* BÙI VĂN BỒNG
Trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN về kết quả
đạt được, yếu kém cần khắc phục và những định hướng lớn trong chỉ đạo điều hành
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 6 tháng cuối năm 2013 và thời gian tiếp
theo, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói: “Trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn
nhiều khó khăn, Chính phủ vẫn đặc biệt quan tâm bảo đảm an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội cho nhân dân, nhất là đối tượng chính sách, người nghèo, đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa.Tuy nhiên, kinh tế xã hội nước
ta còn nhiều khó khăn, thách thức.
... Kinh tế vĩ mô và việc kiểm soát lạm phát
chưa thật vững chắc. Nợ xấu còn cao, tăng trưởng tín dụng thấp, sức mua phục
hồi chậm. Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Nông nghiệp tăng trưởng
thấp. Tăng trưởng kinh tế mới đạt mức tương đương cùng kỳ. Tiến độ thu ngân
sách Nhà nước và tổng đầu tư toàn xã hội đạt thấp. Việc làm, thu nhập và
đời sống của nhân dân chưa được cải thiện nhiều, nhất là hộ nghèo. Tai nạn
giao thông tăng cả về số vụ và số người chết so với cùng kỳ năm trước…".
Do vậy, khi nói về chặng đường còn lại của năm
2013 và thời gian tiếp theo, Thủ tướng nói. "Căn cứ thực tiễn tình hình 6
tháng đầu năm, từ nay đến cuối năm Chính phủ sẽ kiên trì thực hiện quyết
liệt các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra,
nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tháo gỡ khó khăn để phát
triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng; bảo đảm an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội, phấn đấu hoàn thành cao nhất kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2013".
Theo Thủ tướng: “Chính phủ sẽ kiên trì thực hiện quyết liệt các mục tiêu, nhiệm vụ và
giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra, nhất là ổn định kinh tế vĩ mô,
kiểm soát lạm phát…”. Trong bối ảnh hiện trạng suy thoái trầm trọng
của nền
kinh té trên đà trượt dốc, có thời điểm bị trượt với tốc lực lớn, ổn
định được
kinh tế vĩ mô quả là không dễ, cho dù
lần nào Thủ tướng cũng nêu “quyết liệt”. Đã “ổn định kinh tế vĩ mô” tất
nhiên
là kiểm soát được lạm phát. Kiểm soát lạm phát là một bước cần thiết
nhằm 'ổn định kinh tế vĩ mô', sao lại tách bạch thành hai khái niệm
song hành như vậy?
Theo lý luận kinh tế học, tiền tệ là
cái gốc quyết
định sự thăng trầm của nền kinh tế -xã hội. Trước hết là giá trị và số
lượng
tiền tệ (cung tiền tăng sẽ làm tăng tỷ lệ tương ứng giá hàng hóa). Ứng
dụng
thực tiễn của kinh tế học tiền tệ là lựa chọn giữa chế độ bản vị vàng,
bạc hay
song hành...Cách quản lý, điếu hành như lâu nay, nặng về ưu tiên vốn xóa
nợ xấu và các gói cứu trợ 'ngược đời' như vậy (thực chất vẫn là ưu ái
nhóm lợi ích) thì rất khó ‘ổn định’ và cũng không dễ mà ‘kiểm soát’.
Ai cùng hiểu rằng, đụng đến ‘kinh tế vĩ mô’ là đề cập
trực diện đến sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước
trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Những đối tượng nghiên cứu cụ thể
của kinh tế học vĩ mô bao gồm tổng sản phẩm, việc làm, lạm phát, tăng trưởng,
chu kỳ kinh tế, vai trò ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ, v.v… Về lĩnh vực
cơ bản và trọng yếu này, các nhà nghiên cứu kinh tế nổi tiếng trên thê sgiới
như: Arthur Pigou, Keynes, Dennis Robertson, Ralph Hawtrey…đã đưa ra nhiều mẫu
dạng ly sthuyết và mổ xẻ, phân tích.
Suy cho cùng: Kinh tế vĩ mô xuất phát từ cơ sở (gần
như ban đầu) của tác phẩm “Lý thuyết tỏng
quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (thường được gọi tắt là Lý thuyết
tổng quát) của john Maynard Keynes (1883-1948) làm trung tâm và lấy nguyên lý
cầu hữu hiệu làm nền tảng. Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung
hàng hóa là do lượng cầu quyết định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế,
nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công cộng - khác và
ngược lại với tài chính công), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó
giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
Từ thị trường và cán cân kinh tế, cho thấy mỗi khi có
khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có
động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ
phục hồi. Điều đó đã tạo ra suy giải có khá nhiều kỳ vọng về giảm tiền công và
giá cả tạo ra vòng xoáy đi xuống của nền kinh tế hình thành.
Và từ đó, lãi suất giảm không nhất
thiết dẫn tới đầu
tư tăng. Cái quy định lãi suất, nhất là trong ngắn hạn, chính là cung và
cầu về
tiền. Cho nên, giữ giá trị đồng tiền là hạn chế đến mức thấp nhất ‘độ
sụt trồi’
quá chênh lệch của lãi suất. Lãi suất không nên xuống thấp hơn một mức
nào đó.
Nhưng, từ nhiều năm nay, các nhà quản lý tài chính tiền tệ và hệ thông
ngân
hàng của nước ta chưa làm được điều đó một cách hiệu quả và giữ được độ
bền
vững, nó lại không dược coi như một nguyên tắc. Nguồn tiền của ta quá
ít, nhiều
khi lẫn lộn thực và ảo, con số chính thức đang có không khớp với con số
báo
cáo, dẫn tới không đạt được mức cân bằng ngay cả khi nạn thất nghiệp
tràn
lan. Thực ra, khi đã để cho lạm phát,
suy thoái, đồng tiền mất giá, lúc đó mới hô hào sự cố gắng thắt chặt chi
tiêu
thì quá muộn, chỉ làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. Cộng hưởng thêm:
Hô hào tiết kiệm khi túi tiền người dân cạn réo, lại tăng thuế, đẻ ra
các khoản phụ thu, nâng giá mặt hàng thiết yếu..., để bù đắp tiền đã
mất càng gây cho lạm phát rơi vào tầm mức nguy hại, đời sống người lao
động càng thêm khó khăn.
Là bởi vì trong tình cảnh ấy, thị thị
trường không thể “tự
vỗ” bằng những bàn tay hữu hình lẫn vô hình. Chúng ta không thể chối bỏ
cơ chế
tự điều chỉnh của thị trường. Đó là một thực tế khách quan vận hành theo
quy luật, khó dùng ý chí, ý định của con người để 'khiển nắn'. Và tất
nhiên sự can thiệp của nhà nước có thể làm
tăng tốc quá trình điều chỉnh này mà thôi.
Khi lạm phát tăng cao, tăng nhanh mà mọi lĩnh vực kinh tế tăng trưởng chậm thì lạm phát được đà lấn tới và (tự nó) đánh đổi cho tăng trưởng. Do đó, dù có nỗ lực kích cầu quá mức. đều không thể lấy gì bù đắp cho sự mất giá của đồng tiền, nạn thất nghiệp và thu nhập bị kéo hạ xuống làm rỗng túi tiền của người lao động, cũng như cảnh thụt két của ngân hàng, gia tăng hàng tồn kho. Đó cũng là dấu hiệu mất cân đối nghiêm trọng cung-cầu, sản phẩm dư thừa một cách giả tạo. Thực chất, nhu cầu người tiêu dùng rất cần, cần nhiều, nhưng không có tiền mua, đành tự co lại sống eo hẹp theo kiểu 'vừa đủ xài'. Từ 1/7, tăng 9,5% lương cơ bản (100.000 đồng) chỉ là biện pháp tình thế 'cấp thời', một hình thức 'dịu xoa', muối bỏ biển. Trong khi hàng sản xuất trong nước bị tồn kho thì vẫn nhập khẩu hàng ngoại mà động cơ người nhập ăn hoa hồng là chủ yếu, mặc dù khẩu hiệu "Bảo trợ hàng trong nước, khuyến khích dùng hàng nội, rót tiền cho hàng bình ổn giá..." vần sáng rỡ!
Khi lạm phát tăng cao, tăng nhanh mà mọi lĩnh vực kinh tế tăng trưởng chậm thì lạm phát được đà lấn tới và (tự nó) đánh đổi cho tăng trưởng. Do đó, dù có nỗ lực kích cầu quá mức. đều không thể lấy gì bù đắp cho sự mất giá của đồng tiền, nạn thất nghiệp và thu nhập bị kéo hạ xuống làm rỗng túi tiền của người lao động, cũng như cảnh thụt két của ngân hàng, gia tăng hàng tồn kho. Đó cũng là dấu hiệu mất cân đối nghiêm trọng cung-cầu, sản phẩm dư thừa một cách giả tạo. Thực chất, nhu cầu người tiêu dùng rất cần, cần nhiều, nhưng không có tiền mua, đành tự co lại sống eo hẹp theo kiểu 'vừa đủ xài'. Từ 1/7, tăng 9,5% lương cơ bản (100.000 đồng) chỉ là biện pháp tình thế 'cấp thời', một hình thức 'dịu xoa', muối bỏ biển. Trong khi hàng sản xuất trong nước bị tồn kho thì vẫn nhập khẩu hàng ngoại mà động cơ người nhập ăn hoa hồng là chủ yếu, mặc dù khẩu hiệu "Bảo trợ hàng trong nước, khuyến khích dùng hàng nội, rót tiền cho hàng bình ổn giá..." vần sáng rỡ!
Tuy là một lĩnh vực tổng quát nhưng kinh tế vĩ mô có
hai khu vực cần tập trung tổ chức một cách khoa học gắn với thực tế về những nguyên
nhân và hậu quả của biến động ngắn đối với thu nhập quốc gia (còn gọi là chu kỳ
kinh tế), và những yếu tố quyết định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn, Thủ tướng cũng "yêu
cầu các bộ, ngành, địa phương tăng cường và chủ động cung cấp thông tin về chỉ
đạo điều hành, về cơ chế chính sách, về xử lý những vấn đề xã hội bức xúc và
những vấn đề mới phát sinh cho các cơ quan báo chí để cung cấp thông tin chính
xác, kịp thời cho nhân dân...". Về những giải pháp điều hành trong thời
gian tới, Thủ tướng cho biết trong bối cảnh kinh tế thế giới dự báo tăng
trưởng chậm lại, tiềm ẩn nhiều rủi ro, Chính phủ sẽ tập trung điều hành chủ
động, linh hoạt, phù hợp các giải pháp tiền tệ, tài khóa, thị trường
giá cả để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh, bảo đảm tăng trưởng. Thủ tướng cũng nêu là phải tiếp tục
giảm mặt bằng lãi suất cho vay phù hợp với tình hình lạm phát; tăng
dư nợ tín dụng theo kế hoạch, nhất là các lĩnh vực ưu tiên. Ổn định tỷ giá và
thị trường ngoại hối; quản lý hiệu quả thị trường vàng. Thủ tướng nhấn
mạnh: Thực hiện tốt giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ thi công và giải
ngân vốn đầu tư cộng đồng thời với việc tăng cường các giải pháp huy
động vốn xã hội cho đầu tư phát triển; bố trí vốn đối ứng để giải ngân
nhanh vốn ODA; triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn…
"Phấn đấu ổn định kinh tế vĩ mô" -
cả mười mấy năm nay, nghị quyết nào cũng rền vang như vậy, quen quá
rồi!. Thực chất, nếu chỉ dồn sức trọng cung, kích cầu, nhưng
không quan tâm đến các chính sách tiền tệ hợp lý, không quản lý chặt chẽ
ngân
khố quốc gia thì mọi nỗ lực dù có hô vang “quyết liệt” cũng không thể
nâng cao năng
suất lao động và nâng cao năng lực cung cấp của nền kinh tế nhằm mục
đích nâng
cao tốc độ tăng trưởng.
Thế nên, khi mà tệ nạn tham
nhũng và
báo cáo thiếu trung thực như hiện nay chưa được khắc phục triệt để, giải
quyết các chính sách về giá cả, tiền tệ còn tùy tiện, tiền mặt và vàng
chưa quản lý chặt, thiếu cân đối, nhóm lợi ích còn lộng hành... mà lại
mong
‘sớm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát” thì cũng chỉ là nói cho
nó
‘kêu’ mà thôi! Ít có ai hy vọng điều đó thành hiện thực trong tương lai
gần.
BVBCopy từ: Bùi Văn Bồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét