* VÕ LÂM
BVB - Rất nhiều ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học đã
bày tỏ ủng hộ quan điểm về sở hữu đất đai trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 vì phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, xã hội nước ta. Tuy nhiên, các ý kiến
mong muốn làm rõ một số khái niệm, nội hàm liên quan để tránh tình trạng thu
hồi đất xâm phạm quyền tài sản chính đáng của người dân đối với đất đai.
Sở
hữu đất đai không phải câu chuyện "bắt chước"
PGS, TS Nguyễn Quang Tuyến (giảng viên ĐH Luật Hà Nội)
cho rằng, lựa chọn hình thức sở hữu đất đai khi góp ý sửa đổi Hiến pháp không
phải là chuyện "bắt chước" nước khác, mà cần căn cứ vào hoàn cảnh
lịch sử cụ thể. Ông nhấn mạnh, không có hình thức sở hữu nào ưu điểm tuyệt đối
hoặc nhược điểm tuyệt đối. Ngay ở các nước chọn hình thức đa sở hữu, trong đó có
sở hữu tư nhân thì vẫn có vai trò của Nhà nước quản lý, điều tiết (hạn chế
quyền sở hữu của tư nhân). Đối với Việt Nam, chọn chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai, nhưng quyền sử dụng đất của người dân vẫn có tương đồng lớn so với sở
hữu tư nhân. Cụ thể, hiện nay, người sử dụng đất ở nước ta có khoảng 13 quyền
như: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn, được bồi thường, được lựa chọn hình thức sử dụng đất… Đề cập đến
việc nhiều ý kiến đổ lỗi cho những bất cập trong quản lý, sử dụng đất đai hiện
nay là có nguồn gốc sở hữu, PGS, TS Nguyễn Quang Tuyến quả quyết: Bản thân hình
thức sở hữu không phải "đôi đũa thần kỳ" có thể thay đổi tất cả. Thay
đổi hình thức sở hữu không thể thay đổi những khuyết tật, bất cập liên quan.
Một giảng viên khác của ĐH Luật Hà Nội là PGS, TS
Nguyễn Minh Đoan, Phó Trưởng khoa Hành chính - Nhà nước cũng ủng hộ quan điểm
này. Ông phân tích: Việt Nam
đã xác định mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội. Một chế độ sở hữu đất đai toàn dân
như trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu
này.
Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Đinh Xuân Thảo
đưa ra 5 lý do lựa chọn hình thức sở hữu đất đai toàn dân do Nhà nước làm đại
diện chủ sở hữu. Trong đó, lý do thứ nhất là nhằm tạo điều kiện cho người dân
tiếp cận bình đẳng và trực tiếp với đất đai, ngăn ngừa khả năng số ít chiếm
dụng phần lớn địa tô. Đây cũng là hình thức xóa bỏ tình trạng dùng độc quyền sở
hữu đất đai bóc lột người sử dụng đất. Các lý do khác là nhằm ghi nhận thành
quả cách mạng của các thế hệ người Việt Nam; đất đai là điều kiện vật chất bảo
đảm việc làm, ổn định đời sống nông dân; quyền sử dụng đất gần như quyền chủ sở
hữu. Đặc biệt, theo ông, quy định hình thức sở hữu như Dự thảo còn giúp giữ
được ổn định quan hệ đất đai, ngăn ngừa xung đột, phức tạp về mặt xã hội, lịch
sử có thể nảy sinh nếu thay đổi hình thức sở hữu đất đai.
Khắc phục các vấn đề bất cập
Khắc phục các vấn đề bất cập
Song song với sự đồng tình về hình thức sở hữu đất đai
quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, các chuyên gia đề nghị phải
làm rõ hơn các quy định, nhằm bảo đảm quyền sử dụng đất của người dân cũng như
tránh việc lạm dụng quyền thu hồi đất của các cơ quan nhà nước, gây bức xúc
trong dân.
Luật sư Lê Anh Văn (Đoàn Luật sư Hà Nội) cho rằng, để
tránh quy định về sở hữu toàn dân không bị hiểu sai lệch, thậm chí lạm dụng
trong thực tế, cần làm rõ hơn về khái niệm này trong Dự thảo. Đây cũng là suy
nghĩ của PGS, TS Nguyễn Quang Tuyến. Theo ông, khái niệm "sở hữu toàn
dân" hiểu như hiện nay là quá rộng, chung chung. Trong khi đó, luật sư Lê
Đức Tiết, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn pháp luật (Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam)
phân tích: Quy định 3 cấp chính quyền có thể thực hiện việc thu hồi đất gồm TƯ,
tỉnh và huyện, thậm chí nhiều trường hợp cả cấp xã cũng thực hiện được việc thu
hồi đất như hiện nay là rất đáng lo ngại. Vì đây là cách hành chính hóa luật
khiến việc quản lý trở nên rối rắm.
Nhiều ý kiến đề nghị cần làm rõ khái niệm "cần
thiết" trong quy định "trưng mua, trưng dụng có bồi thường" tại
khoản 3 Điều 56. Ý kiến khác cho rằng, nên rút gọn lĩnh vực thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh, bỏ thu hồi đất vì mục đích chung chung là phát triển
kinh tế-xã hội. Vì nếu quy định như khoản 3 Điều 58 trong Dự thảo thì có thể
thu hồi đất ở tất cả các loại dự án. Như vậy, quyền sử dụng đất của người dân
được bảo đảm như quyền tài sản không có nhiều ý nghĩa.
Luật sư Trần Vũ Vương (Đoàn Luật sư Hà Nội) đề nghị
sửa lại khoản 3 Điều 58 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp thành: "Nhà nước thu hồi
đất do tổ chức, cá nhân sử dụng và có bồi thường trong trường hợp đất được thu
hồi phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ công trình giao thông, công
trình công cộng; thu hồi đất phục vụ mục đích khác được thực hiện sau khi có
thỏa thuận bồi thường giữa các bên liên quan. Thẩm quyền thu hồi đất và phương
thức bồi thường theo quy định của pháp luật". Trong khi đó, TS Đặng Vũ
Huân (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp) đề nghị bỏ hẳn khoản 3 Điều 58
vì có như thế mới thể hiện hết ý nghĩa của quy định "quyền sử dụng đất là
quyền tài sản được pháp luật bảo hộ". Ngoài ra, còn vì khoản 3 Điều 56 đã
quy định: "Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước
trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá
thị trường". Ông cho rằng như thế là đầy đủ, vì "trưng mua hoặc trưng
dụng có bồi thường" cũng có nghĩa là thu hồi đất.
V.LCopy từ: Bùi Văn Bồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét