Hậu họa "Giải pháp Đỏ" của Nguyễn Văn
Linh
Minh Diện
Ông Võ Trần Chí, nguyên Bí thư Thành ủy thành
phố Hồ Chí Minh, nói Nguyễn Văn Linh là người “Lội ngược dòng lịch
sử !”. Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng bản thân mình từng “Lên bờ xuống
ruộng!”. Nguyễn Văn Linh còn là người “bước lỡ nhịp” và tuổi ông
được gắn với một khái niệm đầy tai tiếng là “Giải pháp đỏ”.
Trong tiểu sử Nguyễn Văn Linh, ghi tên thật của
ông là Nguyễn Văn Cúc, sinh ngày 1-7-1915, tại xã Giai Phạm, huyện
Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ngày 1-5-1930, ông bị thực dân Pháp kết án tù
chung thân, đày ra Côn Đảo.
Hình như có sự nhầm lẫn năm sinh, hoặc năm ông
bị bắt đi tù, bởi điều luật của nước Pháp không xử tù tuổi vị thành
niên. Ví dụ ông Nguyễn Hữu Đang, sinh năm 1913, hoạt động trong tổ
chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, bị bắt 1930, năm 1931, khi
ra tòa đã 17 tuổi, vẫn được tha bổng vì còn vị thành niên. Nguyễn
Văn Linh khi ra tòa mới 14 tuổi 10 tháng, mà bị xử tù chung thân thì
vô lý?
Trong tiểu sử cùa Nguyễn Văn Linh, không ghi ông
học ở trường nào, trình độ văn hóa ra sao, hầu như cả cuộc đời ông
dấn thân hoạt động cách mạng, vào tù ra tội, gắn bó với phong trào
quần chúng, ở những nơi ác liệt.
Từ năm 1957 đến năm 1960, Nguyễn Văn Linh đã
từng làm Bí thư đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Năm 1961, ông lên làm
Bí thư Trung ương cục miền Nam, nhưng sau đó lại làm Phó cho tới năm
1961. Hình như từ những năm tháng đó, Nguyễn Văn Linh đã “lên bờ
xuống ruộng” rồi.
Ngày 10-4-1975, tại Trung ương cục miền Nam, Lê
Đức Thọ, từ Hà Nội vào công bố quyết định thành lập Bộ tư lệnh chiến
dịch Hồ Chí Minh, trao quyết định Bí thư đặc khu Sài Gòn-Gia Định
cho Võ Văn Kiệt, Lê Đức Thọ làm Phó bí thư. Nguyễn Văn Linh không
còn là Phó bí thư nữa, mà chỉ phụ trách mảng phong trào nổi dậy.
Cũng như các lần thay đổi trước, tổ chức không
nêu ra lý do, và Nguyễn Văn Linh cũng không băn khoăn, ông chấp hành
sự phân công một cách bình thản. Ông Võ Văn Kiệt và Võ Trần Chí cho
rằng, đó là một trong những phẩm chất đặc biệt của Nguyễn Văn Linh.
Năm 1976, Nguyễn Văn Linh lại được làm Bí thư
Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt làm Phó bí thư, kiêm Chủ
tịch Ủy ban nhận dân thành phố. Chưa đầy một năm, ngày 20 - 12-1976,
tại Đại hội đảng Toàn quốc lần thứ IV, Nguyễn Văn Linh được bầu tiếp
vào Uỷ viên Trung ương đảng, Uỷ viên Bộ chính trị, và Ban bí thư
Trung ương, nhưng phải nhường chức Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí
Minh cho ông Võ Văn Kiệt, Ủy viên dự khuyết Bộ chính trị.
Nguyễn Văn Linh được phân công làm Trưởng ban
Cải tạo xã hội chủ nghĩa, Trưởng ban Dân vận Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc VN, và Chủ tịch Liên đoàn lao động Việt Nam. Ba cái ghế
ấy không thể so sánh với cái ghế Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí
Minh.
Mặc dù ở vị trí hữu danh vô thực như vậy, Nguyễn
Văn Linh vẫn chưa được yên. Ông Lê Duẩn cho rằng Nguyễn Văn Linh quá
nhẹ tay trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhẽ ra phải xóa bỏ triệt để
tư sản lại kêu gọi họ tự cải tạo, hòa nhập vào xã hội mới, đem tài
lực góp phần xây dựng đất nước. Có lần Nguyễn Văn Linh nói với tôi
và Đình Khuyến, Trưởng cơ quan Thường trú Thông tấn xã Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh: “Anh Ba, cũng như chúng tôi đã từng được
những nhà tư sản Sài Gòn cưu mang trong thời kỳ hoạt động bí mật,
bây giờ biến họ thành nạn nhân sao đành!”.
Ý thức “đền ơn đáp nghĩa” của Nguyễn Văn Linh bị
Đỗ Mười cho là hữu khuynh, không “không Bôn-sê-vích”. Đã xảy ra
những cuộc tranh luận căng thẳng giữa Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt
và Đỗ Mười. Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt bảo vệ quan điểm cải tạo
từng bước, phân biệt đối tượng cụ thể, tận dụng kinh nghiệm thương
trường cùa giới công thương chế độ cũ, đặc biệt đối với những người
có công với cách mạng để xây dựng và phát triển thành phố. Đỗ Mười
bảo vệ quan điểm của Lê Duẩn, phải xóa sạch tư sản. Kết quả, đầu năm
1978, Nguyễn Văn Linh mất chức Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Cũng trong thời gian đó, có người bới lại chuyện
Nguyễn Văn Linh sang Campuchia tháng 6-1975, đi suốt 200 km, qua ba
3 tỉnh mà không phát hiện ra những thay đổi bất thường của Khmer đỏ,
để xảy ra những biến cố bất ngờ!
Đó là thời kỳ bĩ cực nhất của Nguyễn Văn Linh.
Ông đã xin rút ra khỏi Bộ chính trị vào cuối
nhiệm kỳ.
Vốn là người hết sức trầm tĩnh, kín đáo, nhưng
Nguyễn Văn Linh đã tâm sự với Võ Trần Chí : “Bởi vì mình thấy các
anh ấy không muốn mình ở đó nên xin rút!”.
Đỗ Mười mang tinh thần “Bôn-sê-vích” và “bàn tay
sắt” vào miền Nam đánh tư sản. Ông ta thực hiện y chang như những gì
mình từng làm ở Hải Phòng năm 1955, Hà Nội 1960, xóa sạch tàn dư tư
bản chủ nghĩa, đề xây đựng nền kinh tế xã hội, với tham vọng 15 năm
sau theo kịp Nhật Bản, như Tổng bí thư Lê Duẩn tuyên bố ngày
2-7-1976, tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa VI.
Thực tế ngược lại hoàn toàn với tham vọng ngông
cuống và siêu thực đó. Sau cải tạo thành phố Hồ Chí Minh kiệt quệ,
các nhà máy xí nghiệp không có nguyên liệu sản xuất phải đóng cửa,
hàng triệu công nhân thất nghiệp, hệ thống giao thông vận tải ngưng
trệ, lưu thông phâm phối tắc nghẽn, chợ búa gần như ngừng hoạt động,
đời sống của cán bộ nhân dân cùng cực. Tài liệu chính của Thành ủy
thành phố Hồ Chí Minh lúc đó công bố “Kế hoạch năm năm không đạt,
tăng trưởng âm, lạm phát phi mã, gần ba triệu dân thành phố thiếu
đói”.
Đỗ Mười đã đẩy Sài Gòn “tiến” kịp Hà Nội, biến
“Hòn ngọc Viễn Đông” thành “Hòn than bùn xó bếp” như cách nói cùa
nhà báo Ba Dân lúc đó. Thật mỉa mai khi các nhà khoa học nổi tiếng
như Chu Phạm Ngọc Sơn, Châu Tâm Luân, được động viên nghiên cứu
những công trình khoa học như “Bo bo giàu dinh dưỡng hơn gạo”,
“Khoai lang bổ hơn bột mì”, “Thành phần đạm trong rau muống”…
Trước kia Hà Nội có thơ “Gia công gai quy, lộn
cổ sơ mi, bơm ruột bút bi, vá ni lon rách”, bây giờ Sài Gòn cũng nổi
tiếng không kém với “Nuôi lợn trên gác, phục hồi bu gi, gia công cán
mì, tái chế dép xốp!”.
Trong cái thế gần chạm đáy kiệt quệ ấy, Nguyễn
Văn Linh được tái bổ nhiệm Bí thư Thành ủy, thay Võ Văn Kiệt ra
Trung ương làm Chủ nhiêm Ủy ban Kế hoạch nhà nước.
Phải nói, nếu hơn mười năm trước Kim Ngọc, Bí
thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú đã dũng cảm tìm lối thoát cho nông dân bằng
biện pháp “khoán chui”, thì những năm 1980-1981, Nguyễn Văn Linh đã
cứu công nhân và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bằng “xé rào” thoát
ra khỏi cơ chế quan liêu bao cấp.
Nguyễn Văn Linh đã tập hợp chung quanh mình một
đội ngũ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có khả năng móc nối
với tư bản nước ngoài để phá thế bị bao vây cô lập. Những công ty
Cholimex, Dereximco, Imexco lần lượt ra đời, trực tiếp làm ăn với
một số công ty Hồng Kong, Đài Loan, như Globai, Thai Hing Long, nhập
khẩu sợi dêt, xăng dầu, thuốc lá, men bia, xuất khẩu đậu phộng,
vừng, tôm khô, mực khô. Thực hiện việc trao đổi hàng hóa, khoán sản
phẩm, mua nguyên liệu bán sản phẩm v.v.
Nhờ việc xé rào này, 20.000 công nhân ngành dệt
có việc làm, ngành giao thông vận tải có xăng dầu hoạt động, và bộ
mặt Sài Gòn khởi sắc trở lại.
Cũng như “khoán chui” của Kim Ngọc, việc “xé
rào” cùa Nguyễn Văn Linh lọt tới “thiên đình” và cuồng phong nổi
lên, bắt đầu bằng cuộc ra quân của Bộ Tài chính.
Ngày 12- 3- 1982, đoàn thanh tra 28 thành viên
từ Hà Nội hùng hổ tiến vào công ty Direximco, tuyên bố nội bất xuất,
ngoại bất nhập. Hơn ba tháng liên tục, moi móc hết 50 mặt hàng và
đến từng đơn vị làm ăn với Dereximco, kiểm tra từng tờ hóa đơn. Ngày
25-6- 1983, Đoàn thanh tra kết luận việc xé rào của thành phố Hồ Chí
Minh vi phạm nghiêm trọng chủ trương đường lối của đàng, chính phủ,
chỉ có 1 công nhưng 7 tội, cần phải xử lý nghiêm khắc. Ông Đỗ Mười
lên tiếng: “ Làm bí thư Thành ủy mà để xảy ra như thế sao không từ
chức!”.
May cho Nguyễn Văn Linh, lần này Lê Duẩn không
vội nghe theo Đỗ Mười.
Tháng 3-1983, khi Lê Duẩn sang Liên Xô chữa
bệnh, các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công vào Đà Lạt
nghỉ mát. Tranh thủ điều kiện thuận lợi, Nguyễn Văn Linh, Mai Chí
Thọ và các lãnh đạo chủ chốt của thành phố Hồ Chí Minh khéo léo tổ
chức “Hội nghị Đà Lạt” thành công.
Nguyễn Văn Linh bố trí một số giám đốc nhà máy,
xí nghiệp làm ăn được nhờ xé rào như Nguyễn Thị Đồng, nhà máy đệt
Thành Công, Bùi Văn Long, Tổng công ty dệt may, Nguyễn Văn Thụy công
ty thuốc lá, lên Đà Lạt trực tiếp gặp ba nhà lãnh đạo đảng, nhà
nước.
Tôi còn nhớ buổi sáng hôm ấy ở khách sạn Palace,
ông Nguyễn Văn Linh nói với bà Nguyễn Thị Đồng và Bùi Văn Long:
“Phải khéo léo thuyết phục các anh! Mời bằng được anh Năm xuống thăm
cơ sở thì mới thấy hết cái việc mình làm!”.
Bà Nguyễn Thị Đồng với giọng nói rổn rảng, không
biết ngán ai bao giờ, bởi gia đình bà có tới hơn 10 người là bộ đội,
thương binh, liệt sỹ. Bà nói với ông Trường Chinh: “Anh hãy xuống
nhà máy gặp công nhân, người ta vừa mới sống lại đấy. Rồi anh để họ
sống thì để bóp chết thì bóp!?
Trước thái độ cương trực của bà Đồng, ông Trường
Chinh đã phải mỉm cười gật đầu, thực hiện một chuyến đi thực tế ý
nghĩa nhất, và đó là tiền đề cho sự thay đổi tư duy, từ nền kinh tế
kế hoạch sang kinh tế thị trường của ông.
Đại hội đảng toàn quốc lần VI, với bài diễn văn
đúc kết từ thực tế “xé rào” ở thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh
đã nhận được sự ủng hộ của tuyệt đại đa số đại biểu, ông trở thành
Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam. Có lẽ đây là một trường hợp
hãn hữu, một người được bầu làm Tổng bí thư của đảng, nhận được sự
đồng thuận của dân.
Sau đại hội đảng VI, Nguyễn Văn Linh đã tiến
hành nhiều cải cách quan trong. Ông chọn khâu lưu thông phân phối
làm đột phá khẩu đổi mới. Ông nói: “Giải quyết vấn đề phân phối lưu
thông vì nó là cái gốc liên quan đến quá trình sản xuất, tới tổng
thề cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân”.
Những chính sách nổi bật trong thời kỳ này là:
Tách tài chính ra khỏi ngân hàng. Lập kho bạc nhà nước. Bơm tiền lưu
thông. Xóa bỏ ngăn sông cấm chợ. Lấy khoán 100 làm cơ sở khoán 10,
giao quyền tự chủ cho nông dân.
Chỉ trong một thời gian ngắn đã kéo lạm phát từ
240% xuống 61%. Từ chỗ cả nước không đạt 21 triệu tấn lương thực,
phải nhập mỗi năm 500.000 tấn lương thực, năm 1989 đã dư 1 triệu tấn
gạo.
Về đối ngoại, Nguyễn Văn Linh muốn phá thế bao
vây của các nước phương Tây và Trung Quốc. Tại hội nghị Bộ chính trị
ngày 20 -5 -1988, đã ra Nghị quyết 13 về điều chỉnh đường lồi đối
ngoại, theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, giữ môi trường hòa
bình, phát triển kinh tế. Trả lời phòng vấn trên tờ Thời báo New
Yok, Nguyễn Văn Linh nói về mối quan hệ với Mỹ: “Việt Nam luôn luôn
muốn có quan hệ với nhân dân và chính phủ Mỹ. Chiến tranh kết thúc
15 năm rồi mà chưa có quan hệ bình thường là quá chậm. Việt Nam sẵn
sàng giải quyết mọi trở ngại trên con đường bình thường hóa quan hệ
với Mỹ”.
Ngoài việc đổi mới về kinh tế, và đổi mới về đối
ngoại, Nguyễn Văn Linh còn đổi mới về văn hóa xã hợi, dân sinh, dân
chủ. Chủ trương cởi trói cho văn nghệ sỹ nói riêng trí thức nói
chung, ông đã vén bức màn đen tối, minh oan cho những nạn nhân “Văn
nhân giai phẩm” và đã khích lệ giới cầm bút viết những tác phẩm chân
thực.
Ngày 25- 5-1987, Nguyễn Văn Linh cho ra đời mục
“Những việc cần làm ngay”, từ đó những bài viết của ông ký thê NVL
liên tục xuất hiện trên mặt báo. Ông nói: “Chống tiêu cực là đã
thành nhiệm vụ quan trọng, dọn đường cho việc thực hiện Nghị quyết
đại hội VI, và các Nghị quyết của đảng, nhằm đưa nước nhà ra khỏi
khó khăn đến ổn định tình hình mọi mặt, làm dân bớt khổ”. Ông yêu
cầu: “Nhà báo phải có tấm lòng cương trực, yêu người làm đúng, làm
tốt để ca ngợi, ghét kẻ làm xấu để lên án”. Nguyễn Văn Linh xác định
lấy báo chí làm vũ khí, nhà báo là lực lượng nòng cốt chống tiêu cực
tham những. Ông nói đánh giặc ngoại xâm chủ yếu bằng súng đạn, đánh
giặc nội xâm phài dùng vũ khí ngôn luận. Báo chí là sức mạnh, là thứ
bọn tiêu cực sợ nhất!”, Nguyễn Văn Linh chỉ thị tất cà các cơ quan
đảng, chính quyền phải trả lời chất vấn cùa báo chí, phải xử thật
nghiêm những trường hợp tham nhũng, ăn hối lộ, ức hiếp dân mà báo
chí đã nêu. Nhiều vụ án tưởng đã chìm vào quên lãng đã được đưa ra
xét xử.
Ông thường xuyên gặp gỡ anh em làm báo, ngoài
hành lang các hội nghị, hoặc kêu tới nhà ông uống cà phê, ăn sáng
nói chuyện. Ông không phân biệt báo lớn, báo nhỏ, báo đảng báo đoàn
thể, nhưng rất coi trọng những nhà báo viết bài trung thực, có sức
lan tỏa. Khi gặp chúng tôi, ông thường hỏi: “Dân đang nghĩ gì, đang
làm gì, và cần gì?”. Khi chúng tôi nói cho ông nghe những bức xúc
của dân ông hỏi: “Nếu dân nghĩ vậy thì mình làm sao?”.
Nguyễn Văn Linh tỏ thái độ đồng tình với Trần
Xuân Bách về cơ chế dân chủ và đổi mới chính trị. Có lần ông nói với
anh em báo chí: “Anh Trần Xuân Bách nói rất đúng. Dân chủ không phải
là ban ơn, là mở rộng dân chủ, mà đó là quyền của dân với tư cách
người làm chủ lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người
lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Dân chủ là khởi động trí tuệ
dân để tháo gỡ khó khăn đưa đất nước theo kịp thời đại!” .
Nửa đầu của nhiệm kỳ Tổng bí thư, Nguyễn Văn
Linh là một con người như vậy. Đất nước đổi mới từng ngày, nhà cừa
mọc lên khang trang, nụ cười xuất hiện trên môi người, Việt kiều về
quê rất đông, và hầu như không có những vụ khiếu kiện tập thể...
Nhưng nửa nhiêm kỳ sau ông làm cho mọi người
thất vọng.
Có thể nói cái mốc ấy bắt đầu từ Hội nghị Thành
Đô, Trung Quốc từ 3 đến 5-1990.
Đến bây giờ, dù những người tư liệu còn hạn chế,
nhưng nhìn lại một cách khách quan, vẫn vừa tiế , vừa buồn, vừa
trách Nguyễn Văn Linh.
Theo ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Bộ
Ngoại giao, ngày 29-8-1990, đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy, gặp
Nguyễn Văn Linh ở Hà Nội, chuyển thông điệp của Giang Trạch Dân,
Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc, và Lý Bằng, Thủ tướng Chính
phủ Trung Quốc, mời Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười, Phạm Văn Đồng sang
Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 30-9-1990 để hội đàm bí mật
về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hòa quan hệ hai nước.
Trương Đức Duy nói mập mờ rằng, Đặng Tiểu Bình
có thể gặp Phạm Văn Đồng, và lấy cớ Bắc Kinh đang tổ chứ Á vận hội
ASIAD, sợ lộ bí mật nên phải gặp nhau ở Thành Đô.
Đây là chuyện rất đột ngột, bởi mới 5 ngày
trước, Trung Quốc khăng khăng không muốn bàn chuyện bình thường hóa,
mà đòi phải giải quyết vấn đề Campuchia trước.
Tại sao bây giờ họ lại bàn vấn đề bình thường
hóa?
Ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng ngoại giao nhận
định: Sự thay đổi đột ngột của Trung Quốc là do họ cần thực hiện 4
hiện đại hóa, nhưng bị Mỹ, Nhật, Liên Xô và các nước cấm vận sau vụ
đàn áp Thiên An Môn, nên phải tìm cách thoát ra.
Bên cạnh đó, Trung Quốc thấy Mỹ, Nhật, đặc biệt
là các nước trong khồi ASEAN, tỏ thái độ thân thiện với Viêt Nam,
nên muốn phá ta.
Quan điểm của Nguyễn Văn Linh lại khác.
Ông triệu tập họp Bộ chính trị và nếu ý kiến:
“Tranh thủ Trung Quốc, hợp tác với Trung Quốc, để bảo vệ Xã hội chủ
nghĩa!”
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, đặc
biết là Rumani mà Nguyễn Văn Linh vừa thăm đã tác động rất lớn tới
ông, lảm cho ông mất bình tĩnh.
Mặc dù Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công, Trần Xuân
Bách can ngăn, nhưng Nguyễn Văn Linh không nghe, vẫn giữ quan điểm:
“Hợp tác với Trung Quốc, bảo vệ XHCN chống đế quốc!”. Cái con ngáo
ộp “Dien xbiến hòa bình” và ccủ cà rốt đỏ chót “16 chữ vàng”, “4
tốt” cũng được Trung Quốc đưa ra và mồi mớm tại Hội nghị Thành Đô.
Quan điểm của Nguyễn Văn Linh được Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Đào Duy
Tùng... ủng hộ.
Và thế là, ngày 2-9-1991, dù đang kỷ niệm Quốc
khánh lần thứ 45 năm, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng vẫn đi
Thành Đô, với sự tháp tùng của Hồng Hà, Chánh văn phòng Trung ương
đảng và Hoàng Bích Sơn, Thứ trưởng ngoại giao. Nguyễn Văn Linh không
cho Nguyễn Cơ Thạch đi, vì Nguyễn Cơ Thạch không đồng quan điểm,
Trung Quốc không thích Nguyễn Cơ Thạch.
Theo Trần Quang Cơ, Trung Quốc đã đánh lửa Việt
Nam một cách trắng trợn. Họ nói Đặng Tiểu Bình sẽ gặp Phạm Văn Đồng
nhưng Đặng không xuất hiện. Ông Võ Văn Kiệt nói: “Nhẽ ra anh Tô
không nên đi!”. Mà Đặng Tiểu Bình là gì mà chính Phạm Văn Đồng cũng
muốn gặp để rồi bị dính chùm trong vụ tham dự Hội nghị Thành Đô, làm
vinh danh cho Trung Quốc ?
Vấn đề Campuchia, Trung Quốc vẫn giữ thái độ như
ngày 24-8-1990, đòi cấu trúc thành phần chính phủ hòa hợp dân tộc
Campuchia theo công thức: 6+2+2+2+1 (6 người phe chính phủ Hun sen,
2 người phe Khmer đỏ, 2 người phe Hoàng gia, 2 người phe đảng dân
chủ, và Sihanouk). Điều này hoàn toàn trái với công thức: 6 2 +2 +2
mà Hun Sen và Sihanouk đã thỏa thuận tại Tokyo.
Ông Trần Quang Cơ viết: “Hội nghị Thành Đô có 8
điểm, hai điểm về quốc tế, 5 điểm về Campuchia, chỉ có một điểm về
Việt Nam. Nguyễn Văn Linh nêu ‘Giải pháp Đỏ’, Trung Quốc hoan nghênh
nhưng không mặn mà !”.
Cái gọi là “Giải pháp Đỏ” của Nguyễn Văn Linh là
“Kéo Trung Quốc lại, thay thế Liên Xô, làm chỗ dựa vũng chắc bảo vệ
phe Xã hội chủ nghĩa!”. Nguyễn Văn Linh mê muội phe chủ nghĩa xã
hội, tìm mọi cách bảo vệ phe xã hội chủ nghĩa, quên quyền lợi và
danh dự của dân tộc mình và làm mất niềm tin cùa bạn bè !
Khi Trung Quốc đưa công thức 6+2+2+2+2+1 ra, ông
Phạm Văn Đồng nhắc Nguyễn Văn Linh thận trọng. Phía Trung Quốc liền
mời Phạm Văn Đồng ra chỗ khác để Nguyễn Văn Linh ký. Ông Phạm Văn
Đồng đã thấy nguy, nhắc Nguyễn Văn Linh sửa sai, nhưng Nguyễn Văn
Linh nói: “Không sao đâu!”.
Từ Thành Đô về, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh
sang Campuchia gặp Hengsomrin và Hunsen trao đổi về Hội nghị Thành
Đô, họ không chấp nhận công thức ấy và nói thẳng Việt Nam, Trung
Quốc không có quyền can thiệp vào Campuchia. Xương máu cùa hàng ngàn
cán bộ chiến sĩ quân đội ta đổ trên chiến trường Campuchia đã bị
guyễn Văn Linh bán rẻ cho Trung Quốc!
Trung Quốc nói giữ bí mật Hội nghị Thành Đô
nhưng chính họ thông báo cho thế giới biết toàn bộ nội dung cuộc
“họp bí mật” đó. Tờ Bangkok Post và tờ Tạp chí kinh tế Viễn Đông,
ngày 4-10-1990, đăng bài bình luận “Củ cà rốt và chiếc gậy” nói Viêt
Nam đã nhượng bộ nhiều hơn làm vừa lòng Trung Quốc.
Nguyễn Văn Linh đã thất bại trong sách lược
“Giải pháp Đỏ”, bị Trung Quốc ra khỏi các mối quan hệ với phương Tây
với nhiều mở hướng tốt đẹp cho sự nghiệp đổi mới, chỉ vì nghe Trung
Quốc xúi cho bùi tai là làm thành trì bảo vệ Xã hội chủ nghĩa. Nói
đúng hơn Nguyễn Văn Linh đã bị Trung Quốc lừa một vố đau.
Theo ông Trần Quang Cơ: “Sở dĩ ta bị mắc lừa ở
Thành Đô vì chính ta lừa ta! Ta ảo tưởng Trung Quốc giương cao ngọn
cờ Xã hội chủ nghĩa, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách
mạng Việt Nam và XHCN thế giới, chống lại hiểm họa “Diễn biến hòa
bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Sai lầm đó đã dẫn đến
sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “Giải pháp Đỏ”.
Ông Nguyễn Cơ Thạch nói: “Trung Quốc đã sử dụng
Hội nghị Thành Đô để phá mối quan hệ Việt Nam với các nước, chia rẽ
nội bô ta, kéo lùi tiến trình đổi mới của ta!”
Phạm Văn Đồng tỏ ra ân hận vì không ngăn được
Nguyễn Văn Linh ký thỏa thuận Thành Đô, khi Nguyễn Văn Linh nói
“Không sao đâu!”.
Nguyễn Văn Linh tránh trớ: “Anh Tô nhớ lại xem!
Không phài tôi đồng ý. Tôi chỉ nói nghiên cứu xem xét và bây giờ tôi
vẫn nghĩ thế là đúng”.
Cái gọi là “đúng” của Nguyễn Văn Linh là: “Âm
mưu đế quốc Mỹ chống phá xã hội chủ nghĩa ở châu Á, cả Cu Ba. Nó đã
phá Trung Quốc trong vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển sang phá ta!”.
Và theo quan điểm của Nguyễn Văn Linh thì: “Dù Trung Quốc bành
trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước Xã hội chủ nghĩa!”.
Từ Hội nghị Thành Đô trở về hình như Nguyễn Văn
Linh là một con người khác. Ngày 28-8-1990, tuyên bố chấm dứt “Những
việc cần làm ngay”. Ông nói “Bận quá! Vả lại tôi viết để “mồi” cho
các nhà báo viết tiếp để đấu tranh kiên quyết liên tục!”. Ông viết:
Không nên đi xe ngoại, rằng: “Ta về ta tắm ao ta”…
Đó là một lời nói dối, bởi sợi dây trói vừa được
cởi ra trong khoảng thời gian 3 năm 4 tháng đã bị thít lại chặt hơn,
và người đầu tiên là liên kết với Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Đỗ
Mười đánh dập vùi Trần Xuân Bách, một người được coi lả có trí tuệ
nhất trong Bộ chính trị lúc đó.
Nguyễn Văn Linh đã đưa Việt Nam tiến lên một
bước, nhưng rồi chính ông lại kéo Việt Nam lùi lại, ông mở cái cửa
nhỏ thoát ra khỏi một ngõ cụt nhưng rồi chính ông lại đóng sập cánh
cừa ra biển lớn cùa dân tộc vì ý thức bảo thủ vả giáo điều cùa ông !
Nguyễn Văn Linh đã tự lội xuống ruộng, đúng hơn
tự dìm mình váo vũng bùn Thành Đô, và đế mất sự kính trọng nhẽ ra
ông được hưởng.
Minh Diện
Copy từ: Viet-Studies
.................
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét