Lê Mạnh Chiến
VÀI LỜI CỦA TÁC GIẢ NHÂN
VIỆC ĐĂNG BÀI
LÊN MẠNG INTERNET
Bàì này được viết theo lời nhắn nhủ từ
một biên tập viên của báo Người Đại biẻu
Nhân dân (nay là báo Đại biểu Nhân dân). Trước đó, tác giả đã viết
bài 170
sai lầm trong mọt cuốn từ điển và đã gửi cho tạp chí Thế
Giới Mới để đăng nhiều kỳ, nhưng chỉ
mới đăng được 6 kỳ (từ số 582 ra ngày 26/4/2004 đến số 587 ra ngày
31/5/2004) với 67 ví dụ thì bị dừng lại. Tác giả đã đến Văn phòng đại diện của
tạp chí Thế Giới Mới ở Hà Nội để tìm hiẻu sự tình và được một biên tập viên
ở đó cho biết, đại ý như sau: “Bài này
được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt vì đã vạch rõ những cái sai nghiêm trọng
trong hai cuốn tư điển. Tuy nhiên, dẫu chưa nêu rõ ai là tác giả của quyển từ điển
có hại kia nhưng nhiều độc giả đã phát hiện ra GS Nguyễn Lân, mà như ông
(LMC) đã biết, GS Nguyễn Lân được coi là
một ngôi sao của ngành giáo dục
Việt Nam, còn tạp chí Thế Giới Mới là
cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, cho nên, nếu “vạch áo cho người xem lưng” một cách
kỹ quá thì cũng có phần “bất tiện”. Nghe
vậy, tác giả rất thông cảm và biết ơn tạp chí Thế Giứo Mới .
Dường như
hiểu được khó khăn của tác giả trong việc công bố một bài “rất đáng được phổ biến rộng rãi” nên vị biên tập viên
đáng kính của báo ĐBND đã nhắn tin qua
nhà văn Vương Trí Nhàn và nhắc rằng, do chức năng và khuôn khổ của báo ĐBND,
nên chỉ có thể đăng được bài ngắn mà thôi. Thế là tác giả
phải gói ghém lại trong khoảng 4000 chữ, với 20 ví dụ về những lầm lỗi của GS
Nguyễn Lân. Vì phải đụng chạm với một
ngôi sao trong làng từ điển tiếng Việt (được trao tặng Giải thưởng nhà nước năm
2001 về khoa học và công nghệ cho "Cụm công trình về giáo dục học từ điển
tiếng Việt") nên tác giả phải ‘dè dặt”, bèn đặt tiêu đề là “Những quyển từ
điển có rất nhiều sai lâm”. Trong khi đó, tác giả cũng gửi bài gần giống
bài này (lấy những ví dụ khác) cho tạp chí Nghiên cứu
và Phát triển với tiêu đề “Hai quyển từ điển có hại cho tiếng Việt”
thì được BBT tạp chí này thêm một chữ “rất’” (trở thành “Hai quyển từ điển rất có hại
cho tiếng Việt”) và đăng ngay. Tạp
chí Văn hóa Nghện An số 56 (tháng 01/2005) cũng đăng bài này với tiêu
đề ấy. Tác giả rất cảm ơn và thấy đúng là phải đặt tiêu đề như thế.
Bởi vậy, ở đây, tác giả xin lấy tiêu đè như tạp chí Nghiên cứu và Phát triển đã sửa chữa giùm.
Cũng xin nói thêm về “số phận”
của bài này sau khi được đăng trong 2 số
báo
Người Đại biểu Nhân dân (số 67 và 68,
ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005).
Sau khi bài này được đăng trên báo Người Đại biểu Nhân dân chừng hai tháng, nhân khi tác giả đến tòa
soạn để nộp một bài khác (hình như là
bài “Chớ nên bịa đặt cứ liệu lịch sử” nói về việc bịa đặt cứ liệu lịch sử trong sách
Lịch sử Hà Tĩnh, nói rằng sách Đường
thư đã ghi chép việc “Mai Thúc Loan từng làm phu gánh quả vải tươi sang kinh đô
Trường An, mà tất cả các nhà sử học hàng
đầu, được gọi lả “tứ trụ” của giới sử học đều phạm phải) nên đã hỏi thăm về
phản ứng đối với bài “Những quyển từ
điển...” Tác giả được biết rằng, tình hình ở đây tuy giống như ở tạp chí Thế Giới Mới (bài báo được
hoan nghênh) nhưng có hơi khác một chút xíu. Số là, ngay trong
ngày 27/4/2005, nghĩa là khi bài báo
mới in được một nửa, GS Nguyễn Lân Dũng đã gọi điện thoại đến tòa soạn
(vì ông là đại biểu Quốc hội, được phát báo đến
tận tay), cực lực phản đối việc đăng bài
này, với lý do đại để nói rằng
”GS Nguyễn Lân là một nhân vật nổi tiếng
đã “thành danh”, sao dám làm mất uy tín của ông? Ban biên tập đã trả lời đại ý
là: “Vì thấy bài này viết rất chặt ché,
có chứng cứ đầy đủ, rất có trách nhiêm
và rất bổ ích nên chúng tôi đăng. Còn
nếu đòng chí thấy có gì sai thì cứ viết bài phê phán, chúng tôi sẽ đăng ngay”. Từ đó đến
nay đã gần 8 năm trôi qua mà vẫn không
thấy GS Nguyễn Lân Dũng hoặc bất cứ ai
vạch được điều gì sai trái của tác giả. Điều đó chứng tỏ rằng, những sai lầm
nghiêm trọng của GS Nguyễn Lân mà tác giả Lê Mạnh Chiến đã phê phán là hoàn
toàn chính xác, không thể bác bỏ. Sự im lặng của GS Nguyễn Lân Dũng và của
những người mê tín GS Nguyễn Lân là bằng chứng hùng hồn nhất để khẳng định điều
đó.
Mặc dầu những người muốn phản đối
bài báo này đều đành phải bó tay nhưng tác giả vẫn cảm thấy rất đáng buồn, bởi
vì, tuy người ta vẫn luôn mồm nói câu “Giữ gìn sự trong sáng của tiéng Việt”
nhưng báo Giáo dục và thời đại thì từ
chối, không đăng bài nói về mối hại đối với tiếng Việt, Bộ Giáo dục thì coi như
không có vấn đề gì xẩy ra. Đặc biệt, GS Nguyễn Lân Dũng, một đại biểu Quốc hội
được tiếng là thẳng thắn, cương trực, vì dân, v.v. thì lại cực lực phản đối bài
báo rất cần cho dân, sau đó, liên tục cho tái bản hai quyển từ điển rất có hại
cho tiếng Việt mà vẫn không có ai lên tiếng. GS tiêu biẻu, được coi là chuyên gia hàng đầu về tiếng Việt, ngôi sao của
ngành giáo dục thì như vậy,
GS Đại biẻu Quốc hội thì như vậy, Bộ
Giáo dục thì như vậy, các trường đại học và cả một đội ngũ giáo sư đông đảo ...
tất cả đều thờ ơ với số phận của tiéng Việt như vậy, thử hỏi, làm sao mà nền giáo dục không “xuống
cấp”, văn hóa không lụn bại, đạo đức không suy đồi? Tác giả tuy có quyền tự
hào nhưng vẫn mang trong mình một nỗi
đau khôn nguôi.
Bao giờ
nền giáo dục nước ta mới hồi sinh?
Bài
này được viết đã lâu nhưng chưa hiện diện trên mạng Intternet. Nhưng, nhận thấy nó còn giữ nguyên ý nghĩa thời sự, tác giả
mong được các blogger cho phổ biến tới đông đảo độc giả. Sau đây là bài mà báo Người
Đại biểu Nhân dân đã đăng ở số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4
năm 2005.
-------------------------
Mùa thu năm 2003, thầy giáo
về hưu H.H.Phúc ở Hà Tĩnh có đưa cho chúng
tôi xem một quyển từ điển giải nghĩa các từ Hán-Việt dày hơn 860 trang, mà theo thầy thì nó rất tồi
tệ, rất có hại cho người sử dụng vì nó có quá nhiều sai lầm nghiêm trọng. Thầy
đề nghị chúng tôi đọc và phận tích, phê phán những chỗ sai để cảnh báo trước
toàn xã hội về tai hại của nó. Chúng tôi liền mở ra xem, lướt qua vài chục tờ ở
vần A thì giật mình khi thấy ở từ ác ôn,
soạn giả giải thích rằng, ôn nghĩa là
bệnh dịch. Thực ra, vốn là 惡 棍ác côn, do sự biến
âm chút ít mà thành ra ác ôn. Chữ côn có nghĩa gốc là câí gậy và nghĩa mở rộng là kẻ
hư hỏng; nó có mặt trong các từ du
côn, côn đồ. Do đó, ác ôn
là kẻ hư hỏng, gây nhiều tội ác. Lướt qua vài trang, gặp từ anh hùng thì thấy giải thích rằng, hùng nghĩa là loài thú khỏe nhất. Tuy từ điển này không ghi chữ Hán, nhưng qua
cách giải thích như vậy thì ta biết rằng, soạn giả nghĩ đến chữ hùng (熊) nghĩa là con gấu. Nhưng, trong từ anh
hùng 英雄thì hùng (雄) nghĩa là người có tài trí kiệt xuất. Cách giải thích các từ tố ôn và hùng như thế chứng tỏ rằng soạn giả không hề biết chữ Hán (mặc dầu
có thể đã từng đi học chữ Hán, nhưng « chữ của thầy đã trả
hết cho thầy » rồi), mà chỉ đem lời đoán mò để giảng giải các từ ngữ
Hán-Việt, may ra thì đúng. Lật vội mấy trang nữa, liếc vào từ đại
sứ 大使, một từ rất
quen thuộc, ta lại phải kinh ngạc vì ở từ này, chữ đại nghĩa là lớn (大) thì soạn giả lại giảng rằng đại
nghĩa là thay thế (代).
Chỉ với ba ví dụ vừa nêu cũng đủ để kết
luận ngay rằng, quyển từ điển này không đáng tin cậy và rất có hại cho người sử
dụng nó. Lúc bấy giờ, chúng tôi chưa viét ai là người biên soạn, vì quyển sách
bị xé mất mấy trang đầu và vài trang cuối. Thầy
H.H. Phúc bảo tôi : « Rồi ta sẽ biết tên sách và tên tác giả
thôi, nhưng trước mắt, ông nên chiu khó đọc và phát hiện thêm nhều sai lầm
trong đó để cảnh báo trước công luận về mối nguy hại do nó gây ra ». Tôi đồng
ý với thầy vì thấy điều đó là cần thiết, hơn nữa, tôi cũng có chút tò mò, muốn
biết soạn giả này liều lĩnh và vô trách
nhiệm đến mức nào. Thế là tôi phải đọc tương đối kỹ hơn, và bước đầu đã phát hiện
được khoảng 170 sai lầm trong cuốn từ điển này.
Tạp chí Thế Giới Mới từ số 582 đến số 587 (từ ngày 26.4. đến
31.5.2004 ) đã công bố bài 170 sai lầm trong
một cuốn từ điển nhưng độc giả chưa biết tên cuốn từ điển đó. Bài ấy đã được đang liên
tiếp trong 6 kỳ mà chỉ mới nêu được 68 từ phạm sai lầm. Nhưng, như thế cũng đủ cho thấy
nhiều sai lầm rất đáng sợ mà soạn giả đã phạm phải.
Sau đó, được một số độc giả mách bảo,
chúng tôi đã xác định được rằng, quyển sách chứa hàng đống sai olầm kia chính
là Từ điển từ và ngữ Hán Việt của GS Nguyễn Lân (bản mà chúng tôi đã đọc
là của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, HN, 2002). Một số độc giả còn cho biết
thêm rằng, những sai lầm mà chúng tôi đã nêu đều có mặt đầy đủ trong quyển Từ
điển từ và ngữ Việt Nam (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000), mà
người biên soạn cũng chính là GS Nguyễn Lân. Chúng tôi đã đối chiếu hai quyển với
nhau thì thấy rằng, Từ điển từ và ngữ Việt
Nam (2112 trang) chứa gần như trọn vẹn cả Từ điển từ và ngữ Hán Việt (867 trang), cho nên, những từ bị giảng
sai trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt
thì đều có mặt trong Từ điển từ và ngữ Việt
Nam. Ngoài ra, chúng tôi cũng được đọc bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, trong quyển Những
tiếng trống qua cửa các nhà sấm của tác giả Huệ Thiên (do Nhà xuất bản Trẻ
phát hành vào quý 3 năm 2004; bài này được in lại từ tạp chí Văn ở TP Hồ Chí
Minh , số 6, tháng 9 và số 8, tháng 11 năm 2000), trong đó, tác giả chỉ mới ‘’đọc lướt’’ các vần A, B, C (chiến 1/5 quyển
sách) mà đã vạch ra được 117 điều ‘’chưa ổn’’. Những ý kiến phê bình của ông Huệ
Thiên rất xác đáng. Tuy nhiên, vì chỉ mới ‘’đọc lươt’’ cho nên trong phần mà
ông đã đọc qua vẫn còn những sai lầm nghiêm trọng chưa bị phát hiện. Từ đó,
chúng ta biết rằng, ngoài những sai lầm
giống như ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt
(mà chúng tôi đã tìm thấy hơn 200 trường hợp), Từ điển từ vầ ngữ Việt Nam còn chứa vô số sai lầm khác nữa, rất có
hại cho việc học tập và giảng dạy tiếng Việt.
Như vậy, riêng GS Nguyễn Lân đã biên soạn
ra hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng
Việt. Điều này làm cho nhiều người đau lòng, nhưng đó là sự thực không thể chối
cãi . Với số lương sai lầm nhiều đến mức ấy thì phải in thành sách hoặc đăng
nhiều kỳ liên tiếp mới có thể tải hết được. Trong phạm vi một bài viết cho một
lần đăng báo, chúng t ôi chỉ có thể nêu vài chục ví dụ về những sai lầm nằm
trong cả hai quyển từ điển kể trên để độc giả chứng giám.
1. ẩn lậu 隱漏
Theo soạn
giả thì ẩn = giấu kỹ, lánh đi,
ngầm; lậu = rỉ ra ngoài, và ẩn lậu nghĩa là giấu giếm,
không thẳng thắn nói ra. Quả thật, trong chữ Hán, chữ lậu 漏 này có nghĩa là rỉ ra ngoài. Nhưng như thế thì
các từ tố ẩn và lậu có vẻ như trái nghĩa với nhau, bởi vậy, giải
nghĩa như vậy là không thoả đáng, mà có thể nói là sai. Chữ lậu còn có
vài nghĩa khác nữa, mà trong trường hợp này nó có nghĩa là lọt, là thoát
(lậu võng nghĩa là lọt lưới), cũng là trốn tránh mà thôi.
Vậy ta có thể nói rắng, ẩn lậu nghĩa
là giấu giếm, là lẩn tránh. Soạn giả định nghĩa rằng, ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng
thắn nói ra là để “khắc phục” điều mâu thuẫn mà ông cũng nhận thấy như
chúng tôi chăng, nhưng, không thẳng thắn nói ra nghĩa là nói một cách
ấp úng vì sợ sệt, hoặc là ở trong tình thế không thể giấu giếm được
nên đánh phải nói ra chứ đâu có phải là ẩn lậu.
2. bàn hoàn 盤桓
Từ bàn hoàn
có hai nghĩa: a) quanh quẩn không dứt ra được; b) quấn quýt với nhau. Giải
thích như thế cũng tạm được. Về các từ tố, soạn giả cho rằng, bàn là quanh
co, hoàn là uốn éo. Thực ra, bàn 盤 nghĩa là vòng
vèo, còn chữ hoàn 桓 này có các
nghĩa như sau: a) cột gỗ dựng bên cạnh các dịch trạm (tức là trạm chuyển công
văn) hoặc các công thự để quy định vị trí đứng đợi. Như vậy, từ bàn hoàn
盤桓 có nghĩa ban đầu
là đi lại quanh quẩn cái cột mốc để mong ngóng. Về sau, nó có nghĩa mở rộng là
bồi hồi, vương vấn, và quấn quýt.
3. bắc thần 北辰
Bắc thần nghĩa
là Sao bắc cực. Chữ thần 辰 này có nhiều nghĩa, trong đó, có nghĩa là thiên thể, là
tinh tú, là ngày tháng, là đế vương (khác hẳn với chữ thần 臣 nghĩa là kẻ
bề tôi hoặc chữ thần 神 trong từ tinh thần 精神). Trong trường hợp này, thần 辰 có nghĩa là
ngôi sao. Nó còn có âm là thìn để chỉ ngôi thứ 5 trong 12 ngôi địa chi (tí, sửu,
dần mão, thìn, tị…) Soạn giả đưa ra một định nghĩa rất dài dòng: bắc thần là
ngôi sao sáng hình như đứng yên một chỗ trên bầu trời và giúp ta xác định hướng
chính bắc. Ðịnh nghĩa này không sai nhưng quá rườm ra. Ðiều không thể tha thứ
được là, ông đã “phán” bừa rằng, “thần”
nghĩa là tinh thần.
4.. bị cáo 被告
Bị cáo là người bị tố cáo và bị toà án đem ra
xét xử. Soạn giả đã hiểu đúng nghĩa của từ này, nhưng thật đáng ngạc nhiên khi
thấy ông giải thích rằng, cáo nghĩa là báo cho biết! Nếu đúng như
vậy thì từ bị cáo chẳng liên quan gì với việc báo cho biết. Ðành
rằng, chữ cáo 告 cũng có nghĩa là báo cho biết, nhưng nó còn có một
số nghĩa khác nữa, mà cụ thể ở đây là buộc tội, vạch tội.
5. bức xạ 輻射
Theo soạn giả,
bức nghĩa là bắt buộc, xạ nghĩa là bắn; bức xạ
là sự phát và truyền năng lượng dưới dạng sóng và dạng hạt. Có thể chấp
nhận định nghĩa này về bức xạ. Nhưng soạn
giả đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi ông đoán liều rằng, bức nghĩa là bắt
buộc. Chữ "bức" 輻 ở đây (khác hẳn chữ bức
逼 là bắt buộc) có nghĩa gốc là nan hoa ở bánh xe,
và có nghĩa mở rộng là toả ra khắp mọi phía xung quanh.
6. cử tọa 擧座
Về từ tố cử, soạn giả nêu ra các nghĩa: cất lên, đưa lên, nổi dậy, thi đỗ ;
còn tọa thì có nghĩa là ngồi. Thực ra, chữ tọa 座 ở đây có nghĩa là chỗ ngồi (khác với chữ tọa 坐 nghĩa là ngồi).
Về chữ cử, ngoài vài nghĩa mà soạn giả
đã nêu, còn có nhiều nghĩa khác, trong đó có nghĩa là tất cả., và đó chính là nghĩa của nó trong từ cử tọa. Vì thế, cử tọa
nghĩa là tất cả những người ngồi dự một
cuộc họp
7. dạ hợp 夜合
Theo lời soạn giả thì dạ = ban đêm;
hợp = thích hợp; và, dạ hợp là một loài cây cùng họ với ngọc lan,
hoa trắng rất thơm, nở về ban đêm. Cách cắt nghĩa từ tố hợp
như trên đã khiến ông tin rằng, dạ hợp nghĩa là thích hợp với ban đêm
nên loài hoa này ắt phải nở về đêm! Ðó là một điều sai nghiêm trọng. Ðúng là chữ
hợp 合 có một nghĩa là thích hợp, là phù hợp,
nhưng nó còn có nhiều nghĩa khác nữa. Trước hết, nghĩa ban đầu của nó là khép
lại, mà đó cũng chính là nghĩa cụ thể trong từ dạ hợp 夜合. Từ điển Từ nguyên nói về cây dạ
hợp như sau: mộc bản, diệp trường, hoa thanh bạch sắc, hiểu khai dạ hợp,
cố danh. Nghĩa là: thân gỗ, lá dài, hoa màu trắng xanh, trời sáng thì nở,
ban đêm thì cụp lại, do đó mà có tên ấy. Như vậy, vào ban đêm, hoa dạ hợp
không thể nở được, dẫu đã nở rồi cũng phải cụp lại.
8. Ðịa Trung Hải 地中海
Ðịa là đất,
là lục địa; trung là ở trong, ở giữa; hải là
biển. Ðịa Trung Hải là biển ở trong lục địa. Tuy nhiên, từ
này đã trở thành tên riêng để chỉ một biển cụ thể, có diện tích 25 triệu km2,
nằm ở phía nam Châu Âu, phía bắc Châu Phi, phía tây Châu Á, thông với Ðại Tây
Dương qua eo biển Gibraltar và thông với Biển Ðỏ qua kênh đào Suez. Ðiều đáng
ngạc nhiên là, sau khi giải thích rằng, Ðịa Trung Hải là biển ở giữa lục địa,
soạn giả đưa ra một câu ví dụ: Biển Caxpiên của Liên xô là một địa trung hải.
Như vậy, ông đã không định nghĩa được từ Ðịa Trung Hải, lại còn dùng từ này như
một danh từ chung, với nghĩa là cái hồ lớn. Hơn nữa, biển Caxpiên còn có 43 200 km2 thuộc chủ quyền của Iran chứ không hoàn
toàn thuộc Liên xô trước đây.
9. đồng lõa同伙
Có lẽ ai
cũng biết rằng, từ đồng lõa có hai nghĩa: 1) người trong cùng một nhóm để làm một
việc bất chính (danh từ), và 2) cùng tham gia một nhóm làm việc bất chính (động
từ). Soạn giả dạy rằng, lõa là cái bọc. Thực ra, lõa là âm đọc chệch từ chữ hỏa
火 nghĩa là lửa,
là bếp. Theo binh chế thời xưa, mười
người lính thì cùng nấu một bếp, tạo thành một hỏa, như một tiểu đội vậy. Đồng
hỏa 同伙 (chữ
hỏa 火 ở đây thường được viết là 伙 để chỉ người)
nghĩa là người trong cùng một bếp ăn, mở rộng ra là bọn người cùng một nhóm
«làm ăn với nhau » (thường là bất chính.)
10. giám quốc 監國
Soạn giả cho biết:
giám nghĩa là trông coi, quốc là nước. Đúng. Nhưng
ông định nghĩa rằng, giám quốc là người đứng đầu một nước cộng hoà tư
sản thì sai to. Càng sai nữa khi ông viết rằng, Ngày nay người ta dùng từ
“tổng thống” để thay từ “giám quốc”. Thực ra, giám quốc là người cầm quyền
tạm thời khi vua vắng mặt hoặc khi vua còn nhỏ. Ví dụ, năm 1908, Phổ Nghi
lên ngôi khi mới hai tuổi, đình thần nhà Thanh đã cử cha của ông ta là Tải Thuần
làm giám quốc. Cuối năm 1787, tướng của
Nguyễn Huệ là Vũ Văn Nhậm ra Bắc giết
Nguyễn Hữu chỉnh rồi lập Sùng Nhượng Công
Lê Duy Cận (chú của Lê Chiêu Thống ) làm giám quốc vì Lê Chiêu Thống đã chạy khỏi kinh thành để cầu cứu quân
Thanh. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, ông vẫn để Lê Duy Cận làm giám quốc.
11. kinh lạc經絡
Soạn giả cho biết rằng, chữ kinh
經có các nghĩa:
sửa trị, đường dọc, sách vở, từng trải, thường. (Chúng ta hiểu rằng,
trong từ kinh lạc, thì kinh
có nghĩa là đường dọc). Còn chữ lạc thì ông cho rằng,
đó là dây thần kinh, và, kinh
lạc là hệ thống dây thần kinh nối liền các huyệt. Nhưng, theo từ điển Từ hải thì kinh lạc là mạng lưới các đường vận chuyển khí huyết (theo quan niện
của Đông y, gần có nghĩa như năng lượng) trong cơ thể. Kinh 經là những đường chính chạy theo chiều dọc của cơ thể; lạc絡 là những đường
nối ngang giữa các đường dọc ấy ; các huyệt châm cứu đều nằm trên mạng lưới
kinh lạc. Hệ kinh lạc khác hẳn hệ thần kinh, và các đường kinh lạc không trùng
với các dây thần kinh.
12. linh sàng 靈床
Linh là thiêng
liêng, là liên quan đến người chết; sàng là cái giường.
Các từ tố này đã được soạn giả giải nghĩa đúng. Nhưng ông cho rằng, linh
sàng là giường thờ người mới chết chưa đem chôn. Nếu như vậy thì phải
chăng Nguyễn du đã dùng sai từ này ở hai câu thơ trong Truyện Kiều :
Sang nhà cha, tới trung đường,/ Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Thật ra, từ linh sàng có hai nghĩa: 1) giường đặt thi thể người chết khi đám tang ; 2) cái bàn nhỏ đặt
trước bàn thờ, làm ‘’chỗ nghỉ ‘’ cho linh hồn người chết khi chưa hết
tang. Đó chính là cái «giường thờ», rồi từ đó, dân ta cũng gọi cái bàn
thờ là «giường thờ» khiến nhiều người, kể cả những người biên soạn từ điển
tiếng Việt đã định nghĩa : «giường thờ»
là bàn thờ tổ tiên, cao và rộng ! (Hoàng Phê). Trong hai câu thơ
trên đây, linh sàng mang nghĩa thứ hai.
13.
lộng hành 弄行, lộng quyền 弄權
Lộng hành nghĩa là hành động một cách coi
thường mọi người. Lộng quyền nghĩa là đem quyền hành ra
làm trò đùa, muốn làm gì thì làm, chẳng kể gì đến phép tắc luật lệ. Chữ lộng
弄 có một số nghĩa thông thường là: chơi đùa; đem sự vật
khác hoặc sự việc khác ra làm trò đùa; khinh nhờn, coi thường. Với nghĩa
như thế, người ta còn có từ lộng nguyệt, nghĩa là chơi đùa với trăng, tức
là vui chơi dưới ánh trăng, lộng ngôn là nói năng bừa bãi, thích nói gì
thì cứ nói, và lộng bút nghĩa là viết lách vô trách nhiệm, không biết
cũng viết bừa, coi thường mọi người. Tiếc thay, soạn giả chỉ nắm được nghĩa sơ
sài của các từ lộng hành và lộng quyền rồi suy ra rằng, “lộng” nghĩa là lấn át. Chưa kể đến hàng trăm trường hợp giảng giải liều lĩnh khác,
chỉ riêng trường hợp này cũng đã đủ cho phép mọi người coi ông là một kẻ lộng
bút.
14. lưu chiểu 留照
Soạn giả giảng
rằng, lưu = giữ lại; chiểu = văn
bản; và, lưu chiểu là tác phẩm
văn nghệ nộp cho cơ quan lưu trữ của nhà nước để làm tài sản chung. Nhưng,
chẳng có chữ "chiểu' nào có nghĩa là văn bản cả. Hơn nữa, chúng ta biết rằng,
chữ “chiểu” ở đây chính là biến âm của chữ chiếu 照, tức là đối chiếu, là so sánh để phát hiện thật hay giả hoặc
đúng hay sai. Lưu chiểu là giữ lại bản mẫu của văn bản đã lưu hành để so sánh, kiểm tra khi cần thiết. Mục đích chính của việc
lưu chiểu là như thế chứ không phải để làm tài sản chung. Soạn giả đã không hiểu
chữ chiểu và cũng không hiểu gì về từ lưu chiểu.
14.
lỵ sở治所
Lỵ sở là trung tâm hành chính của một địa
phương. Nhưng thật là sai lầm khi soạn giả đoán rằng “lỵ” là đến nơi. (Chữ này
có mặt trong từ lỵ nhậm 蒞任, nghĩa là đến
nơi nhậm chức). Ông không biết r ằng, lỵ
sở vốn là trị sở治所 nhưng bị đọc chệch
đi và đã trở thành thói quen. "Lỵ" ở đây chính là "trị" 治, nghĩa là cai quản, điều hành công việc,
và cũng dùng để gọi tắt từ trị sở .
15.
thôi thúc 催促
Từ này tưởng là quá đơn giản, thế mà
soạn giả đã giảng sai.Theo ông, thôi nghĩa là thúc giục, và, thúc
nghĩa là buộc. Thực ra, chữ thúc 促 này có nghĩa là giục giã, là đòi
phải tăng tốc, như trong từ đốc thúc, khác với chữ “thúc束 nghĩa là buộc. Chữ thúc trong
từ thôi thúc cũng có âm là xúc, và có mặt trong từ xúc tiến.
16.
thế nghiệp 世業
Soạn giả đã giảng
rằng, thế nghĩa là quyền lực
hoặc trạng thái (có dạng chữ Hán là 勢), nghiệp nghĩa là nghề, và, thế nghiệp là chức vụ do cha ông để lại trong thời phong
kiến. Thực ra thế 世 nghĩa là đời, nghiêp 業 là sự nghiệp hoặc sản nghiệp.
Thế nghiệp 世業 là sự nghiệp
hoặc tài sản do đời trước để lại. Các bộ từ điển đáng tin cậy đều định
nghĩa như thế.
18. trữ tình 抒情
Vì không biết “mặt chữ” mà chỉ phỏng đoán theo cảm
tính nên soạn giả đã giảng giải rằng, trữ
là chứa chất, tình là tình cảm; trữ tình là chứa
chất tình cảm. Thật là sai lầm nghiêm trọng. Nên nhớ rằng, ở đây, trữ 抒 nghĩa là biểu đạt, là bày tỏ. Trữ tình nghĩa là bày tỏ tình cảm. Cần phân biệt chữ "trữ"
抒 này với chữ trữ 貯 trong từ tích trữ.
19. vi điện tử 微 電 子
Vi điện tử là hạt điện tử rất nhỏ, đó là cách giải thích của soạn giả,
khiến người đọc buồn cười. Điện tử, tức electron, là một loại hạt cơ bản bền vững,
là hạt tích điện âm trong mọi vật chất thông thường, có khối lượng bằng khoảng
9,11 x 10-28 gram và điện tích khoảng -1,602 x 10-19 coulomb.
Như vậy, điện tử có khối lượng và điện tích rất cụ thể, làm gì có thứ điện tử rất
nhỏ khác nữa?
Từ vi điện tử
vốn được dịch từ tính từ microelectronic(al) trong tiếng Anh (hoặc micro-electronique
trong tiếng Pháp), nó chỉ có thể đóng vai trò tính từ, như trong các cụm từ như
mạch vi điện tử, thiết bị vi điện tử, v.v. để chỉ mạch điện tử hoặc
thiết bị điện tử có kích thước cực kỳ nhỏ bé..
20.
viễn phố 遠浦
Soạn giả giải
thích rằng, viễn = xa; phố = chỗ bán hàng, nhà trạm; và viễn phố = nơi ở xa. Rồi ông trích dẫn
câu thơ Gác mái, ngư ông về viễn phố… của Bà huyện Thanh Quan.
Ông không hiểu rằng, ở đây, phố 浦 nghĩa là cửa biển chứ không phải phố 鋪 là cửa hàng. Viễn phố 遠浦 nghĩa là cửa
biển ở xa. Bà huyện Thanh Quan ở thế giới bên kia hẳn phải nổi giận và vô cùng đau lòng cho đất nước nếu bà biết
rằng, có một nhà biên soạn từ điển tiếng Việt ở cuối thế kỷ XX đã giảng giải
thơ của bà như thế.
&&&&&&&
Vài chục thí
dụ trên đây chỉ là một phần mười của
những sai lầm mà chúng tôi đã phát hiện được trong Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, mà cũng nằm cả trong Từ điển t ừ và ngữ Việt Nam.của GS Nguyễn
Lân. Đương nhiên, vì Từ điển từ và ngữ Việt
Nam chứa trọn nội dung của Từ điển từ
và ngữ Hán Việt và còn thêm rất nhiều từ ngữ khác ít liên quan đến Hán ngữ
nên nó còn phạm vô số sai lầm khác mà tác giả Huệ Thiên đã cho thấy một phần
qua bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt
nam của Nguyễn Lân.
Qua những thí dụ này, chúng ta thấy soạn giả Nguyễn Lân luôn
luôn sẵn sàng ‘’sáng tác’’ nghĩa cho các
từ tố; hơn nữa, ông lại rất thiếu kiến thức về văn hóa, lịch sử và khoa học. Nếu trong đời một giáo viên đứng
trên bục giảng mà một hai lấn phạm vài
sai lầm như những trường hợp kể trên thì cũng trở thành trò cười và mang tiếng
cả đời rồi. Huống chi, từ điển là sách cung cấp những hiểu biết chính xác về từ
ngữ, ở đây là từ ngữ tiếng Việt, mà phạm đến vài trăm sai lầm lớn như thế, sao
có thể chấp nhận được ?
Một thực tế
rất đáng buồn là, Từ điển từ và ngữ Hán Việt chứa nhiều sai lầm nghiêm trọng như vậy nhưng sau
lần xuất bản đầu tiên năm 1989 (Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh), nó đã được tái bản
nhiều lần. Vì thế nên đến năm 2000, GS Nguyễn Lân lại cho ra đời quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam lớn hơn và
càng nhiều sai lầm hơn. Đặc biệt, Từ điển
từ và ngữ Hán-Việt thì được GS Lê Trí Viễn coi là cuốn từ điển Hán-Việt tốt
nhất từ trước đến nay, và ‘’ nó sẽ là công cụ tra cứu không thể thiếu được
đối với bất kỳ ai, trước hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà
biên soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của từ và ngữ Hán Việt trong tiếng Việt hiện
nay. Còn về giá trị của Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì GS Vũ
Khiêu cho rằng ‘’trí tuệ và tâm huyết của
tác giả đã tạo ra một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã hội đang mong đợi (theo Lời giới thiệu).
Copy từ: NV Phạm Viết Đào
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét