ án kéo dài gần một năm rồi mà các bằng cớ không rõ ràng như vậy phải chăng khiến người ta hoàn toàn có lý khi nghi ngờ về tính công minh của việc xét xử ?
Nguyễn Văn Huy : Những chứng cứ kể trên hoàn toàn gượng ép nên không thể thuyết phục bất cứ ai. Một người không phải là luật sư như tôi có thể thấy đây là chuyện giả tạo rồi, thì với một luật sư, thì họ sẽ thấy là các tội danh cáo buộc như « phản động » hay « tuyên truyền lật đổ chế độ » là rất nghiêm trọng. Vì trong những cái bằng chứng này, không có một cái gì có thể nói rằng họ (nhóm Công án Bia Sơn), có thể đứng ra lập một tổ chức có quy mô để lật đổ chính quyền được. Nhất là với 22 người ở tại một vùng hẻo lánh, thôn quê. Thành ra tôi thấy rằng, chính quyền lo ngại không để luật sư bào chữa. Hoặc là những luật sư mà đọc cái này thì họ cũng không biết nói gì bây giờ, vì rõ ràng đây là một vụ án giả tạo, cố tình kết tội một số người vì một mục đích chính trị, thì đúng hơn là một vụ án hoàn toàn là « hình sự » hoặc « chính trị ».
Vì sao vụ « Công án Bia Sơn » ít được chú ý ?
RFI : Một vụ án với rất đông người bị bắt giam
truy tố, bắt đầu từ gần một năm nay, nhưng dường như ít được công chúng
để ý đến. Ông nghĩ như thế nào về nhận định này. Nguyễn Văn Huy : Mình thấy trong vụ này, mặc dầu số người bị bắt là 22, nhưng nhìn kỹ lại từng cá nhân, theo bản cáo trạng, thì gần như phần lớn là những người già cả, năm nay cũng khoảng từ 55 đến 65 tuổi, tức là những người dân bình thường, làm việc trong công ty. Với cả hơn nữa là, họ không phải là những người có thành tích nào đáng kể, ngoài cái thành tích có một quá khứ với chế độ Việt Nam Cộng hòa, hoặc là những người lính cũ, hoặc những người đã tùng sống với chế độ Việt Nam Cộng hòa. Còn những thanh niên sinh vào năm 1980, họ là những công nhân, những thanh niên, họ chỉ biết chế độ, thành ra họ không có gì có thể nói là chống chế độ hết, vì họ là những người dân chất phác hiền lành, ở những vùng đồng quê.
Khi vụ án được thông tin trên trang web của Thông Luận, có bài phản bác vụ án khiên cưỡng, Nhưng đối với các tổ chức, cơ quan khác, có thể người ta cho rằng vụ án này không quan trọng.
Có thể người ta nghĩ đây là "một trò cười", vì thật sự là, bắt những người tin « dị đoan », lập ra các hội kín để tu thiền, hoặc là để tuyên bố về những đạo lý xa vời, thì không phải là một vụ án chính trị. Trên khía cạnh nào đó, có thể nói rằng, đây là một vụ án về « dị đoan ».
Thành ra, người ta không chú ý là vì những lý do đó, chứ không phải là những người này không xứng đáng được bênh vực. Nhưng vì người ta thấy, cái tội mà họ bị bắt không quan trọng, thì nghĩ rằng, những người này chắc sẽ được thả ra, vì những người này đâu có làm gì quá đáng để mà bị phạt vạ.
Người Châu Á thường "tìm quên" trong tu tâm, thay vì chống bất công
RFI : Vụ án này có thể dẫn đến một liên tưởng
với một loạt hiện tượng khá phổ biến trong xã hội Việt Nam, đặc biệt ở
miền Nam Việt Nam trước ngày tái thống nhất, và nhất là vào đấu thế kỷ,
đó là các phong trào cứu thế, các tổ chức dựa vào đức độ, uy tín của các
vị được coi là các « Phật Thầy » hay các ông đạo là những người rất
được sùng kính. Xin ông cho biết ý kiến ông về chuyện này. Nguyễn Văn Huy : Cái hiện tượng siêu hình mang tính cách dị đoan này rất là phổ biến tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Trước đây, tôi thấy có rất nhiều hiện tượng. Ví dụ như, có người nói ở núi Lang Bian Đà Lạt có Phật Bà hiện xuống. Người ta thường xuyên lội bộ, leo núi lên thăm. Hoặc là, trong thời kỳ Pháp thuộc tại miền Tây Nam Bộ có các hiện tượng như đạo Cao Đài, Hòa Hảo… Ví dụ như người ta nói rằng : « Đức Phật Thầy Tây An » hiện xuống, Đức Phật giáng bút… để dạy cho dân chúng sống một cuộc đời tu hành cho xứng đáng, với hy vọng để có một cuộc sống tốt hơn.
Thực sự cái hiện tượng mê tín dị đoan của người Việt Nam nói chung, và người miền Nam nói riêng, là do sự thất vọng của họ trước cuộc sống hiện tại. Tức là, thay vì tập trung vào các cố gắng để thành công trong xã hội mới, thì nếu không được thì họ tự rút lui, cố thủ trong chính họ, để tìm cách quên đi cái hiện tại, với hy vọng cuộc sống tương lai khá hơn trong cõi khác. Thành ra, hiện tượng này là rất phổ biến trong các xã hội bị chèn ép rất nặng nề, mà người dân không có cách nào thoát khỏi cái hiện tại, thì họ tìm quên trong các niềm tin tưởng mang tính cách « mê tín dị đoan ».
Đây cũng là một đặc điểm của xã hội Á Châu, khác với xã hội Tây Phương và vùng Trung Đông. Vì người Tây Phương hay người Trung Đông, khi họ không đồng ý cái gì, thì họ xuống đường biểu tình, họ bạo động, họ phản kháng ngay tức khắc, họ chống lại cái chế độ đang hà hiếp họ. Trong khi đó, các xã hội Châu Á, đặc biệt là Trung Hoa và Ấn Độ, người ta tự rút lại vào nội tâm chính mình, để tìm sự giải thoát riêng cho cá nhân, thay vì tập trung mọi sức lực để chống lại chính quyền, hoặc chế độ mà ở đó họ đang bị đàn áp. Thành ra, tôi nghĩ rằng, đối với các chế độ độc tài, đây có thể là một sự may mắn cho họ. Tại vì, trong những hoạt động thế này, người dân, thay vì tập trung xuống đường hẹn nhau biểu tình chống lại chế độ, để đòi hỏi quyền lợi, thì lại rút lui vào trong bóng tối, để sống cuộc sống tâm linh của họ, để mà tìm quên qua một cõi khác, với hy vọng cuộc sống khá hơn. Ở đây, tôi nghĩ, người Châu Á, bị ảnh hưởng bởi triết lý Phật giáo hay đạo Bà-la-môn, hay những đạo có tính cách thiền của Ấn Độ, là họ tìm cách quên, với suy nghĩ là cái số phận của mình bây giờ bị khổ, thì mai mình sẽ khá hơn, bằng cách tu tâm. Thành ra họ tìm cách để hy vọng, với các tiên đoán, tiên tri, giáng bút, hoặc những lời sấm, để tin rằng, nếu chịu đựng hôm nay, thì ngày mai sẽ khá hơn.
Đây có thể nói là một cái may mắn cho các chế độ độc tài Châu Á. Vì những thái độ này nó không làm cho các chế độ này bị đe dọa, mà làm cho người dân bị động, cam chịu, tiếp tục sống dưới sự cai trị hà khắc của các chế độ độc tài Châu Á.
Trấn áp giáo phái nhỏ để răn đe dân quê
RFI : Ông có lưu ý đến điểm có lợi cho các chế
độ độc tài Châu Á nói chung, cụ thể là trong trường hợp Việt Nam, khi
người ta bị rơi vào trạng thái mê tín, lẩn tránh như vậy. Tuy nhiên,
cũng có những điểm, như cáo trạng của vụ án cho thấy, chính quyền cũng
lo ngại về các thông điệp mang tính tôn giáo của tổ chức này. Tổ chức
này quyết hướng đến một xã hội hoàn toàn mới. Cái thông điệp thay đổi
chế độ trên phương diện tinh thần, mà giáo phái này tuyên truyền, phải
chăng cũng chính là điều mà chính quyền lo ngại ? Nguyễn Văn Huy : Trong vụ án này, người ta thấy rằng chế độ rất lo sợ về sự kết hợp của dân chúng, để có một thái độ chung về chế độ. Tôi nghĩ rằng, đây là một điều lo ngại « chính đáng » đối với một chế độ độc tài. Chẳng hạn như là, họ rất gay gắt với những cuộc xuống đường đòi lại tài sản của những người Công giáo, hoặc những buổi đòi lại đất đai của những người Thượng Tin Lành trên Cao nguyên… Tôi thấy rằng, đây là một hiện tượng chính quyền lo ngại, vì đụng đến tôn giáo là họ đụng đến một tập thể rất đông người, và cái sự bênh vực của thế giới sẽ mạnh hơn.
Chính vì vậy mà, ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều cuộc xuống đường, như của người Công giáo trong những năm vừa qua, nhưng chính quyền chỉ dàn xếp rất dè dặt và chỉ bắt bớ một cách từ từ những người lãnh đạo sau đó, nhưng cũng không dám xử những bản án nặng nề, vì họ rất lo ngại, vì sự hậu thuẫn của các tôn giáo lớn, như đạo Công giáo, đạo Tin Lành, hoặc Phật giáo.
Thành ra, khi họ thấy một nhóm, một giáo phái nhỏ như hội Bia Sơn này, thì họ có thể đàn áp mạnh, để răn đe những dân chúng ở vùng quê, để không dám công khai chống đối chính quyền. Tại vì, nhìn chung trong xã hội Việt Nam hiện nay, ai cũng sẵn sàng chỉ trích chế độ một cách công khai trên đường phố. Nhưng đó là tại các thành phố lớn. Còn tại các vùng thôn quê, lãnh đạo các cấp địa phương rất lo ngại, vì người nông dân ở vùng thôn quê là họ thật thà, vì họ nghĩ gì là nói thẳng, và sẵn sàng nghe theo bất cứ ai. Có thể nói là, nếu bị « xúi giục » để chống lại thì họ sẵn sàng làm. Trong khi đó, ở thành phố, thì họ chỉ nói ngoài miệng, còn họ không làm gì hết.
Trấn áp dân chúng để trấn an nội bộ
RFI : Còn cụ thể trong vụ này, thì thực chất
hoạt động của tổ chức « Công án Bia sơn » không có ý nghĩa đe dọa như tư
pháp Việt Nam cố gắng chứng minh ? Nguyễn Văn Huy : Chính quyền cố tình làm lớn vụ này, thật sự là để trấn an nội bộ hơn là để răn dân chúng. Vì hiện nay, mình thấy rằng, cái « chủ nghĩa xã hội », « chủ nghĩa cộng sản » hiện nay không còn thuyết phục được ai hết. Hành động của các đảng viên, cán bộ Nhà nước không có gì là « xã hội chủ nghĩa » hoặc là « cộng sản » cả. Họ là những người sống một thứ tư bản rừng rú, một cách hết sức rõ ràng. Họ thích của cải tiền bạc, và sống phô trương sự giầu có một cách công khai. Nếu lôi kéo nội bộ vào chủ thuyết cộng sản, thì không thuyết phục được. Thành ra, nếu nội bộ không đoàn kết với nhau để bảo vệ chế độ, thì chắc chắn có thể bị những người dân bình thường như những người này đe dọa chỗ đứng của mình. Chính vì sự đe dọa như vậy, mà họ phải kết hợp với nhau thành một khối để đàn áp lại khối đa số kia, vốn đang có những suy nghĩ tiêu cực về chế độ.
Họ dùng yếu tố « sẽ bị lật đổ », « bị dân chúng thù ghét » hoặc « trả thù » để đoàn kết nội bộ, để tiếp tục cầm quyền trong những ngày tới.
RFI : Trước khi chia tay, ông có chia sẻ gì thêm với thính giả về chủ đề này ?
Nguyễn Văn Huy : Trong rất nhiều vụ án chính trị xảy ra trong năm vừa rồi, như cơ quan quan sát nhân quyền quốc tế đưa ra đó, thì những người bị bắt toàn là những người dân bình thường, những blogger, hay là những người chỉ trích chế độ một cách công khai trên một trang mạng. Tôi nghĩ rằng, đây là một hành động xúc phạm đến quyền tự do của người ta một cách trắng trợn. Tại vì, như tôi sống tại Pháp, nếu mà nước Pháp áp dụng luật lệ như Việt Nam hiện nay, thì phải đến 45 triệu người (Pháp) vào tù.
Vì cái quyền phát biểu là quyền tự do của con người, thành ra có phát biểu, thì mới không có các hành động. Còn nếu cấm người ta, thì sẽ có hành động trong đầu và hành động bí mật, thì cái đó rất là nguy hại, và có thể không kiểm soát được.
Thành ra, nếu chính quyền cộng sản Việt Nam biết nhìn xa, thì họ phải cởi trói dân chúng, tức là cho dân chúng tự do phát biểu một cách ôn hòa, để từ đó hiểu được, để giải tỏa được các bất mãn của dân chúng, để tiếp tục cầm quyền. Còn cứ đàn áp kiểu này, thì ngày nào đó, sự uất ức của dân chúng sẽ nổ cao lên, và lúc đó sẽ không kiểm soát được, vì người ta không còn gì để mất nữa, thì lúc đó, sự tồn tại của chế độ rất đáng lo ngại.
RFI xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huy đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn hôm nay.
Copy từ: RFI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét