Hai Bà Trưng "đánh giặc lạ, đánh bọn người xấu !"... |
* MINH
DIỆN
Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, xâm
lược
và bị xâm lược là một cặp phạm trù bất biến trong lịch sử chiến tranh
giải
phóng dân tộc. Nó đối kháng nhau, tầm
vóc, ý nghĩa của vế này tương phản với vế kia, là cái "điểm nổ" của
chiến tranh, tạo nên tầm cỡ lớn, nhỏ mang
tính đặc thù tùy hoàn cảnh cụ thể. Vế xâm lược bao giờ cũng gắn với
một danh từ
riêng, được xác lập cụ thể, nghĩa là nhìn tận mặt, chỉ rõ tên kẻ thù
không thể lập lờ đánh lận con đen, hoặc cố tình lảng tránh vì sự hèn
nhát, nhu
nhược của những kẻ bán nước chỉ biết cầu an, cũng coi như kẻ “lấy vinh
làm nhục”!
Thành Cát Tư Hãn trước khi xâm lược Khwarezmia (đầu TK 13),
đã đeo
mặt nạ hữu hảo gửi thư
cho vua Ala ad – Din Muhammad, cai trị nước
này: “ Tôi là chủ nhân của những vùng đất mặt trời mọc, ngài cai trị xứ mặt trời lặn,chúng ta cùng nhau xây dựng tình hữu nghị và nền hòa bình” .
Cái mặt nạ các nước mạnh “ăn chia thế giới” ấy chính Thành Cát Tư Hãn
ném đi khi ngồi trên mình ngựa, chỉ huy 300.000 quân, 100.000 kỵ binh
tràn sang Khwarezemia, và chỉ trong vòng hai
năm 1219-1221 đã giết hại hàng triệu người
dân Khwarezemia, từ đó Mông Cổ (giặc Nguyên Mông) nổi tiếng như những đế
quốc hung bạo nhất, khát máu nhất
thế giới, khắc sâu trong tâm khảm người thời
ấy, truyền đến tận ngày nay.
Những cuộc xâm lược vùng Địa Trung Hải suốt 16
thế kỉ của Đế quốc La Mã, lịch sử các dân tộc trong khu vực ghi rõ danh
tính của từng vị hoàng đế mang quân đi xâm lược, bắt đầu từ Augustus, dù thể chế
và mối quan hệ thay đổi.
Ngày 22-6-1941 phát xít Đức xâm lược Liên Xô. Nhân dân Liên Xô
nhìn rõ kẻ thù, đã bật dậy lòng yên nước, tiến hành một cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại, kết thúc thắng
lợi vào ngày 9-5-1945, sau khi lá cờ Liên bang Xô Viết lỗ chỗ vết đạn,
thấm
máu, được người lính Hồng quân Egorop cắm lên mái vòm tòa nhà quốc hội
Đức Reichtag,
giữa thủ đô Berlin. Trong cuộc chiến
tranh chống xâm lược ấy 8,6 triệu chiến sĩ Hồng quân đã huy sinh, 26,6
triệu
người các dân tộc Liên Bang Xô Viết bị chết. Riêng trận đánh cuối cùng,
chỉ trong một một ngày,
từ 30-4 đến 1-5-1945, đã có 81.000 binh
sỹ Hồng quân và 173.000 binh sỹ Đức thiệt mạng.
Dù thể chế chính trị, và các mối quan hệ đã
hoàn toàn thay đổi giữa các nước tham gia cuộc chiến tranh thế giới thứ
hai, nhưng cái tên Hitle và phát xít Đức
không thể xóa nhòa cùng với lòng căm thù
của nhân dân Liên Xô nói riêng, thế giới nói chung, đồng thời mọi người không quên
những người chiến sỹ chống phát xít.
Lịch sử Việt Nam
trải qua mấy ngàn năm chống xâm lược, ông
cha ta chỉ mặt đặt tên, vạch rõ bản chất quân xâm xâm lược. Trong Hịch tướng sỹ, Trần
Hưng Đạo viết: “Trông thấy sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường uốn lưỡi cú diều
mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó bắt nạt tể phụ, lại cậy thế Hốt Tất Liệt
đòi ngọc lụa, ỷ thế Vân Nam vương để vét bạc vàng!...”.
Hưng Đạo Vương không ngại ngần trước thế lực nước lớn, không hề khiếp sợ,
lảng tránh, không xu nịnh cầu an để hưởng vinh hoa phú quý, dù khi đó Người làm
điều đó dễ như trở bàn tay.
Trước Hưng Đạo Vương tổ tiên ta cũng đã hành xử như thế, và sau này, ông cha ta cũng hành xử như thế.
Hơn 1.500 năm trước Công nguyên,
giặc Ân (nhà Thương) sang xâm lược nước ta. Năm 218 -208 trước Công nguyên, sử
sách ta ghí bọn xâm lược nước ta là nhà
Tần. Năm 179 trước công nguyên nhà Triệu. Tiếp sau đó, đục chữ vào bia đá cho
con cháu đời sau ghi nhớ: Đông Ngô xâm lược nước ta năm 248. Nhà Lưu xâm lược
nước ta năm 468. Nhà Lương xâm lược nước ta năm 545. Nhà Đường xâm lược nước ta
lần thứ nhất năm 687, lần thứ hai năm 722, lần thứ ba năm 791. Nhà Hán xâm lược
nước ta lần thứ nhất năm 40 sau CN, tiếp đến quân Nam Hán lần thứ hai vào năm
930, lần thứ ba 938. Nhà Tống xâm lược lần
thứ nhất năm 981, lần thứ hai năm 1077. Quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất
năm 1258, lần thứ hai năm 1285, lần thứ ba năm 1287. Quân Minh xâm lược nước ta
lần thứ nhất năm 1406, lần thứ hai năm 1407, lần thứ ba năm 1418. Quân Thanh
xâm lược nước ta năm 1788. Thưc dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ nhất năm 1858...
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Hồ Chủ tịch năm 1946, danh chính ngôn thuận, vì ông nói rõ kẻ thù của dân tộc là thực dân Pháp muốn chiếm nước ta một
lần nữa. Vì danh chính ngôn thuận như vậy, Hồ Chủ
tịch quy tụ được “toàn dân, toàn diện
dân tộc Việt Nam
đánh Pháp giải phóng dân tộc”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cặp phạm trù xâm lược và bị xâm lược được tô đậm hơn, trở thành biểu trưng không chỉ riêng ở Việt Nam. Ngay tại
thủ đô Wasington, người Mỹ cũng xuống đường phản đối chiến tranh , ủng hộ Việt Nam.
Ngày 17-2-1979, Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
Đánh giá về bản chất cuộc chiến
tranh ấy, Tạp chí Cộng sản số 3 năm 1979 đã viết: “Cuộc chiến tranh xâm lược do bọn cầm
quyền phản động Trung Quốc gây ra, đã ngang nhiên xâm phạm độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chà đạp lên mọi tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế,
và những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước độc lập có chủ quyền. Cuộc
chiến tranh Trung Quốc gây ra là cuộc chiến tranh bẩn thỉu, đê hèn, chống lại
nhân dân một nước xã hội chủ nghĩa từng có quan hệ hữu nghị với Trung Quốc…”.
Tạp
chí này vạch tội ác bọn xâm lược Trung Quốc: “Chúng huy động hơn một nửa triệu
quân, chúng đã đốt phá làng bản, cướp bóc của cải, giết người già, hãm hiếp phụ
nữ, gây ra tội ác trời không dung đất không tha…”
Trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân Việt
Nam đã : “ Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và lệnh Tổng động viên
của Chủ tịch Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân dân ta từ Bắc chí
Nam, ức triệu người như một, nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Cả nước
ta hướng về tiền tiến phía Bắc, sục sôi căm thù, tăng cường sẵn sàng chiến đấu,
ra sức lao động quên mình, quyết tâm đánh thắng hoàn toàn quân Trung Quốc xâm
lược…” (Trích lời kêu gọi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
Cũng như ông cha ta thuở trước, Đảng cộng sản
Việt Nam đã chỉ mặt, điểm tên kẻ thù xâm lược là bọn bành chướng bá quyền Trung Quốc, vạch tội
ác của chúng và kêu gọi toàn dân đoàn kết
chung quanh đảng , phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, quyết tâm đánh thắng
bọn xâm lược, bảo vệ Tổ Quốc.
Người anh hùng Lê Đình
Chinh đã ngã xuống vì trách nhiệm và niềm
tự hào ấy. Tiếp theo anh, hàng chục ngàn chiến sỹ
Quân đội nhân dân Việt Nam
đã ngã xuống cũng vì nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ Quốc, vì lời
hiệu triệu của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trung Quốc đã huy động hơn nửa triệu quân, 550 xe tăng, 480 khẩu
pháo, 1700 máy bay, 1020 súng cối, 200 tàu chiến, dưới sự chỉ huy của những tên tướng nổi tiếng như Hứa
Thế Hữu, Dương Đắc Chí, được đích thân Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong trao quân lệnh
chỉ huy xâm lược nước ta.
Binh lực và quân lực Trung
Quốc đổ vào cuộc chiến tranh xâm lược Viện
Nam ngày 17-2-1979, chỉ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1951
do nước này tiến hành. Một cuộc chiến
tranh quy mộ như thế, lằn ranh kẻ xâm lược
và người bị xâm lược rõ ràng như thế, không thể lẫn lộn với một cuộc tranh chấp biên
giới, hay “ phản ứng tự vệ”như Trung Quốc biên bạch.
Nhưng bây giờ, người ta đang
sử dụng những mỹ từ đó để đánh tráo khái niệm, phủ nhận lịch sử, xuê xoa kẻ xâm
lược, hạ thấp công lao, bôi xóa chiến tích và quên lãng máu xương người lính hy
sinh ví Tổ Quốc.
Phạm trù “xâm lược” tráo thành “tranh chấp”,
“quân xâm lược” tráo thành “ bọn người xấu”, “côn đồ” cũng như sử dụng
những danh từ “tàu lạ” hoặc “làm đứt cáp” để thay cho việc chỉ đích danh tàu
Trung Quốc và “cắt cáp ngầm”. Những cặp
phạm trù bị đánh tráo ấy phủ nhận lịch sử,
biến cuộc kháng chiến được mô tả : “ Nhân dân từ Bắc chí Nam, ức triệu
người như một nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc “thành trò hế lố bịch!
Tấm bia căm thù của Sư
đoàn 337 ở Khánh khê trước kia ghi rõ “quân xâm lược Trung Quốc”, đã bị đập phần
ngọn, chữ “Quân xâm lược Trung Quốc” cũng trụi lủi luôn. Những tấm bia Sư đoàn 337 dựng sau này bên đền
tưởng niệm các liệt sĩ của Sư đoàn, chi sử dụng danh từ chung “quân xâm lược”.
Khi bộ mặt kẻ thù được bôi xóa đi như thế
thì ý nghĩa của cuộc khánh chiến và công lao, xương máu của những anh
hùng chiến sỹ chỉ còn là một bức tranh mờ
nhạt phủ đầy màng nhện! Cũng nhạt nhòa và chìm vào quên lãng như chiến công tiêu diệt và làm tan rã 18 sư
đoàn quân Polpot, cứu dân tộc Campuchia thoát nạn diệt chủng ?
Tôi đã được đọc bản kiến nghị
của các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam:
Thiếu tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó tư lệnh , Tham mưu trưởng Quân khu
2, Chỉ huy trưởng mặt trận Hà Giang.
Đại tá Tạ Cao Sơn, nguyên Tham mưu trưởng Quân
khu 2.
Đại tá
Quách Hải Lượng, nguyên Tùy viên quân sự ĐSQ Việt Nam tại Trung Quốc.
Đại tá Phạm Xuân Phương, nguyên Chuyên viên Tổng cục chính tri.
Nhà văn Phạm Viết Đào.
Những sỹ quan quân đội ấy
đã đưa ra bản kiến nghị 5 điểm về “Một
cuộc chiến tranh có nguy cơ bị bỏ quên”.
Tôi nghĩ đây không phải chỉ là một bản kiến nghị và không phải chỉ của 5
người, mà là ý nguyện, tran trở của toàn quân, toàn dân ta. Đây chính là một bản
cáo trạng dành cho những ai đã và đang cố tình đánh tráo khái niệm, xóa nhòa
ranh giới bạn thù, hưởng lợi trên xương máu những người lính đã ngã xuống. Đây
là tiếng nói của hảng ngàn cán bộ chiến sĩ tham gia chiến đấu chống bành trướng
Trung Quốc hiện còn sống, là tiếng vọng của linh hồn hàng ngàn liệt sĩ đã huy sinh trong cuộc chiến đấu đó.
Cuối tháng 12 năm 2012 vừa qua, Hà Nội tổ chức kỷ niệm trận “Điện
Biên Phủ trên không” rất đậm và hoành tráng. Những người lính trong trân chiến
đấu ấy được vinh danh, mối thù quân xâm lược Mỹ được khơi lại, và hình như muốn dằn măt một kẻ thù gần 40 năm
trước.
Sao không có một ngày như
thế để vinh danh những người anh hùng trên măt trận biên giới phía Bắc, phía
Nam, để tưởng nhớ hàng chục ngàn chiến sỹ đồng bào đã ngã xuống, để dằn mặt một
kẻ thù truyền kiếp, đã xâm lược nước ta và đang xâm lược nước ta.
Nhìn về xa xưa lịch sử của
dân tộc, khi nhận xét về Hai Bà Trưng, Sử gia Lê văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng
mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng,
việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta
đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô,
trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người
phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao?
Ôi ! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy”. Vua Tự Đức viết trong Khâm định Việt sử thông gám cương mục: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà
hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực
cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử
sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng
những mặt dày thẹn chết lắm !”.
Cái gọi là: “Tội ác trời không dung đất không tha của bọn phản động
Trung Quốc” không phải do bất kỳ thế lực thù địch nào nói ra, mà là Đảng cộng sản
Việt Nam chỉ cho nhân dân Việt
Nam.
Đó là một khái niệm đã khắc sâu trong trái tim khối óc người dân Việt Nam, là một vế
của một cặp phạm trù bất biến! Đánh tráo khái niệm, cắt khúc một vế của cặp phạm
trù nhằm, tẩy xóa gương mặt gian ác của kẻ thù thành gương mặt tử tế là phản bội
đê hèn, là tội ác với nhân dân. Hành vi tội ác, phản bội, lừa đảo đó cần phải
lên án mạnh mẽ.
Chẳng một ông X, ông Y, nào
có thể làm được điều đó, ngay cả một “bộ phân không nhỏ thoái hóa biến
chất” cũng không làm nổi việc đó.
Vậy là ai?
Câu hỏi đó hãy để cho mỗi người dân Việt Nam tự tìm hiểu và phán xét.
M.D
Copy từ: Bùi Văn Bồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét