Thương nhớ đến 7,600 đồng bào Huế đã bị cộng sản Việt Nam sát hại
Douglas Pike (“Viet Cong Strategy of Terror”) - Ngô Xuân Hùng chuyển
ngữ - Ở Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này
không phải do bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những
cán bộ ở Huế bất mãn với chế độ. Tưởng cũng nên nhắc lại: vào ngày 26
tháng Tư năm 1968, Đài Giải Phóng Hà Nội đã chê trách việc chính phủ
VNCH cố tìm xác của các nạn nhân, đài đã phát thanh rằng những người bị
giết hại chỉ là “những tên tay sai đã nhúng tay vào máu của nhân dân yêu
nước ở Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giết hại vào tháng Ba
tháng Tư.”
Những lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế bởi một lý do khác là
“thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các đảng
phái ở Huế mà thôi.”
Dấu binh lửa nước non còn đó
Huế là một thành phố thảm thương nhất trên thế giới, không phải chỉ vì
một thảm cảnh đã xảy ra ở đó vào tháng Hai năm 1968, cho dù sự giết hại
đó có đi vượt sức tưởng tượng của con người! Mà Huế còn là một chứng
tích không thể chối cãi được cho tất cả chúng ta, người dân Việt với bốn
ngàn năm văn hiến, qua bao năm đã không để ý đến những thay đổi trong
xã hội làm cho con người bị mê muội và đắm chìm trong lỗi lầm mới của
thế kỷ thứ hai mươi, quên mất đi đạo làm người.
Những thảm họa xảy ra ở Huế làm cho tất cả mọi người chúng ta phải bồi
hồi suy tư! Thảm nạn Huế phải được tạc vào bia đá, khắc vào tâm khảm, để
đời sau sẽ không quên, cùng chung với những dữ kiện lịch sử khác, của
những cuộc tàn sát bạo tàn giữa con người với nhau. Huế là một dẫn chứng
điển hình cho sự mù quáng của loài người khi họ đi theo chủ nghĩa vô
sản vô thần của cộng sản.
Chuyện gì đã đến với Huế có thể được tóm tắt lại qua vài con số thống kê
như sau: Phía cộng sản gồm có 12,000 lính chính quy Bắc Việt (BV) bắt
đầu tấn công thành phố Huế đêm ba mươi Tết, nhằm ngày Ba Mươi Tháng Một
dương lịch, 1968. Đoàn cộng quân đã tấn công và chiếm giữ Huế trong suốt
26 ngày, sau đó bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và đồng minh
đánh bật ra khỏi Huế. Sau một tháng, 5,800 thường dân Huế bị giết hại
hoặc mất tích.
Đây là những thống kê quan trọng để giải đáp những thắc mắc chúng ta có
về Huế, vì những dữ kiện này đã ghi vào lịch sử, cho dù báo chí trên thế
giới chỉ ghi nhận rất sơ sài các thống kê đó. Dù con số có lên cao đến
bao nhiêu đi nữa, lương tâm của nhân loại vẫn không bị ảnh hưởng gì cho
lắm! Đã không có những cuộc biểu tình trước các tòa Đại Sứ Việt Cộng ở
các quốc gia khác. Nói một cách mỉa mai hơn, thế giới bên ngoài đã không
biết chuyện gì đã xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết, họ cũng chẳng bận tâm
đến làm gì.
TRẬN CHIẾN
Trận tấn công thành phố Huế là một phần quan trọng trong chiến dịch tổng
tấn công Đông Xuân năm 1967-1968 của cộng sản Việt Nam. Chiến dịch được
chia làm ba giai đoạn chính như sau:
Giai đoạn 1 – Bắt đầu từ tháng 12 năm 1967 với những cuộc “tấn
công chọn lọc” nhắm vào các căn cứ và yếu điểm quan trọng của QLVNCH và
đồng minh bằng những sư đoàn chính quy Bắc Việt. Các trận đánh ở Lộc
Ninh tỉnh Bình Long, Dak To ở Kontum, và Cồn Tiên ở tỉnh Quảng Trị, cả
ba trận xảy ra trong các vùng đầy núi đồi Việt Nam gần biên giới Cam Bốt
và Lào, đều là những trận đánh then chốt thuộc Giai đoạn 1 của chiến
dịch Đông Xuân.
Giai đoạn 2 – Xảy ra trong tháng Giêng, tháng Hai, và tháng Ba
năm 1968, nằm trong “chiến thuật tổng tấn công”, với nhiều trận đánh
dùng những đơn vị nhỏ lưu động cùng tấn công một lúc tại nhiều nơi. Giai
đoạn 2 bao gồm một diện tích lớn và dùng chiến thuật du kích. Trong khi
những cuộc tấn công trong giai đoạn trước, VC dùng những sư đoàn chính
quy BV. Trong giai đoạn này, đa số các cuộc tấn công đều dùng những nhóm
du kích địa phương của Mật Trận Giải Phóng Miền Nam. Cao điểm của giai
đoạn 2 xảy ra khi 70,000 Việt Cộng tấn công vào 32 thành phố vào ngày
Mồng Một Tết, năm 1968.
Giai đoạn 3 – Diễn ra trong tháng Tư, tháng Năm, và tháng Sáu năm
1968, với toàn bộ lực lượng gồm các sư đoàn chính quy BV và các lực
lượng du kích MTGPMN, tập trung vào một trận đánh lớn. Những tài liệu
tịch thu được từ mặt trận đã có nói về chiến thuật “đợt sóng thứ Hai”
này. Có thể là Khe Sanh, một căn cứ của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ nằm
gần Vĩ Tuyến 17 (để yểm trợ và cũng là căn cứ xuất quân của các toán
Biệt Kích Nha Kỹ Thuật). Hoặc có thể là Cố Đô Huế. “Đợt sóng thứ Hai” đã
không xảy ra vì các chiến dịch trước đó (Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2) đã
không đạt được kết quả mong muốn. Tuy nhiên, từ khi thành phố Huế bị
chiếm, và sau cuộc đánh để giải tỏa căn cứ Khe Sanh mùa Hè 1968, cuộc
chiến đã đi đến điểm cao độ kể từ đó.
Về phía đồng minh Hoa Kỳ, trong ba tháng này, trung bình khoảng 500 binh
sĩ tử thương hàng tuần, QLVNCH (ARVN) hơn gấp đôi con số này - gần
1,000 nhân mạng. Và bên Việt Cộng, con số tử thương lên đến tám lần của
phía Hoa Kỳ - trên 4,000 “sinh Bắc tử Nam”! Trong chiến dịch Đông Xuân,
Việt Cộng bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy và du kích, sau 9
tháng tổng tấn công, cộng sản Bắc Việt đã mất đi 85,000 quân, tử thương
hoặc bị tàn phế.
Chiến dịch Đông Xuân được hoạch định và mở ra nhằm mục đích bẻ gãy sức
mạnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và để đẩy lùi các bộ phận của chính
phủ VNCH, gồm các cơ quan hành chính, và đồng minh phải rút vào thành
phố để phòng thủ. Đúng ra, cuộc tấn công thành phố Huế thuộc vào Giai
đoạn 1 của chiến dịch Đông Xuân hơn là Giai đoạn 2 vì Việt Cộng sử dụng
các sư đoàn Bắc Việt, sư đoàn 5 324-B cộng vơi các trung đoàn chính quy
và thành phần du kích với khoảng 150 cán bộ cộng sản nằm vùng.
Tóm lượt lại, trận đánh ở Huế gồm có ba giai đoạn chính:
HUẾ: GIAI ĐOẠN MỘT
Phần tấn công khởi đầu của sư đoàn chính quy BV với Trung Đoàn 800 và
Trung Đoàn 802, đủ hỏa và nhân lực để tràn ngập vào thành phố Huế. Đến
sáng ngày hôm sau, Việt Cộng đã chiếm được đa số các cơ sở trong thành
phố Huế, ngoại trừ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH và các căn cứ của
đồng minh. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ tiếp viện thêm quân để
yểm trợ cho hai tuyến phòng thủ quan trọng trong thành phố Huế. Việt
cộng gia tăng thêm Trung Đoàn 804 để cắt đứt đường yểm trợ này. Tuy
nhiên QLVNCH tấn công quá mạnh nên đã chọc thủng vòng đai bao vây của VC
và sau đó, hai căn cứ quân sự của QLVNCH và Hoa Kỳ đó không còn bị đe
dọa trầm trọng nữa.
Kể từ đó, chiến trường trở thành cuộc bao vây và phòng thủ giữa hai
phía. Việt Cộng tấn chiếm và cố thủ ở phía Tây Thành Nội Huế. QLVNCH và
Đồng Minh tái chiếm và phòng thủ ba hướng còn lại của Thành Nội và các
làng dọc theo sông Hương, với quyết tâm đánh đuổi VC ra khỏi Thành Nội
bằng pháo binh và dùng máy bay dội bom. Nhưng Thành Nội được xây rất
kiên cố, và trong những ngày kế tiếp, QLVNCH thấy rõ là VC đã nhận chỉ
thị phải tử thủ ở Thành Nội, bất cứ với giá nào cũng không được triệt
thoái. QLVNCH chỉ còn một cách duy nhất là lấy lại thành phố bằng từng
con đường, từng khu phố, một cách chiến đấu rất khó khăn, gian khổ và
hao tổn nhân mạng.
Qua tuần thứ Ba của tháng Hai, vòng đai bao vây Thành Nội đã được củng
cố, và Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH cùng Đồng Minh bắt đầu siết chặt lại
và khởi sự tái chiếm từng thước đất trong Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng
Hai, Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH giật lá cờ VC đã treo 24 ngày xuống và cờ
VNCH một lần nữa ngạo nghễ tung bay trên thành phố Huế. Trận tái chiếm
Cổ Thành tuy đã thành công, nhưng rải rác trong thành phố vẫn còn những
cuộc đụng độ nhỏ giữa VC trên đường rút lui với QLVNCH truy đuổi.
KẺ HÀNH HƯƠNG QUA ĐẤY CHẠNH THƯƠNG
TÌM THÂY
Giữa những hỗn loạn còn nghi ngút khói sau cuộc chiến, việc cấp cứu đầu
tiên cho đồng bào Huế là cứu đói, ngăn ngừa bệnh dịch, và trị liệu cấp
thời cho các nạn nhân. Tiếp đó là xây dựng lại những nhà thương, trường
học, nhà cửa bị hư hại vì súng và bom đạn. Sau đó mới đến việc kiểm điểm
những người bị mất tích hoặc đã thiệt mạng. Sau một tháng, vẫn chưa có
một thống kê nào chính thức. Tuy nhiên, Tòa Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên
kiểm kê được gần 1,900 người đang được điều trị trong các nhà thương và
ước lượng khoảng 5,800 người vẫn còn bị mất tích.
Nhóm mộ thứ nhất: những nạn nhân của cộng sản được tìm
thấy ở trong sân trường ở Gia Hội, ngày 26 tháng Hai. Tổng số xác chết
của nạn nhân bị chôn ở trường học Gia Hội tìm thấy lên đến 170 người.
Trong những tháng kế tiếp, lần lượt từng mồ chôn được khám phá thêm, gồm
có 18 ngôi mộ tập thể, nơi chôn nhiều nhất là chùa Quảng Tự (67 nạn
nhân), Bải Dâu (77), Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), Thiên Hàm (khoảng
200), và Đông Gia (khoảng 100). Tổng cộng trên 1,200 xác được tìm thấy
từ những ngôi mồ tập thể chôn gấp rút, đã không dấu kỹ.
Hơn một nửa trong số những nạn nhân vẫn còn để lai những dấu hiệu của
cái chết thảm khốc: hai tay trói chặc sau lưng, khăn nhét đầy vào cuống
họng, nằm cong queo với không thương tích trên người. Đó là dấu hiệu họ
đã bị chôn sống. 600 nạn nhân còn lại có những vết thương, nhưng nhà
giảo nghiệm không thể nói được là họ đã bị xử bắn hay bị chết vì lạc
đạn.
Những ngôi mộ tập thể thuộc nhóm thứ nhì được tìm thấy
trong bảy tháng đầu tiên của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Gò Cát – Sand
Dune), Lệ Xá Tây, quận Hương Thủy – huyện Xuân Hòa, Vân Đường vào cuối
tháng Ba và tháng Tư. Nhiều ngôi mộ khác cũng đã được tìm thấy tại làng
Vĩnh Lộc trong tháng Năm và ở quận Nam Hòa trong tháng bảy. Những ngôi
mộ lớn nhất tìm thấy trong đợt hai nằm ở Gò Cát tại ba địa điểm Vĩnh
Lưu, Lê Xã Đông và Xuân Lộ, nằm giấu trong những gò cát nhấp nhô với cỏ
mọc cao gần bãi biển. Ngăn chia bởi những cồn muối, xa với làng xóm,
những gò cát này là địa điểm lý tưởng để chôn dấu. Trên 800 xác đã được
tìm thấy ở đây.
(Ghi chú thêm của Ngô Xuân Hùng: trong số những nạn nhân này có hai
vị Linh Mục – Cha Bửu Đồng và Cha Michael Bang, cùng với hai Sư Huynh
Dòng Lasan).
Ở Gò Cát, tất cả các nạn nhân đều bị trói gô lại thành từng nhóm khoảng
10 đến 20 người, xếp hàng đứng trước các rãnh mới được đào bởi chính các
nạn nhân, và bị xử bắn bằng súng đại liên. Một trong những di vật quý
của dân làng gò cát Phú Thứ là vỏ đạn đại liên của Nga Sô tìm thấy được
trong những ngôi mộ này. Thường thì những nạn nhân ở đây bị chôn chung
một mộ, chôn đến ba hay bốn lớp, nên nhận diện các nạn nhân rất khó
khăn.
Nhóm mộ thứ ba tìm thấy ở suối Đá Mài (Da Mai Creek find),
cũng được gọi là Phủ Cam tử lộ, tìm ra ngày 19 tháng 9, năm 1969. Ba VC
hồi chánh viên đã báo cho toán quân báo của Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù rằng,
họ đã chứng kiến cuộc thảm sát của vài trăm nạn nhân tại Đá Mài vào
tháng Hai năm 1968, cách Huế khoảng mười dặm. Vùng suối Đá Mài rất hoang
dã, không người ở, và gần như không có lối ra vào bằng đường bộ.
Sau khi gom lại những bằng chứng, các giảm nghiệm viên đã phân tách diễn biến xảy ra tại Đá Mài như sau:
Ngày Mồng Năm Tết ở làng Phủ Cam, nơi gần ba phần tư của 40 ngàn người
Công Giáo Huế cư ngụ, một số rất đông ngươi đã tránh nạn trong Thánh
Đường Phủ Cam, một cách tránh nạn rất thông thường ở Việt Nam. Trong số
này, cũng có một số người không phải là Công Giáo. Một cán bộ chính trị
cộng sản đến nhà thờ và đã ra lệnh cho 400 người, bằng cách gọi tên hoặc
nhận diện qua cách ăn mặc (giàu có hoặc nhìn như thương gia). Tên cán
bộ nói họ sẽ được đi đến “vùng giải phóng” trong ba ngày mà thôi để được
cải tạo, sau đó họ sẽ được thả về.
Những người này đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi
cộng sản đã dựng sẵn một bộ chỉ huy hành quân. Hai mươi người bị kêu ra
khỏi nhóm, đứng sắp hàng một, lần lượt bị truy tố vì những tội đã hợp
tác với chính phủ VNCH, sau đó bị bắn rồi bị chôn trong sân chùa. Những
người còn lại bị buộc phải lội băng qua phía bên kia sông, và được giao
lại cho một đại đội du kích, với biên bản và danh sách của những người
bị bắt. Có thể là tên cán bộ chính trị có ý là những người bị bắt này sẽ
“được” cải tạo rồi sẽ thả cho họ về, nhưng sau khi bàn giao, số phần
của những nạn nhân này đã ra khỏi tầm tay của tên cán bộ chính trị.
Những ngày kế tiếp, bao nhiêu ngày không ai biết, những người bị bắt và
người quản thúc họ đi lang thang lẩn trốn cuộc truy lùng của QLVNCH qua
những làng nhỏ. Cuối cùng, cán bộ du kích cao cấp quyết định thủ tiêu
nhân chứng: Họ bị dắt đi sáu cây số qua những đường núi khó đi và hẻo
lánh nhất, đến suối Đá Mài. Tất cả đều bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ, xác họ
để nằm phơi trên suối nước. Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù QLVNCH ghi nhận rằng
nơi hành quyết không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc
không thể đi lọt được, chỉ vào được bằng đường bộ. Cây cối nơi này mọc
rất cao, lá dầy và mọc theo lối “hai tầng”, tầng một gồm những bụi tre
và cây thấp gần đất, tầng hai gồm những cây cổ thụ mọc rất cao, những
nhánh lớn xòe ra như lọng dù che khuất đi những gì ở dưới. Bên dưới hai
tầng lá này, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng được. Công binh QLVNCH
đã bỏ hai ngày để dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ và tạo ra một khoảng
trống lớn đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống để đem các di hài nạn nhân
về Huế. Suối Đá Mài thật đúng là nơi để hạ sát mà không cần phải chôn
giấu xác nạn nhân.
Ở suối Đá Mài, cách bờ khoảng một trăm thước, người ta tìm thấy hàng
trăm chiếc sọ người, hàng trăm mẫu xương vụn nằm chung lại một chỗ.
Những xác này đã không được chôn, nằm lộ liễu (theo truyền thuyết VN,
người chết nếu không được chôn, hồn họ phải lang thang mãi và sẽ không
được đầu thai qua kiếp khác). Và sau hai mươi tháng, dòng suối đã rửa
sạch trắng những bộ xương này.
Nhà chức trách VNCH sau đó đã phổ biến danh sách nạn nhân bị cộng sản
giết tại suối Đá Mài, 428 người đã được xác nhận. Việt cộng đã dùng lý
do tiêu diệt các phần tử phản cách mạng. 428 nạn nhân được phân ra như
sau: 25 phần trăm là quân đội VCNH – hai sĩ quan, một số hạ sĩ quan và
binh sĩ, 25 phần trăm là học sinh và sinh viên, 50 phần trăm là công
chức và viên chức quận hạt và thường dân.
Nhóm mồ tập thể thứ tư – Phú Thứ gần biển muối, tìm ra vào
tháng mười một năm 1969, gần làng đánh cá Lương Viện, mười lăm cây số
về phía Đông của thành phố Huế, một nơi cũng hoang dã như suối Đá Mài.
Quân đội VNCH trong tháng đó đã có chiến dịch truy lùng những cán bộ
cộng sản nằm vùng. Làng Lương Viện, dân số 700, sống gần với quân đội
VNCH gần hai mươi tháng trời, đã có đủ can đảm để nói lên sự thật mà họ
đã giữ kín trước đó, rồi sau đó, đã dẫn QLVNCH đến những ngôi mộ chôn
tập thể. Dựa trên những lơi tường thuật của dân làng Lương Viện, nhà
chức trách đã ước lượng số nạn nhân tại Phú Thứ từ 300 cho đến khoảng
1,000 người.
Tuy nhiên, việc kiểm kê tổng số nạn nhân vẫn chưa được đầy đủ. Nếu tổng
kê của chức trách địa phương Huế gần đúng, trên 2,000 người vẫn còn mất
tích.
Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600, như sau:
Bị thương và tàn tật vì bom đạn: 1,900
Thường dân bị chết vì bom đạn: 844
Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến: 1,173
Nhóm mồ tập thể thứ nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969: 809
Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969: 428
Nhóm mồ tập thể thứ tư, biển muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969: 300
Ước lượng những mồ tìm rải rác chung quanh thành phố Huế: 200
Số người vẫn còn mất tích: 1,946
Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế: 7,600
Chú thích của tác giả - tài liệu trên đây lấy từ:
[1] SEATO: South East Asia Organization.
[2] PAVN: People's Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number currently 105,000.
[3] PLAF: People's Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army.
CỘNG SẢN CHẠY TỘI
Những cuộc thảm sát ở Huế đã vượt quá những việc tàn ác CSVN đã ra tay
trước đó ở miền Nam Việt Nam. Điều khác biệt là ở số nạn nhân lần này,
chứ không phải ở mức độ tàn ác của việc họ làm. Đặc điểm của những vụ
tàn sát ở Huế, sau khi chúng ta nghiên cứu những tài liệu tìm thấy, cho
ta nhìn rõ được mức độ tàn ác của CSVN tại Huế, đã vượt xa những việc
tàn ác ở những nơi khác trên miền Nam Việt Nam, cho dù có thường xuyên
hoặc tàn bạo đến mức nào đi nữa.
Vụ thảm sát ở Huế không phải là một việc làm để nâng cao tinh thần tranh
đấu – cách đánh cấp tốc vào thẳng yếu điểm của phía bên kia để chứng
minh sức mạnh của phe mình, mà lại khác hơn ở chỗ xuống tay sát hại dân
lành trong vùng do du kích của CSVN kiểm soát.
Không phải một chiến dịch đe dọa để quảng bá lý thuyết cộng sản. Không
nhắm vào mục đích lay chuyển lý tưởng của phe đối nghịch, vì đa số những
nạn nhân đều bị giết một cách âm thầm. Và cũng không phải để thủ tiêu
những phần tử đối nghịch theo danh sách đã được soạn trước. Huế đã là
ngoại lệ so với những chiến dịch của cộng sản nhằm lay chuyển hoặc đánh
dò đường phản ứng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nếu nghiên cứu cẩn
thận hơn, đây đó cũng có vài lý do, dữ kiện để giải thích một góc cạnh
nào đó, nhưng tất cả vẫn không đủ để giải thích được những hình thức
giết hại và sự lan rộng của những cuộc thảm sát ở Huế.
Điều mà tác giả muốn nói ở đây là một giả thuyết, để giải thích những
vấn đề liên quan đến những vụ thảm sát ở Huế, dưới hình thức sát nhân
rất đơn giản và không có sự chọn lựa.
Trước khi vào vấn đề, chúng ta nên để ý đến “ba sự thật” quan trọng. Có
hai điều chính yếu mà khách du lịch nào đến Huế để tìm sự thật về thảm
sát Tết Mậu Thân cũng đều tự hỏi: cái gì đã xảy ra? Và quan trọng hơn
nữa là tại sao nó đã xảy ra? Cả hai câu hỏi này rất khó nhận thấy qua sự
suy đoán đơn giản và thường đi ngược lại những lý luận của con người.
Sau khi đã nói chuyện, thẩm vấn một số đông những cựu tỉnh trưởng, quận
trưởng, cảnh sát địa phương lúc bấy giờ, cũng như những người đồng minh
Hoa Kỳ có tham dự trận đánh tái chiếm Cổ Thành Nội, những nhân chứng, tù
nhân đã được thả, những người cộng sản đã hồi chánh, và một số ít người
quá may mắn, tuy đã bị bắt nhưng đã thoát chết, “ba sự thật” quan trọng
này vẫn trổi lên trên hết:
SỰ THẬT THỨ NHẤT: Và có thể sự thật quan trọng nhất, là tuy không
thấy rõ bên ngoài, nhưng hầu như tất cả những vụ hành quyết đều xảy ra
không phải vì lý do nóng nảy, bực tức, hay khủng hoảng khi cộng sản phải
cuối cùng rút lui ra khỏi Huế. Nhiều lần, những lý do vừa đề cập đến đã
được nêu lên, nhưng những lý do nầy quá yếu đi, không đủ để biện minh
cho sự việc. Trái lại, nếu chúng ta xét lại từ đầu những vụ hành quyết
đầu tiên khi Việt Cộng vừa chiếm được thành phố Huế, mình sẽ thấy rằng:
gần như tất cả những vụ hành quyết này đều là kết quả của một quyết định
và sự toan tính của đảng cộng sản Việt Nam. Nói đúng hơn nữa là những
vụ hành quyết này rất cần thiết cho đảng cộng sản Việt Nam.
SỰ THẬT THỨ NHÌ: Sau khi kiểm chứng với những dữ kiện đầy đủ, hầu
như tất cả các vụ hành quyết đều do bàn tay của những đảng viên cộng
sản nằm vùng, không phải ở quân chính quy Bắc Việt hoặc QLVNCH. Trên
12,000 binh sĩ QLVNCH đã chiến đấu để tái chiếm thành phố Huế, và có thể
đã gây thiệt mạng một số thường dân vì lạc đạn. Đa số 150 tên cán bộ
chính trị nằm vùng hoạt động ở tỉnh Thừa Thiên, những người này chính là
thủ phạm đã ra lệnh thủ tiêu các nạn nhân ở Huế. Cho dù họ đã làm theo
chỉ thị của bộ chỉ huy (và ban lãnh đạo trung ương CSVN), và nếu như thế
thì những chỉ thị đó đã có lệnh như thế nào? Cho đến nay vẫn không ai
biết rõ chi tiết.
SỰ THẬT THỨ BA: Ngoài việc hành quyết những “cường hào ác bá”,
cộng sản đã giết hại những nạn nhân còn lại một cách bí mật và đã không
thèm dấu diếm tội ác của họ. Người ta bây giờ thường nghĩ đến Huế như
một pháp trường để hành quyết tội nhân, với những mồ chôn tập thể lớn.
Nhưng trong những ngày đầu tiên Huế bị chiếm đóng, chỉ có một số ít hành
quyết được bộ đội và cộng sản nằm vùng loan báo để đồng bào đến xem.
Những mồ chôn trong thành phố Huế tương đối dễ tìm thấy, vì để chôn
người nơi đông đảo rất khó dấu được những xoi bói tò mò của người xung
quanh. Tất cả những mộ tập thể còn lại đều được dấu kỹ, đa số ở vùng
rừng núi hoang dã, không người qua lại, chắc đây là lý do chính khiến
cho những nơi này đã được chọn lựa.
Một thân xác chôn vùi trong đồi cát rất khó tìm, cũng như đi tìm một vỏ
sò chôn sâu trong cát trên bờ biển với sóng biển xóa đi những dấu tích
trên chỗ chôn. Suối Đá Mài là một trong những nơi hẻo lánh nhất của Huế,
và chắc hẳn đã làm cho cộng sản rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến
đó để giết. Khi đến những nơi này, người quan sát sẽ nhận thấy rất rõ
chủ ý của Việt cộng đã có nỗ lực che đậy tội ác của họ.
Giả thuyết mà tôi (tác giả DOUGLAS PIKE) nêu lên ở đây là dự định của
cộng sản VN khi đang chiếm giữ thành phố Huế, và những vụ hành quyết họ
đã thi hành. Từ những chứng tích để lại, chúng ta có thể thấy được rằng,
họ đã không nghĩ đến tương lai của họ ở thành phố Huế, mà chỉ thi hành
những mệnh lệnh của cấp trên theo nhu cầu cần thiết, và với tình hình
thay đổi lúc bấy giờ.
Một điều quan trọng khác nữa là đã không có một dấu hiệu nào để lại, đủ
để chứng minh rằng, một lệnh hành quyết chính thức được phát ra từ Việt
cộng; Thay vào đó, những quyết định giết để bịt miệng nhân chứng thường
xảy ra theo diễn tiến của cuộc chiến. Sự liên hệ giữa hai điều vừa nêu
ra rất rõ và được chia ra vào ba phần.
Giả thuyết ở đây là Việt cộng đã phải thay đổi chiến thuật trong suốt 26
ngày tấn chiếm Huế, và cũng từ đó mà “lệnh hành quyết” cũng thay đổi để
thích ứng với nhu cầu và chiến lược. Kết luận này tôi đã có sau khi sưu
tầm những tài liệu của đảng cộng sản Việt Nam, phỏng vấn người tù số 1
và hồi chánh, tường thuật của những nhân chứng còn sống sót, những tài
liệu tịch thu được bởi QLVNCH trên chiến trường, và những đường lối nội
bộ của đảng cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ.
Chiến lược của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Communist Party of South
Vietnam - PRP) cho Phần 1 chiến dịch Đông Xuân đã được nói ra rất rõ
trong quân lệnh phát hành trong đêm ba mươi trước ngày tổng tấn công:
“…phải nhất quyết phối hợp các thành phần VC trong thành phố sau khi
chiếm được thành phố. Cấp tố trang bị vũ khí cho các cán bộ chính trị
cũng như dân sự, thành lập ủy ban quản trị từ tỉnh xuống đến quận hạt,
phường khóm, thành lập các toán dân sự chiến đấu và các cơ cấu để yểm
trợ quân đội khi chiến đấu, dùng dân để thành lập tuyến phòng không, và
nâng cao tinh thần đấu tranh của mọi giới cấp để phòng thủ khi ngụy quân
phản công...”
Đây là những dự tính và đã xảy ra như vậy lúc ban đầu. Tuy nhiên, những
ngày sau đó, những biến chuyển tình thế đã được thuật lại với chi tiết
khác nhau. Đài Hà Nội, ngày mồng bốn tháng Hai đã nói: “Sau một giờ
tấn công, Quân Đội Nhân Dân đã chiếm được biệt thự của Tỉnh Trưởng Thừa
Thiên, nhà tù và tất cả các văn phòng cơ cấu của chánh phủ ngụy... Quân
Đội Nhân Dân đã trừng trị đích đáng những tên tay sai ác độc của quân
ngụy và kiểm soát chặt chẽ các đường phố, bắt giữ những tên phản động,
phản cách mạng, và đánh sập đổ chánh phủ ngụy hà hiếp nhân dân...”
Trong thời gian ngắn ngủi chiếm đóng thành phố Huế, những cán bộ chính
trị cộng sản, tháp tùng bởi các toán hành quyết, đi bắt và giết sạch các
yếu nhân của tỉnh Thừa Thiên để chánh phủ VNCH sẽ bị yếu đi sau khi
Việt Cộng rút lui ra khỏi thành phố. Đây là giai đoạn “hành quyết theo
sổ đen”. Tòa án nhân dân được dựng lên, buộc tội, và hành quyết một cách
chớp nhoáng. Những tên cán bộ xuất hiện, tay cầm danh sách và địa chỉ
của các nạn nhân, ra tay thủ tiêu các thành phần mà chúng gọi là “phản
cách mạng”.
Những phiên tòa này thường được diễn ra ở những nơi công cộng, hoặc
trong vườn rộng dùng làm bộ chỉ huy dã chiến của việt cộng. Phiên xử
thường chỉ cần 10 phút để VC tuyên truyền, đọc cáo trạng, và buộc tội.
Không có một bị can nào được trắng án. Hình phạt luôn luôn là “tử hình”,
và thường các bị can đã bị xử bắn ngay tại chỗ. Xác của họ được chôn
gấp rút, hay trả lại cho gia đình nếu xin. Những người bị bắt xử theo
lối này, nhiều nhất là các công an, cảnh sát của thành phố, nhất là các
ban an ninh, mật vụ, quân nhân và binh sĩ, và những người không phải là
cảnh sát hay quân đội, nhưng là những vị lãnh đạo của các đảng phái,
cộng đồng, giáo sư và các tôn giáo.
Ngoài sự tấn công ác độc nhắm vào thành phần “trí thức” ở Huế, Phần 1
của chiến dịch Đông Xuân đi theo đúng phương thức hoạt động của đảng
cộng sản Việt Nam. Hủy diệt thành phần trí thức đã liên tục xảy ra trong
các làng xã trong suốt 10 năm trước đó. Sổ đen và địa điểm hoạt động đã
được chọn lựa kỹ càng trước, Việt cộng chỉ chờ cơ hội để thi hành những
dự tính này mà thôi.
Tuy nhiên, không phải mọi người trong “sổ đen” ở Huế đã bị sát hại. Rất
nhiều người trong sổ đen đã chạy trốn vào vùng thôn dã và đã thoát chết.
Suốt cuộc chiến 24 ngày liền, trong những ngày đầu, cán bộ cộng sản rất
bận rộn truy lùng tìm bắt tất cả mọi người trong sổ đen, nhưng sau đó,
họ đã chuyển mọi nỗ lực vào các công tác mới khi đã không bắt được hết
tất cả.
HUẾ: GIAI ĐOẠN HAI
Trong những ngày đầu, cuộc tấn công Tết Mậu Thân ở Huế đã thành công khá
dễ dàng (nhưng ở miền Nam thì lại khác, Ủy Ban Đảng Cộng Sản Trung Ương
đã nhận những bản báo cáo về kết quả không được mỹ mãn cho lắm từ vùng
đồng bằng sông Cửu Long) nên trong say mê chiến thắng, Việt Cộng tưởng
họ có thể giữ được thành phố Huế lâu dài. Có thể, các đảng viên cao cấp
đã không dám nghĩ đến quyết định tử thủ dài hạn ở Huế, nhưng đối với cấp
cán bộ tại làng xã thì họ đã vững tin như thế. Một thông tin mật của
cộng sản bị VNCH bắt nghe được trong ngày Mồng Hai tháng Hai, kêu gọi
các cán bộ ở mọi hạ tầng cơ sở phải quyết tâm tử thủ Huế, đã tuyên bố
như sau:
“Một giai đoạn mới trong lịch sử, một cuộc cách mạng đã bắt đầu (vì
chiến thắng ở Huế) và chúng ta chỉ cần đánh nhanh đánh mạnh (ở Huế) để
kết thúc cuộc giải phóng trong thắng lợi vinh quang.”
Tờ báo chính thức của đảng cộng sản, Nhân Dân, cũng đã tuyên bố như thế:
“Như một tia sét, đảng và nhân dân đã tổng tấn công đế quốc Mỹ và các
tay sai đế quốc Mỹ... Guồng máy Ngụy đã bị tiêu hủy. Những bộ phận cơ
cấu của Mỹ-Ngụy đã bị cách mạng đánh tan rã. Chính phủ Thiệu-Kỳ sẽ hoàn
toàn sụp đổ. Quân tay sai đế quốc Mỹ đã trở thành yếu hèn và sẽ không
thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi các chiến sĩ cách mạng.”
Đương nhiên, những tin tức này luôn luôn để tuyên truyền và mê hoặc quần
chúng, thường các tin tức loan tải bởi cơ quan truyền thông của đảng
cộng sản là như thế. Muốn biết được những điều này là sự thật hay chỉ là
ước nguyện của đảng cộng sản thì thật rất khó phân biệt. Nhưng từ những
cuộc phỏng vấn các tù binh và hồi chánh viên, cũng như bắt được làn
sóng để nghe lén những mật tin của cộng sản, các cán bộ cao cấp cũng như
lính cộng sản đều đã tin rằng, họ sẽ chiếm giữ thành phố Huế mãi mãi,
và họ đã cố gắng làm như vậy.
Giữa những việc họ làm là tiếp tục thanh trừng những phần tử phản động
còn lại và bắt đầu xây dựng lại hạ tầng cơ sở mới cho đảng và do đảng.
Chỉ thị mới được ban hành, từ ủy ban chính trị trong thành phố, cho các
cán bộ Việt cộng đi truy lùng và bắt những phần tử “chống cách mạng”, có
nghĩa là, bất cứ những cá nhân hoặc tổ chức nào có khả năng và nhân lực
để đi ngược lại đường lối của đảng trong tương lai. Chỉ thị này rất mơ
hồ, và đã không dựa lên phương pháp “sổ đen” nữa, mà ủy thác toàn quyền
quyết định đến người thi hành chỉ thị. Lần này, mục tiêu không còn là
vài nhóm người nữa, mà là “tổ chức hoặc giai cấp trong xã hội.”
Như đã thấy trước đây ở ngoài Bắc Việt hoặc ở Trung Cộng, đảng cộng sản
lúc nào cũng san bằng những giai cấp trong xã hội, tiêu diệt những người
trí thức, lãnh tụ các đảng phái chính trị, các vị lãnh đạo tinh thần
của các tôn giáo (các cao tăng Phật Giáo, các Linh Mục Công Giáo), các
đảng phái, các tổ chức xã hội (đàn bà, tuổi trẻ, hướng đạo), ngay cả
những sinh viên thân cộng trước đây nhưng vì gia đình khá giả thuộc loại
tư bản.
Cũng như thế, đôi khi cả gia đình đều bị sát hại dưới bàn tay cộng sản.
Trong một trường hợp khá nổi tiếng do nhiều nhân chứng thuật lại như
sau:
Một toán cán bộ ám sát đã xông vào một căn nhà của một người có
địa vị trong thành phố Huế, bắn ông ta, vợ ông ta, con trai và con dâu,
con gái còn nhỏ, hai người đầy tớ và đứa bé con của họ! Ngay cả con mèo
cũng bị bóp cổ cho chết, con chó thì bị đập vỡ sọ, những con cá vàng
trong chậu cũng bị đổ ra sàn nhà giãy giụa chết. Sau khi những tên cán
bộ bỏ đi, trong nhà không còn một ai sống sót. Một “cơ cấu xấu của xã
hội” đã bị tiêu diệt!!!
Giai đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí
thức, giai cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt
Nam. Những học giả còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này như một mối
thù truyền kiếp của cộng sản đối với giới trí thức của Huế, mà đại đa
số là những người tuyệt đối chống cộng, đã không màng đến CSVN.
Những học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản như một ý thức “đến
sau”, sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng sản. Cố Đô
Huế, một thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo lý
Khổng Tử, cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ
nghĩa cộng sản kể từ những năm đầu trong thập kỷ 1920, 1930.
Huế không màng biết tới cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện
Đại Học Huế, một lớp học về các chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời
gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về
chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý thức cộng sản không có
gì mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có chiều sâu, cũng
như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng Tử
hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi
sâu với nhân tánh như đạo Phật.
Vì thế nên những người cộng sản gốc Huế, khi đã thấm nhuần và mù quáng
bởi chủ nghĩa cộng sản, đã trở thành những kẻ vô tri, vô hồn khi bị hất
hủi bởi những giới trí thức khác hay tôn giáo ở Huế. Hoặc tệ hơn nữa,
thay vì bị hất hủi, họ đã bị loại hẳn ra khỏi giới trí thức Huế. Vì thế,
với sự trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào chủ thuyết cộng sản, họ
đã tìm cách trả thù và san bằng những sự khác biệt này. Những người trí
thức còn sống sót đã phải trả một giá rất đắt cho bài học này, từ đó họ
đã chú ý đến và e sợ cộng sản hơn, nếu không là một chủ thuyết chính
đáng, ít nhất cũng phải là một nhóm cuồng tín vô thần rất nguy hiểm!
Trong giai đoạn 2, có lẽ khoảng 2,000 người đã bị cộng sản giết
hại. Nhưng đó vẫn chưa phải là giai đoạn sát hại khủng khiếp nhất.
HUẾ: GIAI ĐOẠN BA
Cuối cùng rồi, cũng như Trung Ương Cộng Sản ở Hà Nội đã biết trước (vì
đã hiểu rõ thế và sức mạnh của QLVNCH và đồng minh), con cờ đã xoay
chuyển trong cuộc chiến ở Huế. Một bản mật tin truyền đi từ Thành Nội
(bị QLVNCH nghe được) bởi đám tàn quân Việt Cộng ngày 22 tháng Hai, xin
ban tham mưu hành quân cho phép được rút quân. Bản trả lời như sau từ bộ
chỉ huy: không cho phép rút quân, ngày hôm sau, 23 tháng Hai, phải tấn
công nữa. Trận tấn công ngày 23 đã xảy ra, nhưng rất yếu ớt, không gây
thiệt hại gì cho bên VNCH và đồng minh. Vào ngày 24 tháng Hai, Thành Nội
được giải tỏa khi VC bị đánh bại.
Từ tuần trước đó, Cộng Sản Việt Nam đã thấy rõ sự thất bại sẽ phải đến.
Khi đó, giai đoạn 3 mới bắt đầu: giai đoạn thủ tiêu nhân chứng và tang
chứng. Có thể trong suốt giai đoạn 2, hầu hết tất cả những việt cộng nằm
vùng ở Huế đã bị lộ mặt nạ. Ngay cả những cán bộ nằm vùng trước đó, dù
đã không bao giờ bị nghi ngờ là VC, nay cũng đã ra mặt (vì tin tưởng
rằng Huế đã và sẽ mãi mãi thuộc vào tay cộng sản). Chuyện thường tình
như một dân Huế kể lại sự ngạc nhiên của ông khi biết được người hàng
xóm bên nhà là một cán bộ nằm vùng cao cấp trong hàng ngũ MTGPMN (hắn là
một cán bộ cao cấp trong thành phố Huế): “Tôi biết ông ta 18 năm nay,
mà không bao giờ nghĩ đến ông ta có thể hoạt động chính trị như vậy.”
Những người cán bộ này nằm vùng rất lâu, và chỉ lộ diện mỗi khi không có
ai hay biết để giữ kín tông tích của mình.
Vì thế, giai đoạn 3 khởi đầu để “bịt miệng nhân chứng”. Có
thể giai đoạn này, số nạn nhân lên cao nhất ở Huế, cũng vì lý do này.
Những người trước đó bị bắt đi học tập với ý định ban đầu là sẽ thả họ
về. Nhưng vì là dân làng, cũng như những tên cán bộ nằm vùng đã bắt họ;
tên tuổi và mặt mũi của những cán bộ này giờ đã lộ. Vì thế, họ đã phải
chết, không phải vì là một con nợ hay gánh nặng, nhưng vì họ sẽ trở
thành những người tố cáo những tên nằm vùng. Ví dụ rõ ràng nhất là nhóm
người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 em học sinh
trung học bị chôn ở Phú Thứ trong các gò muối biển.
Việc tìm những tài liệu lịch sử để đi đến một kết luận cho lý do tại
sao, dựa trên một vài giả thuyết, đương nhiên sẽ có chỗ đúng chỗ sai, và
chỉ vẽ lại một hình ảnh khá sơ sài cho độc giả. Sự việc xảy ra ở đời
thường không đơn giản như bài viết. Ví dụ như, cho dù trong suốt thời
gian những vụ hành quyết dựa vào “sổ đen” đang xảy ra, đương nhiên cũng
có những chuyện trả thù theo “đường lối công bằng của cách mạng”. Và
chắc chắn cũng có những vụ trả thù riêng tư giữa những cán bộ với người
họ ghét bỏ!
Quan điểm chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thảm sát ở Huế được nói rõ ra trong một cuốn sách nhỏ phát hành ở Hà Nội:
“Liên kết và phối hợp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và nhân dân,
những toán nhân dân võ trang và cán bộ võ trang thành phố Huế đã bắt giữ
và kêu gọi những tay sai đế quốc, sĩ quan VNCH và binh lính của quân
ngụy ra đầu hàng. Những tên ngoan cố đã được trừng trị đích đáng.”
Ở Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công
bố việc thảm sát này không phải do bàn tay của đảng Cộng Sản, mà chính
là hành động của những cán bộ ở Huế bất mãn với chế độ. Tưởng cũng nên
nhắc lại: vào ngày 26 tháng Tư năm 1968, Đài Giải Phóng Hà Nội đã chê
trách việc chính phủ VNCH cố tìm xác của các nạn nhân, đài đã phát thanh
rằng những người bị giết hại chỉ là “những tên tay sai đã nhúng tay vào
máu của nhân dân yêu nước ở Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
giết hại vào tháng Ba tháng Tư.”.
Những lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế bởi một lý do khác là
“thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các đảng
phái ở Huế mà thôi.”
trích từ "Viet Cong Strategy of Terror” trang 23 đến trang 29
Ngô Xuân Hùng
Thung Lũng Hoa Vàng,
ngày 15 tháng Tám, năm 2002.
(Thứ nam của Cố Đại Tá Ngô Thế Linh,
Phó Giám Đốc Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Xin ghi nhận và chân thành cảm tạ cố Giáo Sư Douglas Eugene Pike, trường Đại Học Texas Tech, Texas, U.S.A
Copy từ: Dân Làm Báo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét