Nguyễn Mộng Hoài
Nói như vậy thì có người bảo tôi là một anh chàng "lộng ngôn" thổi phồng
vấn đề lên, chứ chuyên đất đai bây giờ đã có "Hiến pháp" lại có "Luật",
lấy đâu ra mà "lấn chiếm ghê thế ?
Vâng, cứ cho là tôi "lộng ngôn", nhưng thực tế diễn ra hằng ngày trong suốt hơn 10 năm qua tại quê tôi lại đúng là như vậy. Quê tôi là một xã thuộc trung tâm châu thổ sông Hồng, đất chật người đông, đang có tốc độ "đô thị hóa" và "xây dựng nông thôn mới" nhanh đến chóng mặt.
Vâng, cứ cho là tôi "lộng ngôn", nhưng thực tế diễn ra hằng ngày trong suốt hơn 10 năm qua tại quê tôi lại đúng là như vậy. Quê tôi là một xã thuộc trung tâm châu thổ sông Hồng, đất chật người đông, đang có tốc độ "đô thị hóa" và "xây dựng nông thôn mới" nhanh đến chóng mặt.
"Công nghiệp về làng" đã thay đổi nhiều cả một vùng quê xưa nay thuần
nông, người nông dân nhiều đời "bán lưng cho trời, bán mặt cho đất". Xã
tôi được "quy hoạch vào một khu công nghiệp của tỉnh" theo báo cáo của
UBND xã, thì có đến 30 doanh nghiệp đã vào địa bàn xã, trong đó có 2 tập
đoàn lớn là dệt may và kinh tế Nhật Bản, mỗi doanh nghiệp "thuê" 100
héc-ta đất canh tác lâu đời của nông dân. Hai doanh nghiệp này "làm ăn
lớn" nên 7 năm nay chưa triển khai sản xuất. Doanh nghiệp dệt may còn
quảng cáo bán "hạ tầng cơ sở" trên "vị trí chiến lược" nhưng xem ra chưa
ai mặn mà lắm. Hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp dịch vụ vào địa
bàn, lúc đầu tuyển công nhân rầm rộ, xây dựng hạ tầng cũng rầm rộ, nhưng
sau ba năm "suy thoái kinh tế" đến nay hầu như nằm im hoặc đã "giải
thể" bằng nhiều cách, nhiều thủ đoạn sa thải công nhân và "tuyển công
nhân".
Trong bối cảnh ấy, một xã có 450 hec-ta đất canh tác, đã "bán" hết 400
hec-ta cho các doanh nghiệp theo quy định của tỉnh, với giá đền bù giải
phóng mặt bằng "rẻ như bèo", năm đầu được 7 triệu một sào, ông xã khấu
trừ 100.000 đồng/sào để "làm giấy tờ", người dân chỉ được nhận 6,9
triệu. Vậy mà ai cũng hí hửng, vì quê tôi họ không yêu ruộng đất nữa' vì
nông dân làm ăn cực khổ những lại phải è cổ đóng các loại phí hết cả
thóc ăn. Ngày nay, không còn diện tích canh tác để chuyển nhượng nữa thì
dân phải chạy đôn chạy đáo kiếm ăn, chứ biết làm thế nào ? Còn lạo ít
ruộng "đầu thừa đuôi theo" giao cho một số gia đình nông dân, phần lớn
là nông dân nghèo" tiếp tục làm nông nghiệp, nhưng hàng vụ vẫn phải nộp
đủ mọi thứ phí và nhất là phải chịu giá rất cao các loại vật tư cần
thiết "đầu vào" thành ra ít ai còn thiết tha với làm nông nghiệp nữa.
Toàn xã hết ruộng, không còn lý do để nuôi trâu "là đầu cơ nghiệp", chăn
nuôi cũng kém phát triển, đa số các gia đình nông dân để trống chuồng,
hoặc dẹp chuồng lợn nhường chỗ cho công trình phụ.
Xã tôi hiện có 11 nghìn dân cư trú ở 9 thôn, trong đó 6 thôn giáp quốc
lộ lớn. "Nhà mặt phố, bố làm to" không chỉ còn là "phương châm" là "khẩu
hiệu", mà đã thành hiện thực. Một xuất đất ở 100 mét vuông có thời gian
lên đến 1 tỷ đồng, vị trí gần chợ, gần quốc lộ giá còn cao hơn.
Lần theo "lý lịch", đất đai ở quê tôi có thể tóm tắt như sau:, sau CCRĐ
năm 1956, ruộng đất được chia theo khẩu hiệu "người cày có ruộng", nhân
khẩu được bình quân 3 sào Bắc Bộ (mối sào 360 mét vuông), vào loại trung
bình trong vùng. Sau nhiều năm, nhất là sau khi lên hợp tác xã nông
nghiệp bậc cao, đất canh tác, đất nông nghiệp đã bị "ngót" đi, nay không
còn được bình quân 1,5 sào/người. Sau chuyển nhượng có doanh nghiệp,
hầu như các gia đình nông dân đều không làm lúa, chăn nuôi và sản xuất
nông nghiệp nữa. Ai giỏi chạy chợ thì "sáng gieo chiều gặt", ông già bà
cả thì "ăn theo con cháu", duy nhất có lực lượng cán bộ, đảng viên làm
việc từ cấp thôn trở lên đều giầu có và có vốn đất, có người có hàng
chục xuất đất. Năm 1958, sau sửa sai CCRĐ, bắt đầu xây dựng phong trào
hợp tác hóa nông nghiệp. Hai năm sau, 100% hộ nông dân "bắt tự nguyện"
vào hợp tác xã, và một năm sau lên bậc cao. Toàn bộ ruộng đất, một vài
năm đầu còn để lại "đất 5%" cho gia đình nông dân, sau lên bậc cao chuẩn
bị trở thành nông trường hoặc nông trang tập thể theo mẫu của Liên Xô
cũ, thì đất "phần trăm cũng không còn" Ở nông thôn thuần túy, nơi nào
cũng có nhiều thùng vũng, ao chuôm. Lên bậc cao, toàn bộ các loại ao
chuôm, thùng vũng đều "công hứu hóa" nghĩa là đưa vào quản lý tập thể,
phần lớn lại bỏ hoang, hoặc chỉ đểcho bèo Tây tha hồ mọc. Tóm lại, ruộng
đất sau hợp tác hóa nông nghiệp, tức là trước năm 1986 không còn sở hữu
tư nhân nữa. Vì cái chính là sợ ruộng đất còn sở hưu tư nhân thì "nông
dân dễ thành địa chủ phú nông hoặc tư sản ở nông thôn mất" nên đất đai
nói chung và đất nông nghiệp nói riêng phải được "công hữu hóa" trao
quyền sở hữu cho toàn dân" Cái ông toàn dân mơ hồ này tạo điều kiện cho
hiện nay, người dân thường ngoài mảnh đất ông cha tổ nghiệp để lại hoặc
đã sử dụng làm đất ở trên 30 năm thì cứ ở yên đấy, nhưng không được sở
hữu, mà chỉ có quyền sử dụng, khi Nhà nước, kể cả Nhà nước cấp xã cần
đến thì phải "được thu hồi" làm việc khác, thậm chí thu hồi của gia đình
này giao cho gia đình kia, và hiện giờ hầu hết cán bộ đảng viên có tham
gia công tác, nhất là cán bộ chủ chốt của xã đều có trong tay ít nhất
là ba xuất đất trở lên. Nhiều cán bộ xoàng thôi những có điều kiện về
tiền bạc, về "vốn tự có" đang sở hữu trên dưới mười xuất đất, trong tay
có tiền tỷ là điều không lạ. Chỉ những người "ngắn cổ họng" là ít đất
hoặc không có đất ở thôi.
Trong khi đó, đất đai và công tác quản lý đất đai có nhiều nghịch lý.
Một phong trào không có ai đứng ra phát động mà phát triển rất rầm rộ,
rất dai dẳng. Đặc biệt, những vùng nông thôn được "quy hoạch" vào "khu
công nghiệp", đất đai trước đây rẻ như bùn, xin và cho dễ dàng. Xã tôi,
cách đây gần 60 năm, đảng ủy có chủ trương "giãn dân" ra đồng, lập một
xóm trại. Khi ấy ai "xung phong ra trại" được cấp một sảo đất ở, nhưng
lúc đầu người ta còn ngần ngai, bèn "huy động đảng viên gương mấu". Một
trong những đảng viên đi đầu ra trại ấy là gia đình ông H. Nhờ đó, đất
chung quanh nhà ông ê hề, muốn lấn bao nhiêu thì lẫn, kết quả vài ba năm
sau, diện tích đất ở nhà ông đã lên đến 5 sào, đủ để chia cho mỗi đứa
con một khu đất rông bằng 4 lần tiêu chuẩn "nhà nước quy định". Bên cạnh
đó, phong trào lấp ao, lấn chiếm đất đai phát triển như triều dâng
không ai, không nghiej quyết nào ngăn nổi, tức là những nhà gần đất
công, ở rìa làng rìa xóm, ở xóm trại và những nhà có đất "cha ông tổ
nghiệp" để lại trước đây khi hợp tác bậc cao đều đã "công hữu hóa" tất
cả, nay người ta có một lấn chiếm mười,nhà nào, họ nào cũng đòi đất,
thậm chí có một số người chửi rất khỏe, ngày nào cũng réo Đảng ủy, Ủy
ban ra chửi, cuối cùng lại được trả lại ao và xé ra làm nhiều mảnh bán
hàng trăm triệ một xuất khi tiền còn có giá, trong đó "ông địa chính" và
"ông chủ tịch xã đều có phần" Ông trưởng thôn tôi (nay là bí thư chi bộ
thôn) chỉ có một vài thước đất ngày xưa mẹ ông ta cấy cỏ đá thêm cho
trâu ăn mùa rét, nay ông "mở rộng đất công làm đất tư" rộng hàng nghìn
mét vuông, gần quốc lộ, có người đánh tiếng trả ông ngót 10 tỷ đồng, ông
vẫn chưa bán. Một dạo, xin xã được một cái giấy "chuyển nhượng" đất ở
rất dễ dàng, miễn là có lót tay chút ít, và có từ 15 đến 25 triệu là có
ngay sổ đỏ, còn lại "nội bộ trong làng" ông chủ tịch giấu mặt ít khi ký
vào giấy chứng nhận chuyển nhượng mà chủ yếu nhờ Phó Chủ tịch KT (ký
thay) mang cái giấy ấy về là có thể xây nhà bốn năm tầng trên mảnh đất
được chứng nhận đó. Hầu hết những người lấp ao, lấn chiếm không bao giờ
lại sử dụng đúng với diện tích "các cụ" để lại mà đều "nới rộng ra" rất
nhiều. Đặc biệt có ông phó chủ tịch xã đương nhiệm không biết làm cách
nào mà có đến 4,5 mấu Bắc Bộ cho dự án "nuôi cá sấu", nay trở thành đất
tư của ông ấy rồi !
Cái việc dành đất "chùa" cho công nghiệp dịch vụ, đến cả ông Bí thư cũ
của huyện cũng tiếc ngẩn tiếc ngơ rằng, lúc đầu vì mải mề "trải thảm đỏ"
mời gọi đầu tư, nên đã để mặt tiền đất giáp quốc lộ cho doanh nghiệp
quá rộng từ 150 đến 200 mét, giá như tỉnh đòn thì thu hẹp mặt tiền
khoảng 50 mét, còn cho họ về phía sau có thể còn gấp đôi số doanh nghiệp
vào làm ăn chứ không phải là ít ỏi như bây giờ. Tuy thế, khi giao đất
cho doanh nghiệp chỉ chú trọng giao bề rộng mặt tiền để hấp dẫn doanh
nghiệp còn toàn bộ diện tích phía sau doanh nghiệp lâu dần cũng biến hóa
hết mà không phải tính vào diện "đền bù giải phóng mặt bằng". Lợi dụng
tình hình, không ít cán bộ huyện, tỉnh thậm chí cả đến một vị Cục trưởng
ơt một Bộ cũng đã nhao về xã mua vài ba xuất đất giá rẻ, làm vốn cho
con cháu sau này và củng cố quan hệ làm ăn với địa phương.
Những ông quản lý đất đai ở xã có muôn vàn cách thức làm ăn lách luật,
trốn luật và giả vờ chấp hành luật. Không bao giờ, kể từ 10 năm trở laị
đây, khi phân phối ký nhận và bật đèn xanh cho người thân được đất không
hề có sự công khai, và dân chúng đều không biết tường tận, bán cho,
nhượng, xin bào nhiêu giá cả thế nào, cũng đều được giữ bí mật tuyệt
đối. Ấy vậy mà từ cuối năm 2013, còn lại 20 xuất đất, mỗi xuất chưa đến
100 mét vuông do lấp một con trung thủy nông "vô dụng", lại được rao
bán, rao thầu, lại ủy quyền cho Sở Tư pháp tỉnh bán đất hộ xã, trong khi
cơ quan quản lý tài nguyền , môi trường, đất đai thì đứng ngoài. Sở Tư
pháp tỉnh lầm pháp nhân tổ chức đấu thàu đất ở cho một xã. Kỳ lạ thay.
Có thể chỉ ở Việt Nam mới có hiện tượng này.
Cho đến nay, thì phong trào "toàn dân lấp ao, cả làng lấn chiếm" ở xã
tôi đã tạm lằng vì còn đất đâu mà chiếm, còn ao đâu mà lấp ? Chắc chắn
là người được đất làm vốn, người lấp ao mở rộng diện tích nhà ở thì hí
hửng. Thậm chí có người lấn chiếm được nhiều đất chung quanh nhà mình,
đã bán bớt số diện tích cũ (đã được cấp sổ đỏ) lấy tiền xây nhà gác ba
tầng trên đất lấn chiếm và nói rằng "Nhờ ơn Đảng và Nhà nước chúng cháu
mới được ở Nhà gác như thế đấy !" Ôi, cũng là một loại "ơn đảng" mà là
ơn đảng thật. Đảng không bật đèn xanh cho tự do lấn chiếm đất đai thì
anh ta lấy tiền đâu mà xây nhà gác ?"
Chuyện đất đai ở quê tôi Hưng Yên còn chưa đến hối kết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét