PHẠM ĐÌNH TRỌNG: BI KỊCH VIỆT NAM
NHỮNG TẤM LÒNG BAO DUNG
Nhận
được những câu hỏi của nhà văn Phạm Thị Hoài tôi cứ nghĩ ngợi vân vi.
Không phải nghĩ về câu trả lời mà nghĩ về chính câu hỏi. Đó là những câu
hỏi mà mọi người Việt Nam đang quan tâm đến vận mệnh đất nước hôm nay
vẫn thường tự hỏi. Bao giờ dân tộc Việt Nam thoát khỏi họa Cộng sản để
lại trở về với chính mình, lại trở về với hồn cốt tinh hoa Việt Nam.
Nhưng nhà văn không hỏi gay gắt như vậy. Câu hỏi của nhà văn thật nhẹ
nhàng, bao dung.
Chúng
ta thử hình dung một ngày nào đó không xa, trong vòng mươi năm tới,
Việt Nam sẽ chuyển thành công từ thể chế độc quyền dưới sự lãnh đạo toàn
diện của đảng Cộng sản Việt Nam sang dân chủ đa nguyên, với nhà nước
pháp quyền dựa trên tam quyền phân lập, với tư tưởng tự do và ngôn luận,
tự do hội họp và xã hội dân sự. Khi đó cái di sản đã kéo dài ba phần tư
thế kỉ ở miền Bắc và gần nửa thế kỉ trên cả nước sẽ đặt chế độ mới
trước những thử thách nào? Xã hội Việt Nam cần bao lâu để vượt qua di
sản đó? Có
những điểm sáng hay truyền thống tốt đẹp nào từ các di sản đó cần giữ
gìn? Khả năng diễn ra trong hòa bình của bước ngoặt đó lớn tới mức nào
hay tình trạng
bạo loạn mà nhiều người tiên đoán và dùng đó làm lập luận chống thay
đổi thể chế sẽ xảy ra? Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đóng vai trò gì trong
tiến trình chuyển hóa đó? . . .
Chấm
dứt thể chế độc quyền lãnh đạo đất nước của đảng Cộng sản Việt Nam là
điều đương nhiên, là tiến trình tất yếu của lịch sử. Càng chậm trễ, càng
cản trở tiến trình đó càng có tội với dân tộc, với lịch sử, càng làm cho dân tộc li tán và suy yếu, càng
làm cho đất nước tụt lại sau, càng kéo dài đau khổ của nhân dân. Nhà
văn khẳng định tiến trình chấm dứt sự độc diễn trên sân khấu chính trị
của đảng Cộng sản Việt Nam là không thể đảo ngược nhưng vẫn trông mong
đảng Cộng sản có vai trò chủ động trong tiến trình đó. Phải là một nhân cách văn hóa mới có được tấm lòng nhân hậu, bao dung như vậy. Đó
là tấm lòng bao dung của nhà văn, đó cũng là tấm lòng bao dung của dân
tộc Việt Nam đối với đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính trị đã
dùng bạo lực tàn nhẫn ứng xử với dân tộc Việt Nam văn hiến và đã đem lại
cho dân Việt Nam gần một thế kỉ cách mạng, chiến tranh đẫm máu, li tán
dân tộc, tan hoang đất nước.
Đảng
Cộng sản tồn tại bằng độc quyền quyền lực. Xóa bỏ sự độc quyền quyền
lực là xóa bỏ sự tồn tại của đảng Cộng sản. Hiện nay đảng Cộng sản đã là
một sản phẩm lỗi thời của lịch sử. Muốn tồn tại, đảng Cộng sản chỉ còn
hai lựa chọn: Hoặc dùng bạo lực hùng hậu có trong tay duy trì sự độc
quyền quyền lực. Hoặc đổi mới đảng Cộng sản để tham gia vào tiến trình
dân chủ đa nguyên, để đảng Cộng sản tồn tại bình đẳng cùng các đảng khác
trong thể chế đa nguyên lành mạnh, trong xã hội dân chủ thực sự.
Chọn
con đường tồn tại bằng bạo lực, dù có lực lượng bạo lực khổng lồ và
hung hãn nhưng đã là sản phẩm lỗi thời của lịch sử thì đảng Cộng sản
cũng chỉ tồn tại được ngày nào biết ngày đó, chỉ là khoảnh khắc. Khoảnh
khắc tồn tại ngắn ngủi đó phải trả bằng giá đắt: Đảng Cộng sản tự đặt
vào thế đối lập với nhân dân, trở thành vật cản của dòng chảy lịch sử,
kìm hãm đất nước trong trì trệ, đưa đất nước vào khủng bố, đàn áp đẫm
máu, vào bạo loạn, rối ren, giam cầm nhân dân trong ngục tù, nhục hình
của chuyên chính vô sản, đày ải, vô hiệu, thủ tiêu nhiều tài năng, trí
tuệ và khí phách dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam tham gia vào tiến trình dân chủ đa nguyên, mang lại dân chủ thực sự cho
xã hội Việt Nam là hồng phúc cho dân tộc Việt Nam và cũng là hồng phúc
cho chính đảng Cộng sản Việt Nam. Để làm được điều đó, những người Cộng
sản Việt Nam phải có đủ tầm trí tuệ và lòng dũng cảm nhận ra khiếm
khuyết, lỗi lầm của chủ nghĩa cộng
sản đã đưa đến những thảm họa khủng khiếp cho loài người và cho dân tộc
Việt Nam, phải có tâm hồn của người Việt Nam yêu nước thương nòi, đau
nỗi đau khôn cùng của người Mẹ Việt Nam trước những đau thương mất mát
quá lớn mà hàng triệu số phận, hàng triệu gia đình Việt Nam đã phải nhận từ năm 1930 đến nay.
Trước hết họ phải nhận ra những lầm lẫn, những ảo tưởng, những hậu quả
thê thảm của học thuyết đấu tranh giai cấp trong lí luận chủ nghĩa Marx
mà họ đã thực thi.
KHÔNG CÓ CÁI TÔI CÁ NHÂN, CHỦ NGHĨA MARX LẠI ĐƯA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI TRỞ VỀ BẦY ĐÀN
Cuộc
đời mỗi người đều có ba giai đoạn: Tuổi ấu thơ ngơ ngác, tuổi còn bị
sai khiến, dạy bảo, có nhà triết học coi đó là tuổi lạc đà, phải chia
động từ “Mày phải”. Mày phải đến trường. Mày phải ngủ đúng giờ . . . .
Tuổi của bầy đàn, chưa có cá nhân, cá nhân còn lẫn trong bầy đàn, đánh
mất trong bầy đàn, chưa hình thành những nhân cách hoàn chỉnh. Đến tuổi
trưởng thành, con người nhận thức được thế giới và nhận thức được bản
thân, cá nhân được hình thành tách ra khỏi bầy đàn, cá nhân có tư duy,
có chính kiến riêng cần được nhìn nhận, cần được khẳng định sự có mặt
trong cuộc đời, đó là tuổi sư tử, tuổi chia động từ “Tôi là”. Tôi là
người thợ. Tôi là cầu thủ bóng đá. Tôi là nhà giáo. Tôi là chính khách
. . . . Thời mỗi công việc, mỗi hoạt động đều có tính chuyên nghiệp
cao, là môi trường tốt nhất để cá nhân bộc lộ hết tài năng trong nghề
nghiệp, trong hoạt động, tạo ra những ngôi sao, những đỉnh cao, những
thần tượng xã hội. Cá nhân để lại dấu ấn trong cuộc đời bằng tư tưởng,
chính kiến và bằng cả tài năng trong những hoạt động nghề nghiệp, hoạt
động xã hội. Thời của những dấu ấn cá nhân. Đến giai đoạn xế chiều, con
người lại trở về thời ấu thơ, lại trở về bầy đàn, tìm đến đám bạn cùng
giới tính.
Xã
hội loài người cũng phải qua thời ấu thơ là thời bầy đàn bộ lạc nguyên
thủy, thời phong kiến trung cổ, chỉ có lãnh chúa, chủ đất mới có cá
nhân, còn lại chỉ là đám đông lao xao, chỉ là công cụ sản xuất trong tay
chủ đất và công cụ bạo lực trong tay vua chúa. Bước vào thời văn minh
công nghiệp, xã hội loài người mới bước vào thời trưởng thành. Khoa học
kĩ thuật cho con người sức mạnh khẳng định mình, cho trí tuệ làm chủ bản
thân và làm chủ thế giới. Con người có mặt trong xã hội là những cá
nhân với tư tưởng, chính kiến riêng phải được thể hiện và phải được xã
hội nhìn nhận, tôn trọng.
Cùng
với văn minh công nghiệp, cùng với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Marx ra
đời ở giai đoạn đầu thời trưởng thành của xã hội loài người khi mới chỉ
có vài nước châu Âu có văn minh công nghiệp, còn lại thế giới vẫn trì
trệ trong xã hội phong kiến, trong nền sản xuất nông nghiệp thô sơ. Ở
đó, người lao động nông nghiệp vẫn là những nô lệ của chủ đất, bị bóc
lột tàn tệ hơn cả thời trung cổ và bị cột chặt vào đất đai. Ở các nước
vừa chập chững bước vào công nghiệp, máy móc ở thế hệ đầu tiên, năng
suất chưa cao và còn cần nhiều sức thợ, nguồn tích lũy tư bản lớn nhất
của những ông chủ vừa khởi nghiệp là bóc lột tận cùng sức lao động của
người thợ để có nhiều sản phẩm, nhiều lợi nhuận. Cùng với bóc lột thậm
tệ công nhân trong nước, những ông chủ tư bản cũng đã làm chủ nhà nước
tư bản còn ào ạt đưa quân đi xâm chiếm thuộc địa tìm nguyên liệu và mở
rộng thị trường.
Nhìn
thấy chủ nghĩa tư bản ở buổi sơ khai hoang dã hai tay ròng ròng máu
công nhân trong nước và máu người dân thuộc địa, nhìn thấy cuộc sống
khốn cùng của người lao động do bị tư bản buổi sơ khai hoang dã bóc lột,
với lòng yêu thương con người, chàng thanh niên người Đức gốc Do Thái
chưa đến ba mươi tuổi Karl Marx đang miệt mài nghiên cứu lịch sử kinh
tế, triết học và đã viết nhiều tập Bản Thảo Kinh Tế Và Triết Học liền cho rằng: Mọi bất công đau khổ mà con người đang phải gánh chịu là do chiếm hữu tư liệu sản xuất. Và: Lịch sử của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp! Từ
nhận thức vội vàng, nông nổi, lầm lẫn, cực đoan đó, chàng tiến sĩ triết
học trẻ tuổi có bộ óc siêu vệt và trái tim nồng nàn yêu thương con
người liền xây dựng lên học thuyết Đấu Tranh Giai Cấp để tạo dựng
lên một xã hội không còn chiếm hữu tư liệu sản xuất, cội nguồn của bóc
lột, bất công, mọi người đều được sống trong yêu thương, hạnh phúc, xã
hội cộng sản. Đó là tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Marx.
Chủ
nghĩa Marx ra đời khi chủ nghĩa tư bản hoang dã đang hoành hành man rợ
nhất, cả loài người đang chìm đắm trong máu và nước mắt. Công nhân bị
bóc lột ở các nước công nghiệp quyết liệt đấu tranh giành quyền sống,
người dân ở các nước thuộc địa sôi sục làm cách mạng giải phóng dân tộc
đều coi chủ nghĩa Marx là cứu tinh và chủ nghĩa Marx đã nhanh chóng
chiếm lĩnh cả thế giới. Marx công bố Tuyên ngôn Đảng Cộng sản năm 1848
và cuộc cách mạng xã hội cuối cùng mang tư tưởng cộng sản của Marx thành
công ở Cuba năm 1959. Có thể coi nửa cuối thế kí 19 và nửa đầu thế kỉ
20 là một thế kỉ của chủ nghĩa Marx. Loài người đã bước sang thế kỉ 21.
Thế kỉ của chủ nghĩa Marx đã vĩnh viễn kết thúc và lùi xa rồi!
Buổi
đầu chủ nghĩa Marx đã thổi bùng lên được ý chí đấu tranh giành quyền
sống, giải phóng được sức mạnh bị dồn nén của cả khối nhân loại bị bóc
lột, áp bức, làm nên những cuộc cách mạng long trời lở đất và giành được
thắng lợi ở một phần rộng lớn trên trái đất. Nhưng chủ nghĩa Marx chỉ
giành được thắng lợi ở những nơi chưa có văn minh công nghiệp, những nơi
chưa có cá nhân, cá nhân chưa được giải phóng, con người vẫn là đám
đông, vẫn là bầy đàn. Nước Nga khi cách mạng vô sản tháng Mười năm 1917
nổ ra vẫn là nước Nga nông nghiệp thô sơ của Sa hoàng và chủ đất. Chủ
nghĩa Marx là của đám đông, là sức mạnh của đám đông được kích động bởi
những quyền lợi vật chất thiết thực bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình! Chủ
nghĩa Marx chỉ là lí luận tập hợp đám đông, tập hợp khối người lao động
làm thuê, khối dân nô lệ các nước thuộc địa tạo nên sức mạnh bạo lực
của đám đông làm cách mạng vô sản, đập tan xã hội cũ của chủ nghĩa tư
bản hoang dã.
Những
nhà nước do cách mạng vô sản dựng nên, dùng lí luận chủ nghĩa Marx, lí
luận làm mạng vô sản của đám đông xây dựng xã hội mới đều thất bại ê
chề, cay đắng, đều để lại những tội ác lớn chưa từng có trong lịch sử
loài người. Vì xã hội mới là xã hội công nghiệp văn minh, xã hội của ý
thức cá nhân, cá nhân được nhìn nhận, thể hiện và khẳng định sự có mặt
trong cuộc đời thì học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx chỉ
nhìn nhận sự có mặt của đảng Cộng sản, chỉ có cá nhân của những người
lãnh đạo Cộng sản, người dân dù là nhà văn hóa, nhà khoa học, là trí
thức, nghệ sĩ kiệt xuất cũng chỉ là quần chúng, là bầy đàn lạc đà cam
chịu, là công cụ trong tay đảng Cộng sản như thời phong kiến trung cổ
chỉ có cá nhân lãnh chúa, chủ đất, còn lại chỉ là bầy đàn, là công cụ
sản xuất và công cụ bạo lực.
Mục
tiêu hướng tới của chủ nghĩa Marx là vô cùng nhân đạo, cao cả: Xóa bỏ
bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội phát triển cao tạo ra của cải vật
chất dồi dào, con người được sống trong yêu thương, được thỏa mãn mọi
nhu cầu vật chất và tinh thần. Nhưng đi đến mục tiêu cao đẹp ảo ảnh đó
bằng học thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo: Nhà nước chuyên chính vô sản
sử dụng bộ máy công cụ bạo lực Nhà nước xóa bỏ cá nhân, chà đạp lên số
phận con người là một mâu thuẫn tệ hại của chủ nghĩa Marx, là bi kịch
lớn nhất mà chủ nghĩa Marx áp đặt cho một nửa nhân loại suốt một thế kỉ.
Học thuyết đấu tranh giai cấp vươn hai cánh tay bạo liệt ra, cánh tay
kinh tế: Xóa bỏ quyền làm chủ tư liệu sản xuất của tư nhân, lạnh lùng
bóp nghẹt cuộc sống và cánh tay chính trị: Chuyên chính vô sản, thô bạo
nắm cổ người dân, định đoạt số phận người dân theo ý muốn của quyền lực
vô sản chứ không theo pháp luật.
Xóa
bỏ quyền làm chủ tư liệu sản xuất của tư nhân là xóa bỏ vai trò cá nhân
trong kinh tế. Những cá nhân có vốn liếng, có kiến thức, kĩ năng và
kinh nghiệm tổ chức, quản lí sản xuất, làm cho đồng vốn ngày càng sinh
sôi, tạo ra của cải vật chất và của cải tinh thần ngày càng nhiều cho xã
hội, những người chủ tư nhân thao lược, tài năng bị tước đoạt quyền làm
chủ, trở thành những người làm thuê tầm thường cho những ông chủ tầm
thường là người đại diện nhà nước vô sản làm chủ khối tư liệu sản xuất
chiếm đoạt của tư nhân. Quyền làm chủ tư liệu sản xuất của tư nhân,
quyền sản xuất kinh doanh của tư nhân chuyển về tay những người trong bộ
máy nhà nước vô sản hoàn toàn không có kĩ năng của người làm kinh tế,
không có phẩm chất của người làm chủ, lại hoàn toàn vô trách nhiệm, dẫn
đến sản xuất trì trệ, kinh doanh thua lỗ, xã hội nghèo đói là điều đương
nhiên đã diễn ra ở tất cả các nước hăm hở, cuồng tín thực hiện chủ
nghĩa Marx!
Công
hữu hóa tư liệu sản xuất chỉ xóa bỏ cá nhân trong kinh tế thì chuyên
chính vô sản đã xóa bỏ cá nhân trong toàn bộ đời sống xã hội. Với chuyên
chính vô sản, chỉ những người nắm quyền lãnh đạo đảng Cộng sản mới có
cá nhân. Khối nhân dân còn lại chỉ là một đám đông, một bầy lạc đà, một
lũ trẻ thơ ngơ ngác phải học chia động từ “Mày phải”. Mày phải học nghị
quyết Đảng. Mày phải nói theo Đảng. Mọi việc đã có Đảng và Nhà nước lo.
Mày phải câm mồm, không được nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, không
được biểu tình phản đối Trung Hoa lấn chiếm lãnh thổ thiêng liêng của
tổ tiên. Ông ủy viên bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam, Thủ tướng
Chính phủ nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam trên diễn đàn Quốc hội
thì được nhưng người dân nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam thì bị
bắt, bị đánh, bị giam cầm. Hiến pháp cho người dân quyền tự do ngôn luận
nhưng thực tế cho người dân bài học phải thuộc lòng là: Với Nhà nước
của đảng Cộng sản, người dân nói trái ý Đảng liền bị khép ngay vào tội
Tuyên truyền chống Nhà nước Xã hội chủ nghĩa mà vụ án tiến sĩ luật Cù
Huy Hà Vũ, vụ bắt giam rồi lén lút, phi pháp đưa bà Bùi Minh Hằng vào
trại giam trá hình dưới tên gọi Cơ sở giáo dục là những minh chứng.
Ở
các nước công nghiệp phát triển, nơi chủ nghĩa tư bản ngự trị, cá nhân
được nhìn nhận, trí tuệ sáng tạo của cá nhân được giải phóng làm nên bộ
mặt, làm nên tầm vóc, làm nên sức mạnh của nền văn minh công nghiệp.
Khoa học kĩ thuật mang lại cho nhà tư bản lợi nhuận mau lẹ và dồi dào
gấp nhiều lần thời bóc lột sức người. Không còn những ông chủ làm giầu
bằng bóc lột. Chủ nghĩa tư bản hoang dã bóc lột sức người đã vĩnh viễn
lùi xa vào quá khứ tội lỗi. Mọi người dân đều có thể trở thành người
chủ. Quyền con người và những giá trị nhân đạo vì hạnh phúc và phẩm giá
con người đều trở thành luật pháp xã hội, được Nhà nước Tư bản thực thi
nghiêm chỉnh, minh bạch trong cuộc sống. Những sản phẩm tạo ra bằng bóc
lột, bằng hủy hoại môi trường, bằng điều kiện làm việc tồi tệ của người
sản xuất đều không được chấp nhận.
Những
ông chủ thế hệ cũ, vẫn sử dụng công nghệ thấp, cần nhiều sức lao động,
vẫn phải tích lũy tư bản bằng bóc lột phải tìm đến các nước đang công
nghiệp hóa, đang mở rộng cửa hứng đồng vốn đầu tư nước ngoài như Việt
Nam. Chính ở đây Nhà nước Việt Nam do đảng Cộng sản cầm quyền đáng ra
phải lấy học thuyết đấu tranh giai cấp đấu tranh với sự bóc lột của chủ
tư bản, bảo vệ quyền lợi người dân lao động ruột thịt của mình thì trớ
trêu, cay đắng thay Nhà nước vẫn nói kiên định chủ nghĩ Marx, vẫn nhân
danh Chủ nghĩa xã hội nhưng chỉ chăm chăm lấy sự hà khắc, phản dân chủ
của đấu tranh giai cấp để cai trị, o ép dân và làm ngơ trước sự bóc lột
của chủ tư bản nước ngoài với đồng bào minh!
Kiên
định chủ nghĩa Marx tội lỗi, lỗi thời, kiên định học thuyết đấu tranh
gia cấp bạo liệt, chỉ có Cái Tôi của người cầm quyền, không có Cái Tôi
của người dân, người dân chỉ là bầy lạc đà cắm cúi đi trên sa mạc vô tận
của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội huyễn hoặc. Chủ nghĩa Marx khai
sinh ra đảng Cộng sản. Kiên định chủ nghĩa Marx để duy trì sự tồn tại
của đảng Cộng sản, những người Cộng sản lạnh lùng, cam tâm đưa xã hội
trở về thời phong kiến trung cổ không nhìn nhận Cái Tôi, đưa nhân dân
trở về thời ấu thơ, bầy đàn, khổ đau và tủi nhục.
Coi
nhân dân chỉ là bầy đàn, là công cụ, không có cá nhân, không được có tư
tưởng, chính kiến riêng bộc lộ rõ cả trong những văn kiện lịch sử của
đảng Cộng sản. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội được Đại hội 11 đảng Cộng sản Việt Nam bổ xung và phát
triển ghi: Đi lên Chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử! Con người trưởng thành
cần khẳng định sự có mặt trong cuộc đời bằng Cái Tôi cá nhân không khi
nào chọn thứ Xã hội chủ nghĩa chà đạp lên Cái Tôi thiêng liêng. Coi
người dân là bầy đàn, là đám trẻ, không được có tư tưởng chính kiến
riêng, không cần điều tra xã hội học, không cần trưng cầu ý dân, những
người Cộng sản tự cho họ cái quyền nói tiếng nói của dân, áp đặt cả tâm
tư, tình cảm cho người dân và họ thản nhiên ghi trong những văn kiện
lịch sử của đảng Cộng sản: Đi lên Chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân.
Lựa chọn Chủ nghĩa xã hội là quyền của đảng Cộng sản nhưng đảng Cộng
sản Việt Nam chỉ có ba triệu đảng viên. Đảng Cộng sản Việt Nam không
phải là gần chín mươi triệu người dân Việt Nam.
Lịch
sử còn ghi rõ những cuộc tắm máu mà Chủ nghĩa xã hội đã gây ra cho loài
người. Sự bế tắc, cùng đường và sụp đổ vĩnh viễn của Chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi thế giới vừa diễn ra còn nóng bỏng tính thời sự, buộc cả
nước Liên Xô Xã hội chủ nghĩa lâu đời nhất, hùng mạnh nhất, thành trì
của cả khối Xã hội chủ nghĩa thế giới, buộc cả nước Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa nghèo khổ nhưng đầy quyết tâm hăm hở làm cách mạng Xã hội chủ
nghĩa cũng phải từ bỏ nguyên lí kinh tế cốt lõi của Chủ nghĩa xã hội để
trở về kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa. Chính kinh tế thị trường Tư
bản chủ nghĩa đã mở lối thoát, mở con đường sống cho thành trì Xã hội
chủ nghĩa kém phát triển trở thành nước Nga có mặt trong nhóm nước G8
giầu mạnh nhất thế giới và cứu nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa khỏi suy
sụp, tan vỡ trong bế tắc, nghèo khổ, cùng quẫn. Lịch sử đó, thực tế đó
là lời khẳng định bằng máu và nước mắt của hơn hai tỉ người dân đã từng
phải sống dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa rằng: Chủ nghĩa xã hội sản phẩm
đầy khuyết tật nghiêm trọng của học thuyết Marx, là tai ương, là thảm
họa của loài người, là ngõ cụt lầm lạc của lịch sử. Những người Cộng sản
có trí tuệ, có lương tâm đều biết rõ điều đó. Nhưng đảng Cộng sản Việt
Nam vẫn ghi trong Cương lĩnh rằng Chủ nghĩa xã hội phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử là
tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân. Chỉ một đoạn Cương lĩnh ngắn vẻn
vẹn bốn mươi mốt từ, những nhà lí luận và những nhà lãnh đạo Cộng sản đã
bộc lộ rõ hai đặc tính truyền thống của đảng Cộng sản: Coi thường dân
và lừa dối dân.
NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM KHẮC KHOẢI ĐI TÌM CÁI TÔI. NHỮNG NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
Trên
đường đi đến đô thị của văn minh công nghiệp, những năm ba mươi thế kỉ
hai mươi, xã hội Việt Nam chợt đến phố huyện đã để lại dấu ấn trong văn
chương là Tự Lực Văn Đoàn với những câu chuyện tình phố huyện, là Thơ
Mới ghi lại nỗi thảng thốt sung sướng phát hiện ra Cái Tôi cá nhân
trong cuộc đời và sự khắc khoải, bền bỉ đòi hỏi sự nhìn nhận của xã hội
đối với Cái Tôi thiêng liêng đó. Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới không những
có công lớn với văn hóa Việt Nam mà còn có công lớn với lịch sử Việt Nam
vì đã ghi lại bước phát triển vô cùng quan trọng của xã hội Việt Nam và
cũng là bằng chứng về sự kéo lùi lịch sử, kéo lùi sự phát triển xã hội
của đảng Cộng sản Việt Nam.
Xã
hội Việt Nam mới chợt đến phố huyện trên tiến trình đi đến đô thị của
văn minh công nghiệp cũng đã kịp gọi những Cái Tôi cá nhân thức dậy.
Năng lực sáng tạo của những cá nhân đó được giải phóng đã tạo ra cho
lịch sử Việt Nam thời trước Cộng sản những tên tuổi lớn. Về văn hóa có
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm, Hoàng Xuân
Hãn, Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Vũ Trọng Phụng, Phạm Cao Củng, Nam
Cao, Phạm Huy Thông, Nguyễn Tuân, Thế Lữ . . . Về kinh tế có Bạch Thái
Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện, Nguyễn Thị Năm . . .
Về chính trị có Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, Lương
Văn Can, Lương Ngọc Quyến . . . Những người Việt Nam kiệt xuất đó với
tầm văn hóa và lòng tự hào dân tộc đang lặng lẽ chuẩn bị nền tảng tư
tưởng, nền tảng văn hóa và cả nền tảng kinh tế, xã hội cho một xã hội
mới và đang bền bỉ thức tỉnh nhân dân, tổ chức lực lượng chính trị cho
cuộc đấu tranh với thực dân xâm lược Pháp giành độc lập dân tộc. Con
đường đấu tranh bất bạo động bằng tư tưởng, văn hóa, kinh tế, theo con
đường của M. Gandhi, theo triết lí phương Đông dựa vào lòng người “lấy
chí nhân thắng bạo tàn”, không đẩy người dân tay không ra đối đầu với
súng đạn thực dân, tiết kiệm xương máu cho dân là con đường lâu dài
nhưng nền độc lập giành được bằng con đường đó là nền độc lập thực sự và
bền vững, nền độc lập không bị phụ thuộc vào những thế lực chính trị
bên ngoài.
Theo
logic lịch sử, tiến trình đó đang lặng lẽ, bền bỉ và vững chắc diễn ra ở
Việt Nam thì những người Cộng sản nôn nóng vội vã mang bạo lực cách
mạng của học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu từ châu Âu xa lạ về Việt
Nam, đưa nhân dân Việt Nam vào những cuộc cách mạng, chiến tranh ý thức
hệ đẫm máu của thế giới, chia trận tuyến đấu tranh giai cấp, thanh toán
địch – ta vào trong từng con người, trong từng gia đình, trong từng cơ
quan, đơn vị, phân chia trận tuyến giai cấp, thanh toán địch – ta trong
lòng dân tộc Việt Nam, đẩy nhân dân vào cuộc sát phạt, tiêu diệt, xung
đột, giằng xé, đấu đá, bất ổn, li tán cả dân tộc suốt từ giữa thế kỉ hai
mươi đến tận hôm nay vẫn chưa chấm dứt.
Sát
phạt, xung đột, thanh toán, tiêu diệt, bất ổn, li tán để xóa bỏ Cái Tôi
cá nhân vừa thức tỉnh trong trí thức, trong giới chủ, trong thanh niên,
học sinh thành phố, để chỉ còn Cái Tôi quyền uy của hơn chục yếu nhân
nắm vận mệnh đảng Cộng sản Việt Nam, quyết định số phận cả dân tộc Việt
Nam.
Cái
Tôi cá tính sáng tạo làm nên sức mạnh sư tử của con người trưởng thành
không được chấp nhận, trí thức, nghệ sĩ, nhà khoa học cũng chỉ là bầy
lạc đà bị quyền uy chăn dắt, phũ phàng đánh trận đòn “Nhân Văn Giai
Phẩm” dằn mặt để không bao giờ còn dám nghĩ đến Cái Tôi cá tính sáng
tạo, chỉ còn biết gọi dạ, bảo vâng, ăn theo, nói leo, ngợi ca chính trị,
minh họa chính sách.
Không còn Cái Tôi cá tính sáng tạo, sau một đời miệt mài, hăm hở viết, nhà văn Nguyễn Minh Châu phải đau xót viết Lời ai điếu cho nền văn học minh họa,
nền văn học được coi là có Tính Đảng vì làm vừa lòng những Cái Tôi
quyền uy của những người nắm vận mệnh Đảng, vận mệnh dân tộc nhưng không
có Cái Tôi của người viết, không có Cái Tôi của nhân vật, của nhân dân.
Không có Cái Tôi nhân cách mang vóc dáng người viết, không có Cái Tôi
chân thực của cuộc đời mang hồn cốt nhân dân trong tác phẩm thì tác phẩm
chỉ là đồ giả, là mớ giấy lộn, đến khi nhận ra điều đau xót đó thì đã
cuối đời, nhà văn chỉ còn kịp viết lời ai điếu cho những tác phẩm của
chính mình!
Nhà
văn Nguyễn Khải nhận ra Cái Tôi cá tính sáng tạo của ông bị giết chết
với một thái độ bình tĩnh hơn nhưng day dứt, đau đớn hơn. Cuối đời ông
cứ phải âm thầm, lặng lẽ, ngậm ngùi, thảng thốt, bơ vơ Đi tìm Cái Tôi đã mất,
đi tìm Cái Tôi cá tính sáng tạo của nhà văn đã bị bức hại, đi tìm Cái
Tôi nhân cách, Cái Tôi bản thể của con người trưởng thành đã bị giết
chết để đến nỗi nhà văn chỉ còn là đứa trẻ con cho người ta sai bảo!
Một
nhà báo ngang tàng của Đài Tiếng Nói Việt Nam, một thời thường xuyên có
những bài viết nhiều tìm tòi, phát hiện về đồng bằng sông Cửu Long đăng
trên những tờ báo lớn của đảng Cộng sản Việt Nam, báo Nhân Dân, báo Sài
Gòn Giải Phóng. Chính nhà báo này từ năm 1992 là người đầu tiên gọi tên
sự ứng xử với tự nhiên của người dân đồng bằng sông Cửu Long là Chung sống với lũ. Từ đó Chung sống với lũ trở
thành phương châm, trở thành chính sách Nhà nước ở đồng bằng sông Cưu
Long. Nhìn lại chặng đường dài lặn lội viết báo cho Đảng, với những thực
tế đau lòng của đời sống báo chí, nhà báo ngang tàng Lê Phú Khải cũng
phải giận dữ, ai oán thét lên Lời ai điếu cho một nền báo chí nô bộc.
Nhà
văn Trần Hoài Dương vốn điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ bỗng một hôm hốt
hoảng kể với tôi về một giấc mơ làm anh toát mồ hôi: Đêm qua mình có
giấc mơ khủng khiếp quá. Không hiểu sao mình lại mơ thấy cách mạng Tháng
Tám thành công ngay sau cuộc nổi dậy của Xô Viết Nghệ Tĩnh, tháng chín
năm 1930. Những người đàn bà yếm nâu váy đen, tay cầm liềm, những người
đàn ông cởi trần da cháy nắng cầm giáo mác, gậy gộc đi dưới rừng cờ đỏ
ầm ầm từ Nghệ Tĩnh kéo ra Hà Nội. Họ biến đường phố Hà Nội thành những
dòng sông đỏ màu cờ và họ rùng rùng tiến về tụ lại ở Ba Đình nghe ông Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Mình giật mình toát mồ vì nhớ ra rằng
năm 1930 đó chưa có Vỡ Đê, chưa có Giông Tố của Vũ Trọng Phụng, chưa có Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân, chưa có Nhớ Rừng của Thế Lữ, chưa có Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng, chưa có Bước Đường Cùng của Nguyễn Công Hoan, chưa có Sống Mòn, chưa có Chí Phèo, Lão Hạc của
Nam Cao . . . Mình hốt hoảng thức dậy, người ướt đầm mồ hôi và không
ngủ lại được nữa. Thật hú vía! Nếu cách mạng Tháng Tám thành công từ năm
1930 thì chúng ta làm gì có Vũ Trọng Phụng, làm gì có Nguyễn Tuân, làm
gì có Thế Lữ . . . Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng
vẫn còn sống khá lâu dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa nhưng những tác phẩm
để đời của họ, những tác phẩm thực sự văn chương, thực sự là niềm tự hào
của văn chương Việt Nam đều được viết trước cách mạng, viết bằng Cái
Tôi cá nhân của họ. Cái Tôi cá nhân của họ không thể tồn tại trong Chủ
nghĩa xã hội thì họ chẳng còn gì!
Từ
trước đến nay đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tự cho là có công lớn với dân
tộc Việt Nam, có công đưa dân tộc Việt Nam từ nô lệ đến tự do, từ mất
nước đến độc lập, từ nghèo hèn đến giầu sang. Nhưng dân tộc Việt Nam đã
phải trả một giá quá đắt cho độc lập trong khi độc lập dân tộc là một xu
thế tất yếu của lịch sử. Lịch sử không đi những lối bất ngờ như
nhà thơ của đảng Cộng sản Việt Nam, Tố Hữu viết. Lịch sử bao giờ cũng có
qui luật, có giai đoạn, có bước đi được lập trình tạo nên tiến trình,
tạo nên xu thế lịch sử.
Lịch
sử loài người đi từ hoang dã đến văn minh. Chủ nghĩa tư bản cũng phải
đi từ hoang dã đến văn minh cùng nhịp với nền công nghiệp đi từ thô sơ,
cần nhiều sức người, đó là thời chủ nghĩa tư bản hoang dã bóc lột sức
người, đến nền công nghiệp hiện đại không cần nhiều sức người nữa mà cần
nhiều tri thức, cần nhiều kĩ năng. Lợi nhuận không tạo ra từ sức người
nữa mà tạo ra từ khoa học kĩ thuật. Đầu tư vào khoa học kĩ thuật, những
người chủ của xã hội công nghiệp văn minh cũng đầu tư vào phát triển xã
hội, đầu tư nâng cao giá trị nhân văn của xã hội loài người. Chế độ nô
lệ dưới mọi hình thức đều không được xã hội công nghiệp văn minh chấp
nhận. Đó là thời chủ nghĩa tư bản văn minh cũng là kỉ nguyên độc lập dân
tộc.
Những
người Cộng sản đã đưa dân tộc Việt Nam đi qua chặng đường máu lửa thảm
khốc và xa ngái mới đến nền độc lập mong manh. Những ngày này giặc
phương Bắc ngang nhiên lấn đất, lấn biển của ta, áp đặt mọi tai ương cho
dân tộc ta. Từ khi hấp tấp, hốt hoảng sang Thành Đô gặp lãnh đạo phương
Bắc, tháng chín năm 1990, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam phải
liên tiếp nhượng bộ hết đòi hỏi này đến đòi hỏi khác của phương Bắc.
Nhưng càng nhượng bộ, họ càng lấn tới, lại càng thấy nền độc lập của ta
có được từ sông máu biển lửa là vô cùng mong manh. Nền độc lập mong manh
phải đổi bằng giá đắt như vậy nhưng có độc lập thì người dân lại mất tự
do cá nhân, mất Cái Tôi cá nhân thiêng liêng và quí giá của kiếp người
thì đó là công hay tội nhỉ?
Thời đầu đổi mới, cuối những năm tám mươi, thế kỉ hai mươi, đảng Cộng sản Việt Nam nêu khẩu hiệu Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật nhưng
chưa bao giờ những người Cộng sản Việt Nam đủ lòng trung thực để nhìn
vào sự thật. Đảng luôn tự cho mình là sáng suốt, vĩ đại, quang vinh thì
không thể tiếp cận sự thật. Nhân dân bền bỉ hi sinh dựng nước và giữ
nước để có nước Việt Nam hôm nay không bao giờ được Đảng nhắc đến bằng
một khẩu hiệu khiêm nhường. Tổ quốc thiêng liêng cũng bị lãng quên. Từ
khi đảng thâu tóm đất nước trong tay, đất nước gấm vóc, nhân dân cần cù
sáng tạo nhưng xã hội Việt Nam càng ngày càng tụt lại sau so với các
nước vậy mà từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến chót mũi Năm Căn, Cà Mau, nơi
nào cũng thấy hàng chữ cao ngạo Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm! Muôn
năm cả cái Xã hội chủ nghĩa hư vô, không có thật. Chủ nghĩa xã hội
không có thật đã gây bao đau khổ và nhiều nợ máu với nhân dân mà vẫn
muôn năm: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm! Còn nhân dân hết đời này đến đời khác lấy máu viết lên chữ Việt Nam thì Đảng không cần biết tới, thì chỉ là hư vô!
Với
người còn tư duy bình thường, còn phân biệt được cái riêng, cái chung,
cái tầm thường, cái cao cả thì phải hiểu Tổ quốc là giá trị tinh thần
thiêng liêng, cao cả, bất biến, vĩnh hằng của cả dân tộc. Đảng chỉ là tổ
chức chính trị bình thường, biến động và nhất thời của riêng một số
người, là vô cùng nhỏ bé so với nhân dân, dân tộc, Tổ quốc. Một Đảng
phải tồn tại bằng bạo lực, phải lấy tiền thuế của dân nuôi một bộ máy
công an khổng lồ chỉ biết còn đảng còn mình để trấn áp tiếng nói
tự do dân chủ của dân để duy trì sự tồn tại của Đảng, một Đảng đạp vào
mặt dân và bỏ tù trí thức chỉ vì trí thức nói sự thật thì Đảng đó không
còn bình thường nữa mà đã là tầm thường rồi. Đưa lá cờ của Đảng dù đang
cầm quyền nhưng cũng chỉ là tổ chức chính trị nhất thời, nhỏ bé, tầm
thường của riêng một số người lên ngang hàng lá cờ Tổ quốc thiêng liêng
của cả dân tộc là sự cao ngạo đến mức không còn biết đến chữ Lễ, chữ
Nhân.
Cao
ngạo như vậy làm sao thấy được sự thật! Cao ngạo như vậy làm sao đến
được với những lo toan, vất vả, khổ đau của dân! Cao ngạo như vậy nên ai
thẳng thắn nói điều trái ý Đảng, đụng đến cái sai, cái yếu của Đảng,
của Nhà nước, đều bị Đảng khép vào tội tuyên truyền chống Nhà nước của
Đảng, đều bị Đảng trừng trị khắc nghiệt. Nhưng ngục tù chỉ có thể giam
cầm được thân xác Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hoàng Cầm, Tuân Nguyễn,
Hoàng Minh Chính, Hà Sĩ Phu, Phạm Quế Dương, Lê Công Định, Trần Huỳnh
Duy Thức, Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ, Tạ Phong Tần, Bùi Minh Hằng .
. . , không giam cầm được tư tưởng của họ. Bạo lực chuyên chính vô sản
chỉ có thể bịt miệng được người dân, không bịt miệng được lịch sử.
Trước sau lịch sử Việt Nam cũng phải ghi những trang đau buồn rằng đảng
Cộng sản Việt Nam đã kéo lùi lịch sử phát triển dân tộc, đã biến cả dân
tộc Việt Nam thành bầy đàn nô lệ của Đảng, đã biến dân tộc Việt Nam văn
hiến, tồn tại bằng đùm bọc thương yêu thành dân tộc li tán, hận thù, bạo
lực! Và những người Việt Nam có Cái Tôi bị chà đạp, bị giết chết tức
tưởi là những chứng nhân hùng hồn xác nhận điều đó.
(Còn tiếp)Copy từ: Huỳnh Ngọc Chênh’ blog
..............
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét