Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 Giữ nguyên tên nước CHXHCN Việt Nam
TPO - Chiều 20/5, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung
Lý trình bày trước Quốc hội “Báo cáo về việc giải trình, tiếp thu,
chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân
dân”.
“Báo cáo về việc giải trình, tiếp thu,
chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân
dân” đề nghị giữ tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. |
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Báo cáo cho biết, về tên nước qua tổng hợp, có nhiều ý
kiến nhân dân đóng góp về vấn đề này. Nhìn chung các ý kiến cho rằng
Điều 1 của Dự thảo đã thể hiện rõ những tiêu chí cơ bản của Nhà
nước như tên nước, hình thức chính thể, chủ quyền quốc gia. Riêng về
tên nước, còn có các loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đa số ý kiến đề nghị tiếp tục
quy định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tên
gọi này ra đời trong bối cảnh nước ta vừa hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng
định rõ con đường, mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN)
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tên gọi này đã được sử dụng ổn định
từ tháng 7 năm 1976 đến nay, đã được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp
năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Hơn nữa, việc thay đổi tên nước trong
thời điểm hiện nay sẽ dẫn đến những hệ quả không có lợi, thậm chí có thể
bị xuyên tạc là ta đang xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội
và làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính, gây tốn kém, phức tạp.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị lấy lại tên gọi Việt
Nam dân chủ cộng hòa vì tên gọi này gắn liền với sự ra đời
của chính thể cộng hòa đầu tiên ở nước ta, là thành quả của cuộc
cách mạng giành độc lập tháng Tám năm 1945. Tên gọi này đã được
chính thức ghi nhận trong Bản tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh
tuyên đọc ngày 02 tháng 9 năm 1945 và tiếp tục được khẳng định trong
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, thể hiện rõ thể chế chính trị
của nước ta là cộng hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ.
Ý kiến này cho rằng, việc lựa chọn tên nước là Việt Nam
dân chủ cộng hòa không làm ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội của nước ta vì Lời nói đầu cũng như các quy định khác của
Dự thảo đều khẳng định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngoài
ra, cũng có ý kiến đề nghị một số tên gọi khác.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, Ủy ban
DTSĐHP nhận thấy, tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc
Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thể hiện rõ chính thể của nước ta là cộng
hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ.
Tuy nhiên, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhằm tiếp tục khẳng định mục tiêu, con đường xây dựng
và phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm tính ổn định,
tránh việc phải thay đổi về quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên các văn
bản, giấy tờ. Hơn nữa, trải qua 37 năm, tên gọi này đã trở nên quen
thuộc đối với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.
Giữ Điều 4
Báo cáo cho biết về cơ bản, ý kiến nhân dân tán thành
việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội,
tán thành bổ sung quy định Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết
định của mình. Qua tổng hợp, nhân dân tập trung góp nhiều ý kiến về cách
thể hiện Điều 4, cụ thể như sau:
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và là người phát ngôn của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 Phan Trung Lý. |
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với nội dung Điều 4 như
trong Dự thảo đã công bố vì đã thể hiện một cách đầy đủ các nội dung và
tinh thần của Cương lĩnh, Điều lệ Đảng về bản chất giai cấp, nền tảng tư
tưởng của Đảng.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị viết lại một cách khái
quát, cô đọng tránh trùng lặp; chỉ cần khẳng định vai trò của Đảng trong
Hiến pháp là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, còn những nội dung
quy định về bản chất, nền tảng tư tưởng của Đảng đã được khẳng định
trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, không cần thiết phải quy định lại
trong Hiến pháp. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị không quy định Điều
4 vì Đảng là tổ chức chính trị, được tổ chức và hoạt động theo Cương
lĩnh và Điều lệ.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau:
Trước hết, cần khẳng định rằng, việc giữ Điều 4 quy định về vai trò lãnh
đạo của Đảng là cần thiết. Quy định này là kế thừa quy định tại Điều 4
của Hiến pháp hiện hành, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách
quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của nước ta. Dự thảo đã bổ sung quy định về bản chất của Đảng
theo tinh thần mới của Cương lĩnh, đó là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. Chính
do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên nhân dân ta mới
thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng và ghi nhận vào
Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ Điều 4 như Dự thảo đã công bố.
Không đưa vấn đề ban hành luật về Đảng
Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội, cơ chế chịu trách nhiệm của Đảng và cơ
chế để nhân dân giám sát Đảng. Ý kiến này đề nghị cần có Luật về Đảng
Cộng sản Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Đảng thực thi vai trò, sứ
mệnh lịch sử của mình đối với Nhà nước và xã hội, tạo sự minh bạch trong
hoạt động của Đảng, tạo cơ sở cho nhân dân giám sát hoạt động của tổ
chức Đảng và đảng viên.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Đảng ta là Đảng
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo thông qua Cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng và chính sách, chủ trương
lớn của mình... Cách thức, nội dung lãnh đạo được thể hiện linh
hoạt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Bên
cạnh đó, quy định mọi tổ chức Đảng, đảng viên hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật hiện đã là một bảo đảm quan trọng để
nhân dân có điều kiện giám sát, giúp cho Đảng ta ngày càng trong sạch,
vững mạnh hơn, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Hơn nữa, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
cũng là vấn đề đang được tổng kết, nghiên cứu. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề
nghị Quốc hội không đưa vấn đề ban hành luật về Đảng vào Dự thảo
Hiến pháp.
"Sở hữu toàn dân" về đất đai
Báo cáo cho biết qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến về sở hữu đất đai như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đa số ý kiến tán thành với quy
định của Dự thảo. Loại ý kiến này cho rằng quy định đất đai, các tài
nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý... thuộc sở
hữu toàn dân là phù hợp.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị đa dạng hóa sở hữu đất đai,
trong đó có sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhân về
đất ở. Ý kiến này cho rằng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là
không rõ về chủ thể sở hữu.
Loại ý kiến thứ ba đề nghị tách thành hai điều, một
điều quy định về sở hữu toàn dân, một điều quy định về sở hữu nhà nước. Ý
kiến này cho rằng, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đất đai là tài
nguyên quốc gia – thuộc sở hữu toàn dân với những đất đai mà toàn dân đã
giao cho Nhà nước – một chủ thể cụ thể quản lý, sở hữu.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội vấn đề này như sau: Quy
định đất đai, các tài nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu
tư, quản lý... thuộc sở hữu toàn dân là quan điểm nhất quán của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta đã được xác định từ năm 1980 đến nay.
Vấn đề sở hữu về đất đai không chỉ là vấn đề kinh tế
mà còn là vấn đề chính trị - xã hội. Để làm rõ hơn nội dung này, Dự thảo
đã xác định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở
vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các
tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Vì vậy, đề
nghị giữ nguyên cách dùng khái niệm “sở hữu toàn dân” và không quy định
đa sở hữu về đất đai.
N.C.KHANH
Copy từ: Tiền Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét