Ba Sàm:
Người dân, nhất là người ở trong nước, KHÔNG MƠ “về một cơ chế chính trị đa nguyên đa đảng” đâu, mà đang giúp nhau hiểu sự cần thiết phải có nó, giúp cả những người trong bộ máy đảng, chính quyền còn thiếu kiến thức, lo sợ vu vơ, cũng như tiêu chí của trang Ba Sàm này nêu ra trong lời TUYÊN NGÔN – cùng nhau nâng cao dân trí để PHÁ VÒNG NÔ LỆ. Họ đấu tranh dấn bước từng chút một, đối mặt với hy sinh mất mát, bắt những kẻ ngoan cố trong hàng ngũ chóp bu của ĐCSVN phải sớm tỉnh ngộ, chấp nhận thay đổi dần theo hướng dân chủ toàn xã hội trước khi quá muộn.
Nếu như kết quả bầu bổ sung vào Bộ chính trị đúng như những tin đồn trên mạng tự do một ngày qua, thì đó cũng thể hiện một phần nào cái giá phải trả đối với TBT Nguyễn Phú Trọng khi không biết tranh thủ lòng dân trong cuộc chiến chống tham nhũng. Vừa muốn khư khư ôm giữ chính cái hệ thống quái đản đẻ ra những quái vật, trong đó có chính mình, lại vừa muốn “bắt sâu”, tiêu diệt quái vật. Thật chẳng có gì giả dối và khôi hài hơn!
Cách đây 1/4 thế kỷ, tôi – BS – trong bài viết “Vì vận mệnh Dân tộc, hãy hy sinh quyền lợi của Đảng“, dưới bút danh Hữu Hiếu, đăng trên báo Đất Việt của Hội Người Việt Nam ở Canada, đã đề cập vấn đề trên. Trong đó có nói đến biện pháp tốt nhất là ĐCSVN phải dần dần giảm bớt quyền lực, thu nhỏ bộ máy từ trung ương đến địa phương, để mở đường tiến tới một thể chế đa nguyên đa đảng trong tương lai.
Nguyễn Duy Vinh (TS Cơ khí động học về hưu và đang dạy học tại Châu Phi)
Nhân
mấy hốm nay có nhiều bài viết về hiến pháp Việt Nam trên mạng, tôi đọc
và sửa lại đôi chút bài viết này để xin phát biểu cái nhìn của mình. Tôi
chỉ chú trọng đến những thay đổi cơ bản và đột ngột của các văn bản
hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 và tôi sẽ không bàn đến tính cách hợp
hiến hay không hợp hiến cũng như giá trị pháp lý của những văn bản nêu
trên.
Trước tiên tôi cũng xin được phép nói qua
về hai chữ “hiến pháp”. Theo một số các chuyên gia về luật và các nhà
soạn thảo hiến pháp, hiến pháp của một quốc gia là một hợp đồng hay có
thể gọi nôm na là giao kèo giữa người dân và nhà cầm quyền. Giao kèo này
quy định việc gì mỗi bên được làm và không được làm, nhưng quan trọng
hơn hết là giao kèo đó giới hạn quyền lực của nhà cầm quyền trong khi
quản lý việc nước. Nhìn trên phương diện ba quyền biệt lập (tam quyền
phân lập) theo cấu trúc của sự phân chia quyền lực minh bạch ở những
nước dân chủ Tây phương (những quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp),
quốc hội là cơ quan lập pháp quy tụ toàn thể dân biểu đại diện dân có
quyền soạn thảo, sửa đổi và bổ sung hiến pháp. Tuy nhiên, ở đây phải nói
ngay là hiến pháp dù có hay cách mấy mà không được tôn trọng thì tính
cách dân chủ hay việc giới hạn quyền lực của nhà nước cũng bị lung lay.
Đi
ngược dòng lịch sử, chúng ta biết rằng tư tưởng dân chủ và các cố gắng
nhằm xây dựng một hiến pháp dân chủ cho Việt Nam đã manh nha từ những
năm đầu của thế kỷ thứ 20 (xin đọc lại những tác phẩm của Phan Châu
Trinh, Phan Bội Châu, v.v.) và những tư tưởng này đã từng là ngọn đuốc
soi đường cho nhiều đảng phái chính trị Việt Nam. Văn bản hiến pháp 1946
ra đời vào cuối tháng 11 năm 1946 có thể coi là một điểm son trong quá
trình xây dựng dân chủ ở nước ta.
Hiến pháp 1946
đã được xây dựng trên 3 nguyên tắc dân chủ có thể cho là tiến bộ vào
thời điểm đặc biệt của cuộc tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt
Nam: đoàn kết dân tộc, bảo đảm các quyền tự do căn bản và xây dựng một
nhà nước pháp trị. Bản hiến pháp này có đủ những điều khoản ghi rõ quyền
tự do bầu cử và ứng cử, quyền tư hữu của công dân và nhất là quyền phúc
quyết của người dân (trưng cầu dân ý) về văn bản hoặc bất cứ điều khoản
nào của hiến pháp. Văn bản 1946 ghi rõ các quyền: tự do ngôn luận, tự
do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú,
đi lại trong nước và ngoài nước. Ngoài ra khi tòa án (tức là quyền tư
pháp) chưa quyết định thì nhà nước không được bắt bớ và giam cầm người
dân. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một
cách trái pháp luật.
Tuy nhiên hiến pháp 1946
cũng có vài kẽ hở. Một trong những kẽ hở quan trọng, theo các nhà chuyên
soạn thảo luật, là Hiến Pháp 1946 đã không đề ra một cơ quan có thẩm
quyền phán quyết về tính cách hợp hiến hay bất hợp hiến của các đaọ luật
hoặc những nghị quyết do nhà cầm quyền ban hành.
Kẽ
hở thứ hai của hiến pháp 1946 là điều khoản “Chủ tịch nước Việt Nam
không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc”. Điều
khoản này đặt Chủ tịch nước lên trên cả hiến pháp và hình như có tính
cách sửa soạn sự “lên ngôi” của một lãnh tụ đảng.
Và
sự ra đời của hiến pháp 1959 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể
được xem như kết quả của một tư duy cộng sản vẫn từng nhen nhúm âm ỉ từ
lâu nhưng nay mới có cơ hội thành hình. Các từ ngữ như Đảng Cộng sản
Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ, v.v. đã
đột ngột xuất hiện trong hiến pháp 1959. Và hiến pháp 1946 hoàn toàn
không còn dấu tích trong văn bản hiến pháp 1959. Xin chép lại dưới đây
một phần của văn bản 1959:
“Từ năm 1930, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao động
Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới. Cuộc đấu
tranh bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân dân ta chống ách
thống trị của đế quốc và phong kiến đã giành được thắng lợi vĩ đại…
Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược
hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên
đánh giặc cứu nước… Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt
Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhất
định sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà”…
Rồi
việc gì đến sẽ đến, sau năm 1979, tức là sau cuộc xung đột đẫm máu giữa
Việt Nam và Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho ra đời hiến pháp
1980 với những lời nhập đề hoàn toàn mới. Xin chép lại đây một đoạn của
lời mở đầu:
“Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đi con đường của Cách mạng tháng Mười Nga, nhân dân ta đã lần
lượt chiến thắng bọn đế quốc Nhật, Pháp, Mỹ và bè lũ tay sai của chúng,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân… nhưng lại phải đương đầu
với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở
Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã
giành thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây-Nam và chống bọn bá quyền
Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của mình….”.
Năm
1986, Tổng Bí Thư (TBT) Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn qua đời. Cùng
năm đó đại hội 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam bầu ông Nguyễn Văn Linh làm
TBT. Ông Nguyễn Văn Linh là một thành viên kỳ cựu của chi nhánh Nam Bộ
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Linh đã từng bí mật sang Trung Quốc (TQ)
gặp gỡ Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông trong thời kỳ chiến tranh Nam Bắc
Việt Nam trước 1975. Từ năm 1986 ông Linh đã có những cuộc gặp gỡ với
đại sứ TQ ở Việt Nam tại Hà Nội (Đại sứ Trương Đức Duy) ngay sau khi lên
chức TBT. Những cuộc gặp gỡ này không ngoài mục đích sửa soạn cho một
cuộc gặp gỡ bí mật giữa ông Nguyễn Văn Linh và TBT Đảng Cộng sản TQ là
ông Giang Trạch Dân vào năm 1991 tại Thành Đô (Tứ Xuyên, TQ). Một năm
sau cuộc gặp gỡ ở Thành Đô, TBT mới của Việt Nam (thay ông Linh) là ông
Đỗ Mười và ông Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt chính thức công
du Trung Quốc.
Hiến pháp 1992 ra đời ngay sau chuyến công du này và từ nay các từ ngữ ám chỉ đến bọn bá quyền TQ đã được hoàn toàn lấy đi:
“Từ
năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện… nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục
chiến đấu, với sự giúp đỡ quí báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, lập nên những chiến công
oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và
đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân”.
Tháng 2
năm 1999, lãnh tụ hai nước Việt Nam và TQ công bố một tuyên cáo chung
xác định mối giao hảo mới giữa TQ và Việt Nam trong đó 16 chữ vàng xuất
hiện. Từ nay hai nước sẽ có một mối quan hệ mới có tính cách “ổn định
lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, và hợp tác toàn
diện”.
Những sự kiện xảy ra gần đây, từ việc lấn
áp của TQ trong việc chia cắt biên giới Việt Trung, cho đến những cuộc
xâm lấn biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho thấy người bạn láng giềng
phương Bắc không phải là một người bạn tốt. Mộng bành trướng của đế quốc
TQ là một hiện thực.
Sự rụt rè và thiếu cứng
rắn trong việc chống đối những thao túng của TQ ở Biển Đông hiện nay của
nhà cầm quyền Việt Nam cho thấy có điều gì không ổn và vô cùng bí ẩn.
Đó là chưa kể việc cấm dân không được biểu tình chống đối TQ cũng như
việc dùng công an và côn đồ xã hội đen đàn áp những người tham dự các
cuộc xuống đường này. Về phía Bắc Việt Nam, những bia mộ tưởng niệm
những chiến tích của quân đội Việt Nam sau trận chiến đẫm máu với TQ năm
1979 cũng dần dà bị nhà nước Việt Nam xóa đi.
Bản
báo cáo hàng năm của cơ quan Human Rights Watch năm 2012 (World Report
2012) về Việt Nam (Việt Nam ) ghi nhận rõ ràng nhà nước Việt Nam có sách
nhiễu và khủng bố những người lên tiếng kêu gọi dân chủ và nhân quyền
cũng như những người xuống đường chống việc xâm chiếm biển đảo Hoàng Sa
và Trường Sa Việt Nam bởi TQ:
Chính phủ Việt
Nam đàn áp một cách có hệ thống các quyền tự do ngôn luận, lập hội và
nhóm họp ôn hòa. Các nhà văn, blogger và các nhà vận động nhân quyền độc
lập – những người lên tiếng chất vấn chính sách nhà nước, phát hiện
quan chức tham nhũng hoặc kêu gọi thay đổi chế độ độc đảng bằng các giải
pháp dân chủ thường xuyên bị công an sách nhiễu, theo dõi gắt gao, bị
giam giữ biệt lập trong thời gian dài đồng thời không được tiếp cận với
các nguồn trợ giúp pháp lý, và bị xử với các mức án ngày càng nặng hơn
với các tội danh mơ hồ về xâm phạm an ninh quốc gia. Công an thường tra
tấn can phạm để ép nhận tội và, trong một số vụ việc, đã sử dụng vũ lực
quá mức khi đối phó với những cuộc biểu tình đông người phản đối việc
cưỡng chiếm nơi ở, thu hồi đất đai hay bạo hành của công an. Các cuộc
biểu tình phản đối Trung Quốc ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong
năm 2011 bị công an giải tán, những người tham gia biểu tình bị đe dọa,
sách nhiễu, và một số trường hợp bị tạm giam trong một vài ngày. Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 11 tổ chức vào tháng giêng năm 2011 và
cuộc bầu cử Quốc Hội do nhà nước dàn dựng vào tháng Năm đã xác lập các
vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chính phủ trong năm năm tiếp theo.
Qua cả hai sự kiện nói trên, không hề thấy có dấu hiệu của bất kỳ một sự
cam kết nghiêm túc nào nhằm cải thiện thành tích nhân quyền kém cỏi của
Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình
vào tháng Bảy, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Bộ Công an và những nhân tố bảo
thủ khác.
Chỉ cần một đoạn văn ngắn của cơ
quan Human Rights Watch cho năm 2012 cũng đủ để nói lên một chuỗi liên
tục những ngày sống trong kềm kẹp và sợ hãi của người dân trong nước.
Một bất hạnh lớn cho cả một dân tộc.
Sự thao
túng độc quyền về cách cai trị cũng như những đàn áp đầy bạo lực gần đây
nhất với các vụ cưỡng chế đất đai cho thấy Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
là những khát vọng vẫn còn rất xa vời.
Khảo sát
sự thay đổi đột ngột của những văn bản hiến pháp Việt Nam từ năm 1946,
chúng ta có thể kết luận hiến pháp Việt Nam hiện nay tùy thuộc rất nhiều
vào hoàn cảnh chính trị có tính cách nhất thời. Sự thay đổi xoành xoạch
này cho thấy hiến pháp Việt Nam là một giao kèo lỏng lẻo và hời hợt.
Thêm vào đó, cách quản lý độc đoán với một nền cai trị pháp quyền dưới
sự kiểm soát của nhà nước hiện nay trong nước chắc chắn sẽ đưa đến những
cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng hơn trong tương lai.
Và
nếu chúng ta đọc kỹ bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng (TBT NPT),
đọc trước hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 02 tháng 05
năm 2013 tại Hà Nội, chúng ta có thể tiên đoán rằng những thay đổi sắp
đến của Hiến pháp 1992, nếu có, như nhà nước vẫn đang kêu gọi dân chúng
đóng góp vào Dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992, sẽ chỉ đi vào những chi
tiết nhỏ thôi. Phần quan trọng nhất mà đa số các nhà trí thức trong và
ngoài nước kêu gọi (tỉ dụ Kiến nghị 72), cũng như đa số các hội đoàn
Công giáo và Phật giáo trong và ngoài nước kêu gọi, sẽ không được nhà
nước coi trọng và bàn đến. Tôi xin chép lại một phần của bài phát biểu
của ông TBT NPT dưới đây để chứng minh cho điều tôi vừa viết:
Nhà
nước ta, tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nòng cốt là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp;
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
Tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến
pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự
cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất cao.
Đối với những vấn đề mới hoặc còn nhiều ý kiến khác nhau, Trung
ương cần xem xét, trao đổi thật kỹ để có phương án tiếp thu, giải
trình phù hợp.
Những ai còn mơ về một cơ
chế chính trị đa nguyên đa đảng, trong đó không có chỉ một đảng cai trị
như ở Việt Nam hiện nay, xin cứ tiếp tục mơ. Vì lấy đi “Điều 4 của Hiến
pháp 1992” sẽ không được đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay chấp nhận.
Dự
thảo sửa đổi hiến pháp 1992 của nhà nước Việt Nam nghe thì kêu to nhưng
trong ruột thực ra trống rỗng. Ai không tin chỉ việc đọc lại lời phát
biểu của TBT NPT trước hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 7
tại Hà Nội.
N. D. V.
Tác giả gửi trực tiếp cho: Bauxite Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét